ỉ Duy trì cải tạo tổ chức theo hướng điều hành tập trung, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa bộ phận chức năng và bộ phận sản xuất. Thông tin nhanh, phân công giải quyết kịp thời các trở ngại. Riêng với việc quản lý vốn lưu động thì sự kết hợp cần chặt chẽ hơn giữa phòng kế toán với phòng vật tư và bộ phận kho, giữa phòng kế toán với phòng kinh doanh và trung tâm tiếp thị.
ỉ Không ngừng nâng cao ý thức tổ chức, phong cách làm việc.
ỉ Chú trọng tạo điều kiện cho các cán bộ nhân viên học tập thêm, nâng cao trình độ tay nghề. áp dụng biện pháp kiểm tra trình độ của người lao động.
ỉ Giảm tối đa các chi phí quản lý doanh nghiệp để tăng lợi nhuận.
ỉ Có chế độ thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích người lao động phát huy Hết mức khả năng của mình cũng như có thêm trách nhiệm đối với công việc mình làm.
ỉ Tổ chức các hội nghị khách hàng để tiếp cận trực tiếp với người sử dụng sản phẩm và qua đó thăm dò nhu cầu.
ỉ Có chương trình nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, biết tính lỗ lãi một cách kịp thời để đề xuất các lĩnh vực kinh doanh có khả năng phát huy của Nhà máy.
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện công tác quản lý lao động trong toàn nhà máy. Nắm vững yêu cầu của sản xuất, tình hình cán bộ CNVC, giúp giám đốc bố trí, xây dựng bộ máy quản lý và bố trí sử dụng CBCNVC.
Tổ chức điều độ tiến độ và giải quyết những vấn đề về lương, bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Ngoài ra còn một số nhiệm vụ khác như đưa ra các kế hoạch bảo hộ lao động điều độ kế hoạch sản xuất hàng ngày giữa các phòng và các phân xưởng tổ chức an ninh trật tự trong nhà máy.
Trụ sở, chi nhánh.
Nhà máy rất coi trọng việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, chiến lược sản phẩm tiêu thụ cũng như chính sách thâm nhập vào thị trường, bằng mọi cách để mở 2 nhi nhánh ở 2 TP lớn là Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Đây là 2 nơi mà lượng rộng thị trường tiêu thụ. Ngoài trụ sở chính ở 61- Trần Phú- Hà Nội, nhà máy còn có hàng tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu.
Các phòng ban tiêu thụ sản phẩm.
2 tổ tiêu thụ sản phẩm theo chuyên ngành (PVC cứng, PVC mềm ).
3 phòng tiêu thụ sản phẩm:
Được đặt tại 3 miền Bắc- Trung- Nam. Đây không chỉ là nơi trưng bày sản phẩm của nhà máy, bán và giao dịch với khách hàng mà nó còn nhằm quảng cáo, khuyếch trương danh tiếng của nhà máy. Trong CCTT hiện nay nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Phòng ban kỹ thuật công nghệ.
Gồm các phòng ban có các chức năng sau:
Ban nguồn: Chuyên nghiên cứu lắp ráp các sản phẩm nguồn viễn thông.
Phòng điều độ sản xuất: là bộ phận giúp việc cho giám đốc trong công tác quản lý máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ trong toàn nhà máy và công tác điều độ sản xuất.
Phòng kỹ thuật: theo dõi thực hiện quy trình công nghệ và đảm bảo chất lượng sản phẩm, cùng với bộ phận tiêu thụ sản phẩm nghiên cứu, chế tạo sản phẩm, theo dõi lắp đặt và sửa chữa thiết bị, đưa ra kế hoạch mua sắm thiết bị công nghệ mới.
Phòng công nghệ: Quản lý, nghiên cứu máy móc thiết bị công nghệ, đề ra các phương án công nghệ để chế tạo những sản phẩm khuôn mẫu, cơ khí chíng xác.
Tổ kỹ thuật loa từ.
Phân xưởng chuyên sản xuất khuôn mẫu.
Các phân xưởng sản xuất
Gồm 12 phân xưởng với chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:
Phân xưởng 1: Là phân xưởng cơ khí, nhiệm vụ chính là chế tạo khuôn mẫu cho các phân xưởng khác.
Phân xưởng 2,4: Lắp ráp sản phẩm nhưng vẫn có nhiệm vụ đột, dập, sản xuất, chế tạo (Sơn hàn) cung cấp cho các phân xưởng khác.
Phân xưởng 3: Đây là phân xưởng sản xuất Ferit ở khu vực Thượng Đình, chuyên sản xuất loa, ngoài ra còn có tổ quấn biến áp, tổ cơ điện.
Phân xưởng 5: Là phân xưởng bưu chính, sản xuất những sản phẩm bưu chính như dấu nhật ấn, kìm niêm phong.
Phân xưởng 6: Chuyên sản xuất các sản phẩm ép nhựa, đúc và các sản phẩm đúc diện dân dụng.
Phân xưởng 7, 9: Chuyên sản xuất và lắp ráp các thiết bị điện tử, điện thoại hiện đại do toàn bộ lao động trẻ có kỹ thuật điều hành.
Phân xưởng 8: Có nhiệm vụ lắp ráp loa.
Phân xưởng sản xuất PVC cứng: là phân xưởng chuyên sản xuất các loại ống nhựa dùng cho chuyên ngành viễn thông để bảo vệ các đường dây thông tin liên lạc được chôn sâu trong lòng đất.
Phân xưởng PVC mềm: chuyên sản xuất các loại ống nhựa dân dụng dùng trong sinh hoạt như các loại ống nước, vỏ bảo vệ dây điện...
Các tổ chế thử.
Có nhiệm vụ đưa nguyên vật liệu chế tạo thử sản phẩm để kiểm nghiệm tính khả thi, độ tin cậy của người tiêu dùng trước khi tung sản phẩm ra thị trường. Có thể nói đây là một khâu quan trọng quyết định sự thành công của mỗi đợt sản phẩm mới trong chiến lược phát triển của nhà máy.
Nhìn chung, hệ thống tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của nhà máy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với điều kiện khách quan và chủ quan. Chính nhờ bộ máy tổ chức chặt chẽ như vậy mà doanh nghiệp đã đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực sản xuất chính của mình. Sản phẩm của nhà máy sản xuất ra được người tiêu dùng tin cậy, tạo cho nhà máy có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và tương lai sẽ có một chỗ đứng như vậy trên thị trường quốc tế. Đặc biệt nhà máy đã thành lập ra phòng đặc trách đầu tư phát triển sản xuất, phòng có nhiệm vụ thực hiện công tác đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, thiết bị công nghệ. Ngoài ra, phòng kỹ thuật lại nắm giữ nhiệm vụ quản lý, sửa chữa thiết bị và đua ra kế hoạch mua sắm thiết bị công nghệ mới. Công tác quản lý, sửa chữa, bảo hành thiết bị công nghệ của nhà máy được thực hiện toàn diện từ các phân xưởng đến các phòng ban chức năng.
2.3. Những đổi mới về quản trị và sản xuất kinh doanh của Nhà máy
Để phù hợp với xu thế hội nhập trong khu vực và trên thế giới, để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đầy biến động, năm 1998 Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 (1994). Việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO là một điều kiện tất yếu để hội nhập, bởi trong xu thế hội nhập hiện nay khi hàng rào thuế quan giữa các nước dần được xoá bỏ thì hàng rào phi thuế quan giữa các nước lại được dựng lên. Do vậy việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO sẽ giúp cho sản phẩm của Nhà máy có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Năm 2000, Nhà máy đã chuyển sang áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 .
Cùng với việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 (2000 ), quy mô của Nhà máy không ngừng được mở rộng, do vậy công việc của Ban Giám đốc cũng nhiều lên. Trước năm 1999, Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và1 Phó giám đốc phụ trách về cả kinh doanh và kỹ thuật. Nhưng đến năm 1999 do tính chất của công việc đòi hỏi, Ban Giám đốc của Nhà máy gồm 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc: 1 Phó giám đốc phụ trách về kinh doanh và 1 Phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật. Nhờ có sự phân công trách nhiệm giữa các Phó giám đốc nên các công việc được giải quyết nhanh gọn hơn trước.
Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của nhà máy chủ yếu là tiêu thụ trong ngành, ngành Bưu chính viễn thông ở Việt nam là một ngành độc quyền của nhà nước. Do vậy chính sách xúc tiến bán hàng cũng có những đặc điểm riêng, xúc tiến bán hàng là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tăng doanh số bán bằng những lợi ích vật chất bổ xung cho người mua. Xúc tiến bán hàng suất phát từ mục tiêu Marketing của nhà máy, dựa trên đặc điểm tiêu thụ sản phẩm các hoạt động quảng cáo của Nhà máy được tiến hành nhưng không rầm rộ, phương tiện chính là một số báo, các tạp chí chuyên ngành... Nhà máy lựa chọn phương tiện xúc tiến bán chủ yếu là hội nghị khách hàng và hội chợ, triển lãm thương mại và các cuộc viếng thăm, qua đó nhà máy giới thiệu sản phẩm của nhà máy với các khách hàng và công chúng. Sản phẩm của nhà máy được giới thiệu thông qua các hội thảo về sản phẩm tại nhà máy và các cuộc hội thảo ngành, mục đích là giới thiệu sản phẩm với các cơ quan hữu quan. Ngoài ra nhà máy còn sử dụng nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy người tiêu dùng: gửi thư kèm cataloge tới những khách hàng quen cùng với thông điệp quảng cáo hoặc một số câu hỏi về sản phẩm mà Nhà máy cần biết. Phương thức hiệu quả được áp dụng đó là phiếu thưởng dành cho những khách hàng lớn chung thủy với nhà máy ngoài ra còn hình thức quà tặng và những chính sách làm tăng cường sự hợp tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các nhà phân phối như bán buôn bán lẻ, các đại lý...
2.4. Năng lực về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh
Những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy đã từng bước phát triền về mọi mặt. Cùng với sự giúp đỡ của Tổng cục Bưu Điện ( nay là Bộ Bưu Chính -Viễn Thông ), các cơ quan ban nghành và sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà Nước, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã đạt được một số thành tựu, đóng góp một phần vào công cuộc CNH - HĐH đất nước.
Từ năm 1994 đến nay là khoảng thời gian ngắn cho sự phát triển của một doanh nghiệp, Nhà máy đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất kinh doanh. Tình hình cụ thể được khái quát trong bảng sau.
Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản về năng lực tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh mà nhà máy đạt được trong bốn năm qua ( 1999 -2002).
Số liệu trong bài viết này đều được làm tròn và đơn vị sử dụng là Triệu đồng
Bảng 1 : Năng lực tài chính và một số kết quả sản xuất kinh doanh chính
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
I.Chỉ tiêu cơ bản
1.Tài sản cố định
2.Tài sản lưu động
3.Vốn chủ sở hữu
4.Các khoản phải thu
5.Các khoản phải trả
6.Tổng doanh thu
7.Tổng lợi nhuận
II.Các khoản nộp NSNN
1.Thuế GTGT
2.Thuế thu nhập DN
3.Thuế khác
34.090
101.570
37.250
57.735
98.530
145.956
9.377
35.476
27.092
1.983
6.401
20.060
97.208
41.064
39.753
77.205
49.714
8.847
28.892
20.153
3.053
5.686
35.459
105.518
46.235
50.553
94.742
153.395
9.647
21.536
9.773
3.537
8.226
42.659
113.318
52.735
57.654
103.242 200.948
11.616
36.481
25.368
3.861
7.652
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Kết quả kinh doanh trong bốn năm 1999 -2002 ổn định và tăng trưởng.Nhà máy đã bảo toàn và phát triển được nguồn vốn kinh doanh.
Doanh thu của nhà máy có xu thế tăng trong các năm. Đây là một xu thế rất tốt bởi vì trong nền kinh tế của nước ta hiện nay có sự cạnh tranh rất gay gắt giữa các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử. Xu thế này thể hiện khả năng sử dụng các loại máy móc thiết bị, con người,...phù hợp với những biến động của thị trường trong nước và trên thế giới.
Nguồn vốn chủ sở hữu của nhà máy cũng có xu hướng tăng đều qua các năm. Các khoản phải thu giảm trong năm 2000, nhưng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002.
Các khoản phải trả cũng giảm trong năm 2000, nhưng cũng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002. Đây là một đặc điểm trong kinh doanh, các doanh nghiệp lợi dụng vốn của nhau để sản xuất kinh doanh. Xu thế của các khoản phải thu và các khoản phải trả giống nhau chứng tỏ nhà máy cũng rất quan tâm tới việc thanh toán cho nhà cung cấp, khách hàng và cán bộ công nhân viên.
Hàng năm, nhà máy nộp ngân sách một khoản khá lớn trên dưới 30 tỷ đồng, thông qua các loại thuế. Năm 2000 và năm 2001 khoản nộp ngân sách giảm là do sự miễn giảm thuế của Chính phủ đối với một số loại thuế và cũng do số lượng linh kiện điện tử được nhập vào giảm đi.
Lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm vào năm 2000 là do nhà máy bị thua lỗ quá lớn trong hoạt động đầu tư tài chính, nhưng lợi nhuận có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và năm 2002, điều đó thể hiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh, đồng thời thể hiện khả năng lãnh đạo của ban giám đốc cùng các trưởng phòng và sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ tập thể công nhân viên trong toàn nhà máy.
Với phương thức sản xuất kinh doanh là chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã thu hút được nhiều khách hàng trong nước và ngoài nước. Là một trong nhiều cơ sở thuộc công nghiệp của ngành Bưu chính viễn thông, sản phẩm của Nhà máy được sản xuất theo yêu cầu của Bộ Bưu chính- Viễn thông phục vụ nhu cầu ngành (85%), ngoài ra Nhà máy còn đa dạng hoá sản phẩm phục vụ nhu cầu ngoài ngành (15%).
Sản lượng các sản phẩm chủ yếu của Nhà máy trong năm 2002:
Bảng 2: Sản lượng sản phẩm chủ yếu trong năm 2002
Sản phẩm
Công suất
Máy điện thoại các loại
400.000 sản phẩm / năm
Thiết bị nguồn điện
600.000 sản phẩm / năm
Thiết bị điện tử mạng ngoại vi
17.000.000 đường dây / năm
Chi tiết cơ khí viễn thông
20.000 sản phẩm / năm
Sản phẩm bưu chính
600.000 sản phẩm / năm
( Nguồn: Phòng kinh doanh - Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện)
II. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
1. Đặc điểm của nghành
Ngành Bưu điện là ngành được Nhà nước ưu tiên phát triển với các chiến lược phát triển tăng tốc, đặt ra nhiều mục tiêu phấn đấu trong tương lai. Để xã hội ta trở thành một xã hội hoá thông tin trong thế kỷ tới, trước mắt là mục tiêu phát triển mạng thông tin rộng khắp đến tất cả các huyện, các xã vùng sâu vùng xa (100% số xã trên toàn quốc có máy điện thoại). Để thực hiện mục tiêu đó trong những năm qua Nhà nước đầu tư rất nhiều cho các doanh nghiệp trong ngành. Đây là thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp này.
Các sản phẩm sử dụng trong lĩnh vực này đều do các doanh nghiệp trong ngành cung cấp. Với chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện thì thị trường cho các doanh nghiệp này sẽ được mở rộng. Cầu sẽ tăng, đặc biệt là cầu về máy điện thoại, cầu về tủ cáp, hộp đấu dây thuê bao, cabin đàm thoại v.v.. đây là cơ hội tốt cho nhà máy vì các sản phẩm trên đều do nhà máy sản xuất và cung cấp. Hơn nữa đây là một ngành độc quyền của Nhà nước, nên môi trường cạnh tranh không gay gắt, các đối thủ của nhà máy chỉ một số ít các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đối với một số sản phẩm như các sản phẩm nhựa, máy điện thoại. Nhưng cũng chính điều này sẽ tạo ra sức ép cho nhà máy nếu Ban lãnh đạo không năng động trong kinh doanh, nắm bắt những biến đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Thị trường này sẽ trở nên sôi động và sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA, sự xâm nhập của các hãng nước ngoài là điều tất yếu. Để trụ vững trong hoàn cảnh đó đòi hỏi nhà máy ngay từ bây giờ không được ỷ lại vào thế độc quyền, luôn luôn phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm .
2. Đặc điểm về mặt hàng và thị trường
Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện chuyên sản xuất và kinh doanh các thiết bị phục vụ cho ngành Bưu chính - Viễn thông, do đó hầu hết các sản phẩm sản xuất ra mang tính độc quyền trên thị trường ( tủ cáp, cabin đàm thoại...) ngoài ra cũng có một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng dân dụng nhưng chỉ chiếm 1 tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị sản lượng của Nhà máy.Đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng cũng như thị hiếu luôn thay đổi của khách hàng, nhà máy đã không ngừng tiến hành đa dạng hoá sản phẩm.
Từ khi chính thức được thành lập đến nay, nhà máy đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng, chiều sâu, đổi mới trang thiết bị dây chuyền lắp ráp để tăng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, ngày càng đáp ứng cao hơn thị hiếu của khách hàng. Sản phẩm hiện nay của nhà máy rất phong phú và đa dạng (trên 400 mặt hàng), chia làm hai loại chính là sản phẩm chế tạo và sản phẩm lắp ráp, bao gồm các sản p hẩm như: máy điện thoại các loại, thiết bị bưu chính, tổng đài các loại, thiết bị đầu cuối, ống nhựa luồn cấp các loại, sản phẩm nhựa dân dụng, sản phẩm điện dân dụng, loa các loại, thiết bị bảo an (chống sét, chống chập điện), thiết bị nguồn (nguồn 48v, nguồn một chiều các loại), các sản phẩm cơ khí khác...
Nhìn chung các sản phẩm trên có tính năng sử dụng tốt, hệ số an toàn cao, đã chiếm được niềm tin của khách hàng. đây chính là yếu tố tiên quyết tạo tiền đề phát triển cho nhà máy trong nền kinh tế thị trường.
Thị trường tiêu thụ của Nhà máy rất lớn, hầu như khắp đất nước. Do có nhiều sản phẩm mang tính chất độc quyền nên thị phần của Nhà máy rất lớn, với các sản phẩm như Cabin đàm thoại, tủ đầu nối, cân điện tử, dấu nhật ấn ... của nhà máy chiếm tới 95% thị trường. Nhà máy đã thực hiện đầu tư thiết bị công nghệ mới để tăng năng suất lao động, tăng năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững và mở rộng thị trường. Ngoài hai thị trường truyền thống là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sản phẩm của nhà máy còn được tiêu dùng ở hầu hết các tỉnh , thành phố khác trong cả nước.
3. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị công nghệ
Trong các doanh nghiệp công nghiệp, công nghệ sản xuất là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tổ chức quy trình sản xuất hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức quản lý, sản xuất nói riêng.
Nhà máy Thiết bị bưu điện là nhà máy sản xuất và lắp ráp cơ khí, sản phẩm của nhà máy phong phú và đa dạng, được sản xuất theo một quy trình công nghệ phức tạp, chỉnh chu qua từng công đoạn. từ khi đưa nguyên vật liệu vào chế biến đến khi nhập kho là một quá trình liên tục, khép kín theo các dây chuyến công nghệ hiện đại với năng suất cao. Chu kỳ sản xuất sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại sản phẩm nhưng đều tuân theo những bước sau:
Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ
Sản xuất
Vật tư
Sản xuất
Sản xuất
Sản xuất
Quy trình công nghệ đó được mô tả như sau: Vật liệu từ kho vật tư chuyển đến phân xưởng sản xuất, có nhiều phân xưởng như: Phân xưởng sản xuất ép nhựa, đúc, dập, chế tạo, sản xuất các sản phẩm cơ khí... sau đó đưa xuống các phân xưởng lắp ráp còn các sản phẩm đơn giản, được sản xuất hoản chỉnh thì chuyển thẳng xuống kho thành phẩm. Sau khi lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm từ các bán thành phẩm, các chi tiết thì nhập vào kho thành phẩm. Trong suốt quá trình sản xuất theo quy trình công nghệ trên, mọi công đoạn đều có đội kiểm tra chất lượng của nhà máy (KCS) loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng, hỏng, không đạt tiêu chuẩn. Do quy trình công nghệ là liên tục, khép kín nên nhà máy tiết kiệm được thời gian sản xuất và nguyên vật liệu nhưng cũng đòi hỏi phaỉ đảm bảo cho thiết bị công nghệ hoạt động được nhịp nhàng, liên tục.
Nhằm thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện, Nhà nước đã danh nhiều vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp công nghiệp của ngành. Bên cạnh đó là các chính sách ưu đãi trong nhập khẩu thiết bị, chuyển giao Công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách cấp cộng với nguồn vốn huy động nhà máy đã nhập một số máy móc dây truyền từ nước ngoài ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 đó là dây truyền lắp ráp phím đầu nối, điện thoại của hãng SIEMEN (Đức) dây truyền sản xuất ống sóng dùng để chôn cáp ngầm của hãng DROSSBACK (Đức) các loại máy đột, dập, ép nhựa, nhờ đó bắt đầu từ năm 1994 thay bằng việc nhập khẩu sản phẩm, nhà máy đã nhập các linh kiện dưới dạng CKĐ về lắp ráp đối với một số loại sản phẩm như: máy điện thoại, tủ cáp đầu dây, các loại đồng hồ tính cước. Từ năm 1996 nhà máy đã có chủ trương chuyển từ lắp ráp linh kiện dạng CKĐ sang lắp ráp linh kiện IKĐ sản xuất vỏ sản phẩm và tiến tới tự sản xuất các sản phẩm thông qua nhập vật tư. Trong hai năm 1997 và năm 1998 nhà máy đã đầu tư hơn 26 tỉ đồng để trang bị các loại máy móc mới hiện đại và hoàn thiện các dây chuyền Công nghệ như các loại dây truyền sản xuất linh kiện, dây truyền ép nhựa với Công nghệ cao để sản xuất vỏ sản phẩm và một số linh kiện khác, dây chuyền sơn tĩnh điện, ngoài ra nhà máy còn thực hiện việc chuyển giao Công nghệ với các hãng điện tử nổi tiếng trên thế giới như AT&T (Mỹ) CASIO (Nhật Bản) SIEMEN (Đức) ERISSON (Thụy điển)...
Hiện nay trình độ Công nghệ của nhà máy được đánh giá là tiên tiến so với mặt bằng Công nghệ chung của quốc gia, số lượng sản phẩm sản xuất ra đã đạt tới hơn 3500 sản phẩm, năm 1998 nhà máy đã cho ra đời những chiếc máy điện thoại sản xuất tại Việt nam, đó là các sản phẩm mang tên điện thoại Postef V701, VN 2020 và VN 2040. Điện thoại Postef được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến và có công xuất thiết kế lớn nhất tại Việt nam được điều khiển bằng kỹ thuật số. Theo công xuất thiết kế, dây chuyền có thể sản xuất 10.000máy/1 lao động/1năm, có nghĩa là nó có thể cung cấp đủ máy cho thị trường Việt nam. Hầu hết máy móc thiết bị trên dây chuyền sản xuất đều được đầu tư mới vào năm 1998 với tổng số vốn khoảng 17 tỉ đồng. Nhà máy thực hiện chế độ khấu hao nhanh, chỉ trong thời gian từ 4-5 năm, do vậy đến khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA nhà máy có thuận lợi cho việc hạ chi phí sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Năm 1999 nhà máy đã ngừng việc nhập khẩu điện thoại (trừ điện thoại di động) và tung ra thị trường các sản phẩm mới của nhà máy, hiện nay nhiều sản phẩm của nhà máy đã được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
- Đặc điểm về máy móc thiết bị: nhà máy có khoảng 170 chiếc máy khác nhau thuộc nhiều chủng loại như: máy đột, máy dập, máy khoan, máy ép... Trong đó, chủ yếu là các loại máy móc thiết bị được chế tạo tại Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và Việt Nam chiếm tới 70% số lượng máy móc thiết bị của nhà máy. Số máy móc thiết bị còn lại được nhập từ các nước như : Hàn Quốc, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Bỉ...Những năm trở lại đây, nhà máy đã liên tục đầu tư đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, Các loại máy móc thiết bị sản xuất sau năm 1980 chiếm tới 90%. Tuy nhiên cũng có một số máy móc thiết bị công nghệ sản xuất ra từ năm 1960, số máy móc thiết bị này tuy vẫn vận hành được nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải thay thế bằng thiết bị công nghệ hiện đại hơn.
Tóm lại, trình độ Công nghệ và năng lực sản xuất của dây chuyền điện thoại là một thế mạnh của nhà máy, chúng sẽ đem lại nhiều lợi thế cạnh tranh trong việc hạ giá thành và tăng năng xuất lao động.
4. Đặc điểm về nguyên vật liệu
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà máy phải chủ động tìm mua các loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trên thị trường trong nước và cả quốc tế. Các đối tác cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu cho nhà máy là:
Đối tác trong nước: Tổng công ty kim khí, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty xăng dầu, công ty thiết bị văn phòng...
Các nhà cung cấp nước ngoài gồm có rất nhiều các công ty của các nước như: Công ty Siemen (Đức), Công ty Motorola, Công ty At&T (Mỹ), Công ty Hyndai corporation, Alanchia, Koken (Hàn Quốc), Full Rise Electronic(Đài Loan)...
Do tính đặc thù của sản phẩm,lại thẹc hiện đa dạng hoá sản phẩm nên chủng loại nguyên vật liệu của nhà máy rất lớn, khoảng từ 500 - 600 loại, chủ yếu là các loại kim khó, sắt thép bao gồm:
+ Kim khí đen : như tôn CT3, C45 dạng tấm dầy 1-5 mm, các loại thép phi tròn, thép dùng chế tạo khuôn mẫu dầy hàng trăm mm...
+ Kim khí màu: Đồng, chì, nhôm, kẽm, inox...
+ Các loại nhựa bao gồm: nhựa ABS, PP, PVC, PPMA, PA, PE, polycacbonat, PVC Compound...
+ Các loại linh kiện điện tử :linh kiện điện thoại ( điện trở, bảng mạch...), đồng hồ, nguồn...
Do chủng loại nguyên vật liệu rất đa dạng và phong phú nên trong hoạt động đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nhà máy phải quan tâm đến sự tương thích giữa công nghệ sản xuất và nguyên vật liệu đưa vào, các nguồn cung cấp, giá thành nguyên vật liệu có được đảm bảo không... khi thực hiện đầu tư một thiết bị công nghệ hiện đại cũng như khi mất đi một nguồn cung cấp hay một loại nguyên liệu nào đó, nhà máy luôn luôn phải chú ý đến mối quan hệ này.
5. Đặc điểm về lao động
Với những máy móc và dây truyền Công nghệ hiện đại đã được trang bị cho nhà máy thì yêu cầu tất yếu là đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý cao và lực lượng công nhân có tay nghề giỏi có trình độ kỹ thuật. Nhưng trong những năm đầu đổi mới nhà máy có lực lượng công nhân quá đông (1200 người), trình độ không đồng đều gây nên tình trạng thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao và thừa lao động giản đơn dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ kém hiệu quả. Trước tình trạng đó nhà máy đã chú trọng tới việc tuyển dụng lao động mới và bồi dưỡng lao động hiện có để có đội ngũ công nhân đủ trình độ làm việc với những máy móc và dây truyền hiện đại. Một thực tế là nhà máy thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho nên mỗi công nhân phải làm được nhiều công việc khác nhau cho nên tình trạng trình độ chuyên môn hoá không cao dẫn đến năng xuất lao động chỉ đạt ở mức trung bình. Ví dụ: Điện thoại Postef được sản xuất chủ yếu ở các phân xưởng 6 và phân xưởng 7 nhưng những công nhân ở đây sẵn sàng được điều đi các phân xưởng khác nếu sản xuất ít điện thoại.
Ngược lại khi có nhiều đơn đặt hàng sản xuất điện thoại thì nhà máy có thể điều động nhân công từ các phân xưởng khác sang để tăng cường nhân lực. Chính sự linh hoạt trong điều hành lao động này cũng là ưu điểm của nhà máy, tránh được tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Nhưng đó cũng là nguyên nhân làm trình độ chuyên môn hoá không cao làm công tác điều độ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Việc làm thường xuyên của nhà máy là tổ chức các lớp học, đào tại nâng cao tay nghề của công nhân, tuyển thêm lao động có trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu công việc để thay thế những người đã nghỉ. Đến nay số lượng cán bộ công nhân viên của nhà máy đứng ở khoảng 518 người với trình độ chuyên môn đổng đều 100% đã qua các lớp đào tạo kỹ thuật hoặc tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học. Trong công tác quản trị nhân lực, nhà máy rất chú trọng đến việc khen thưởng với những cá nhân và tập thể xuất sắc. Nhờ đó đã phát huy được sự hăng say và tính sáng tạo của mỗi người, đã có nhiều đề tài cấp ngành do cán bộ công nhân viên nhà máy xây dựng được công nhận.
Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy năm 2002
Đơn vị : Người
Chức danh
Số lượng
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp
Trung học
Lãnh đạo
3
3
Trưởng, phó phòng
16
16
Quản đốc, phó quản đốc
12
8
3
1
Cán bộ, nhân viên
92
20
32
27
13
CNSX
395
54
52
152
77
60
Cộng
518
101
87
180
90
60
( Nguồn: Phòngtổ chức- Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện)
6. Đặc điểm về tài chính
Vốn cần cho sản xuất kinh doanh rất lớn, trong khi đó nhiều khách hàng thanh toán chậm dẫn tới nhà máy bị thiếu vốn, phải đi vay của các tổ chức tín dụng, việc đi vay của các tổ chức này làm tăng chi phí dẫn tới giá thành sản phẩm cao.
Tỷ suất lợi nhuận của nhà máy khá cao ( trên dưới 6%), đây là tiền đề cho một số năm tới, và tỷ suất lợi nhuận cao nên tích luỹ và phúc lợi của doanh nghiệp cũng khá nhiều.
Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử - viễn thông, do vậy nhu cầu về vốn là thường xuyên và tương đối lớn. Để tồn tại và phát triển trong quá trình nền kinh tế hội nhập, một mặt nhà máy kiện toàn bộ máy, mặt khác nhà máy tăng cường đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Để đầu tư theo chiều sâu, mua sắm trang thiết bị công nghệ thì nhà máy cần một lượng vốn tương đối lớn, nhà máy đã huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ các nguồn sau:
Từ nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Hàng năm nhà máy được ngân sách nhà nước cấp cho khoảng từ 4 - 8 tỷ đồng.
Nhà máy còn vay của các tổ chức tín dụng là chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình, Ngân hàng ANZ, đây là hai tổ chức tín dụng đã cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nhà máy.
Nguồn vốn từ tiết kiệm trong sản xuất, từ sáng tạo cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nguồn vốn này không nhỏ khi chính sách tiết kiệm được thực hiện có hiệu quả. Đây chính là nội lực của nhà máy, nó không những làm tăng nguồn vốn kinh doanh mà còn góp phần giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh của nhà máy trên thị trường.
Ngoài ra, nhà máy còn vay của cán bộ công nhân viên trong nhà máy. Đây là nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên, góp phần không nhỏ trong thành công của nhà máy.
A. Sử dụng vốn lưu động ở Nhà máy
a. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của nhà máy
Là một nhà máy kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông, nên nguồn vốn của nhà máy dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hay còn gọi là vốn lưu động. Lượng vốn lưu động này chủ yếu ở dưới dạng hàng tồn kho và phải thu của khách hàng.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy, ta có bảng sau:
Bảng 4: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Tổng doanh thu
2.Vốn lưu động bình quân
5.956
101.570
49.714
97.208
153.395
105.518
200.948
113.318
Hiệu quả sử dụng VLĐ = 1/2
1.44
1.54
1.45
1.77
Kết quả cho thấy năm 1999 và năm 2000 hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng nhưng năm 2001 kết quả bị giảm và sau đó tăng trở lại. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn lưu động của nhà máy cũng tương đối ổn định.
+ Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7%
+ Năm 2001 giảm so với năm 2000 là 6.2%
+ Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 22%
Năm 2001 hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm là do tốc độ tăng của vốn lưu động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu, làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm xuống. Nhưng đến năm 2002 nhà máy đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn lưu động này làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng 22% so với năm 2001.
b.Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho ta biết 100 đồng vốn lưu động bỏ ra có được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Bảng 5: Tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Lợi nhuận sau thuế
2.Vốn lưu động
7.393
101.570
5.793
97.208
6.768
105.518
7.755
113.318
TSLN VLĐ = 1/2 (%)
7.2
5.9
6.4
6.8
Ta thấy tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của nhà máy cũng khá cao, bị giảm mạnh vào năm 2000 nhưng sau đó tăng trở lại vào năm 2001 và năm 2002. Sở dĩ năm 2000 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động giảm là do thuế thu nhập của nhà máy không được miễn giảm, mặc dù lợi nhuận trước thuế kém năm 1999 và năm 2001 không nhiều, nhưng thuế thu nhập doanh nghiệp cao nên lợi nhuận sau thuế bị giảm mạnh dẫn tới tỷ suất lợi nhạn vốn lưu động giảm.
Năm 2001 và năm 2002 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của nhà máy liên tục tăng. Đây là kết quả của sự nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy trong quá trình sản xuất kinh doanh đã tiết kiệm chi phí, là cơ sở để hạ giá thành, tăng doanh thu dẫn tới tăng lợi nhuận.
c.Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Ta có bảng số liệu trang bên.
Từ bảng số liệu ta có:
Số vòng quay của vốn lưu động năm 2002 đạt cao nhất 1.76 vòng và số ngày cần thiết cho một vòng quay là 207 ngày.
Bảng 6: Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
143.708
101.570
148.621
97.208
152.082
105.518
199.387
113.318
Số vòng quay VLĐ
1.41
1.52
1.44
1.76
Số ngày luân chuyển VLĐ
259
240
253
207
Ta có:
- Vốn lưu động bình quân năm 2000 giảm so với năm 1999 là 4.362 triệu đồng ( 3.3%). Trong khi doanh thu thuần tăng 4.913 triệu đồng ( 3.4% ), điều này làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2000 tăng từ 1.41 lên 1.52 vòng.
- Vốn lưu động bình quân năm 2001 tăng so với năm 2000 là 8.310 triệu
đồng (8.5% ). Trong khi doanh thu thuần tăng3.461triệu đồng ( 2.3%), điều này
làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2001 giảm từ 1.52 vòng xuống 1.44
vòng.
- Vốn lưu động bình quân năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7800 triệu
đồng (7.3%). Trong khi doanh thu thuần tăng 47.305 triệu đồng (31% ), điều này
làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2002 tăng từ 1.44 lên 1.76 vòng.
B.Sử dụng vốn cố định ở Nhà máy
a.Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định, ta có bảng sau:
Bảng 7: Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
TSCĐ sử dụng trong kỳ
143.708
34.089
148.621
20.940
152.082
35.459
199.387
42.659
Hiệu quả sử dụng VCĐ
4.22
7.11
4.29
4.67
Qua bảng trên ta thấy:
Một đồng vốn cố định của nhà máy tạo ra doanh thu cao nhất là 7.11 đồng vào năm 2000. Tuy nhiên,nhìn vào bảng ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của nhà máy không cao và biến đổi không ổn định. Điều này được lý giải như sau:
Năm 2000 so với năm 1999, doanh thu thuần tăng 4.913 triệu đồng ( 3.4% ), trong khi vốn cố định giảm 13.149 triệu đồng (62.8%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng 2.89 đồng (68.5%).
Năm 2001 so với năm 2000, doanh thu thuần tăng3.461triệu đồng ( 2.3%), trong khi vốn cố định tăng 14.519 triệu đồng (69.3%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm 2.19 đồng (65.7%).
Năm 2002 so với năm 2001, doanh thu thuần tăng 47.305 triệu đồng (31% ), trong khi vốn cố định tăng 7.200 triệu đồng (20.3%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng 0.38 đồng (8.9%).
b.Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Bảng 8: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Lợi nhuận sau thuế
2. Vốn cố định
7.393
34.089
5.793
20.940
6.768
35.459
7.755
42.659
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (%)
21.68
27.66
19.09
18.18
Qua bảng trên ta thấy:
Tỷ suất lợi nhuận năm 2000 là cao nhất, đạt 27.66%. Điều đó cho thấy sự hiệu quả của việc đầu tư thêm máy móc thiết bị. Tuy nhiên đến năm 2001 và 2002 thì hiệu quả của việc đầu tư thêm máy móc thiết bị giảm xuống. Vậy nhiệm vụ của nhà máy trong thời gian tới phải làm sao phát huy hơn nữa hiệu quả trong công tác này.
C.Công tác thanh toán và đánh giá chung về sử dụng vốn tại Nhà máy
a.Thực trạng công tác thanh toán
Để đánh giá được khả năng thanh toán của Nhà máy, ta xét đến hai chỉ tiêu cơ bản là: Hệ số thanh toán nhanh và hệ số vốn hoạt động, ngoài ra còn đánh giá thông qua Hệ số tiền mặt.
Bảng 9: Bảng đo lường khả năng thanh toán của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tài sản lưu động
Tổng nợ ngắn hạn
Các khoản phải thu
Vốn bằng tiền
101.570
89.467
57.735
5.707
97.209
70.788
39.753
4.890
105.518
69.746
50.553
3.382
113.318
72.469
57.654
3.109
Hệ số thanh toán nhanh
0.72
0.63
0.81
0.86
Hệ số vốn hoạt động
1.135
1.37
1.512
1.563
Hệ số tiền mặt
0.063
0.069
0.048
0.043
Qua bảng trên ta thấy:
Hệ số thanh toán nhanh của nhà máy biến động phức tạp qua các năm, nhưng chưa năm nào khả năng thanh toán của nhà máy được thực hiện tốt ( đều thấp hơn 1 ), điều này chứng tỏ nhà máy bị động về tài chính và phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng.
Hệ số vốn hoạt động của nhà máy luôn lớn hơn 1, chứng tỏ nhà máy có khả năng thanh toán chưa được tốt và tình hình tài chính của nhà máy như vậy là chưa khả quan. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là số vốn của nhà máy bị chiếm dụng và nhà máy đi chiếm dụng. Chính điều này làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của nhà máy khi mà các khoản phải trả lớn hơn các khoản phải thu.
Lượng vốn bằng tiền của nhà máy giảm liên tục giảm mạnh qua các năm, do đó làm hệ số tiền mặt cũng giảm mạnh theo và luôn ở mức thấp, điều này cũng là bất lợi cho nhà máy khi dự trữ ít tiền mặt như vậy.
c. Đánh giá chung về công tác sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
Việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định một cách riêng rẽ chưa phản ánh đầy đủ hiệu quả sử dụng vốn của nhà máy. Hơn thế nữa, chúng lại có xu hướng vận động tương đối độc lập với nhau nên chưa thể đưa ra nhận xét tổng quát tình hình chung .
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của nhà máy ta có các chỉ tiêu sau:
Bảng 10: Hiệu quả sử dụng vốn chung của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh
143.708
7.393
135.780
148.621
5.793
118.269
152.082
6.768
140.977
199.387
7.755
155.977
Số vòng quay của vốn kinh doanh
1.05
1.25
1.07
1.27
Tỷ suất lợi nhuận của vốn kinh doanh (%)
5.44
4.89
4.8
4.97
Qua bảng trên ta thấy:
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của nhà máy biến động phức tạp qua các năm. Điều này thể hiện hiệu quả trong công tác tiết kiệm giảm chi phí sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao lợi nhuận được thực hiện qua các năm là không đồng đều. Việc này cũng phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Năm 2000, doanh thu tăng nhưng lợi nhuận sau thuế lại bị giảm mạnh dẫn, thêm vào đó vốn kinh doanh cũng giảm dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh giảm so với năm 1999.
Năm 2001, doanh thu cũng tăng so với năm 2000, nhưng tốc độ tăng của doanh thu không bằng tốc độ tăng của vốn kinh doanh cho nên hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh giảm so với năm 2000. Điều này thể hiện việc sử dụng không hợp lý nguồn vốn kinh doanh dẫn tới lãng phí nguồn lực.
Năm 2002, doanh thu tăng rất cao so với năm 2001, nhưng tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế không bằng doanh thu nên hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao.
Nhận xét chung
A.Những kết quả đạt được
Qua phân tích ở trên ta thấy nhà máy đã đạt được một số kết quả sau:
Tình hình tài chính của Nhà máy Thiết bị bưu điện đã có những tiến bộ đáng kể. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của Nhà máy trong điều kiện có những biến đổi lớn về tài chính ở trong nước cũng như quốc tế.
Công tác quản lý tài chính minh bạch, năng động và hiệu quả.
Khả năng sinh lợi của nhà máy không ngừng tăng lên nhờ áp dụng công nghệ mới, phát huy nỗ lực của cán bộ công nhân. Doanh thu bán hàng đảm bảo nhờ chính sách tín dụng thông thoáng.
Nhà máy luôn luôn là khách hàng có uy tín và đáng tin cậy của các nhà cung cấp cũng như đối với các ngân hàng. Khả năng thanh toán không gặp khó khăn.
Rất năng động trong việc quản lý và huy động vốn.
Nhà máy đã rất cố gắng đáp ứng tốt nhu cầu vốn lưu động cho sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà máy đã huy động mọi nguồn lực, đảm bảo khả năng thanh toán hay phát triển các dự án lớn.
Tiền và dự trữ được quay vòng tốt. Đưa được nhiều tiền mặt vào trong quá trình lưu thông.
Công tác quản lý dự trữ có nhiều tiến bộ.
Các khoản nộp ngân sách ổn định.
B.Những hạn chế và nguyên nhân:
a.Đối với khoản phải thu :
Như đã nêu, khoản phải thu của Nhà máy chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn lưu động và ngày cảng tăng qua các năm. Điều này sẽ làm nguồn vốn lưu động của Nhà máy bị ứ đọng trong tay khách hàng và trong các đơn vị trực thuộc .
Tình trạng chiếm dụng vốn ngày càng cao như vậy sẽ gây nhiều khó khăn cho Nhà máy trong công tác thanh toán của mình. Tiếp nữa, Nhà máy phải đi vay để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, phải trả lãi vay trong khi có vốn nhưng không sử dụng được, đây là một điều hết sức mâu thuẫn. điều này đòi hỏi Nhà máy phải xem xét và tìm giải pháp giảm khoản phải thu trong thời gian tới.
Nguyên nhân của tình trạng này là do:
+ Lý do chính làm cho khoản phải thu của Nhà máy lớn và càng ngày tăng là: Khách hàng của Nhà máy rất đa dạng, hơn nữa trong quá trình tiêu thụ để mở rộng mạng lưới tiêu thụ thì Nhà máy phải chấp nhận hình thức bán hàng trả chậm, ký gửi ... những lý do này làm cho các khoản phải thu của khách hàng ngày càng tăng.
+ Do sự kém hiệu quả trong việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị nội bộ dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn của Nhà máy trong các đơn vị này, làm cho tình trạng phải thu nội bộ trong các năm liên tục tăng dẫn tới tổng các khoản phải thu tăng .
+ Một lý do nữa là việc Nhà nước ban hành một loạt các văn bản thuế, luật Doanh nghiệp, hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều tiến bộ lớn xong vẫn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết: việc sửa đổi bổ sung liên tục các thông nghị định, sự thiếu đồng bộ trong các văn bản trở thành rào cản đối với các công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
b.Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Qua các năm chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của Nhà máy tăng với tốc độ nhanh. Nguyên nhân chính của việc này là do đặc điểm nghành nghề sản xuất, thêm vào đó do thị trường biến động nên kế hoạch sản xuất kinh doanh của Nhà máy bị thay đổi... do vậy vốn kinh doanh bị ứ đọng ở khâu này.Vì vậy Nhà máy cần xây dựng một kế hoạch sản xuất cụ thể, chính xác để tránh tình trạng ứ đọng vốn ở khâu này.
C. Những lợi thế của nhà máy.
Trong những năm 1999, 2000, 2002, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện tiếp tục triển khai các nhiệm vụ của giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm nâng cao năng lực sản xuất và mở rộng kinh doanh. Các chỉ tiêu như: sản lượng, doanh thu, lợi tức đều đạt và vượt so với kế hoạch, năng lực sản xuất được gia tăng đáng kể, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, uy tín của nhà máy trong ngành cũng như trên thị trường được xếp thứ hạng cao. Đội ngũ cán bộ công nhân ở độ tuổi trẻ chiếm tỉ trọng khá lớn, 100% cán bộ hành chính có bằng từ trung cấp trở lên, 80% cán bộ đã qua đại học, còn công nhân viên trước khi được tuyển vào làm đều đã qua lớp học nghề. Ngoài ra hàng năm nhà máy đều trích ra một khoản tiền để mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, vì vậy đội ngũ cán bộ công nhân viên nhà máy ngày càng được hoàn thiện về trình độ và chuyên môn nghiệp vụ, điều này cho thấy chiến lược con người luôn được nhà máy quan tâm đúng và đánh giá đúng. Bên cạnh đó với chế độ khen thưởng, phạt đúng lúc, đúng người, đúng việc cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị hiện đại đã nâng cao năng xuất chất lượng lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình công tác của cán bộ công nhân viên toàn nhà máy. Qua các giai đoạn thăng trầm của thời kỳ kinh tế thị trường, nhà máy đã dần dần hoàn thiện được bộ máy tổ chức hợp lý, các phòng ban, phân xưởng có quan hệ mật thiết với nhau, phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng với nhau, không có tình trạng chồng chéo chức năng, hay ngồi chơi xơi nước, các công việc của nhà máy được giải quyết nhanh chóng và giúp cho nhà máy thích nghi với sự biến đổi của thị trường.
Nhà máy đã biết phối hợp những ưu điểm, lợi thế của mình, luôn luôn tạo ra được sức mạnh tổng hợp trong cạnh tranh, đầu tư đúng hướng, đúng mặt hàng, điều này đã giúp cho thị trường nhà máy không ngừng được mở rộng và vị thế của nhà máy ngày càng được củng cố. Tổ chức Đảng, Đoàn, Công đoàn nhà máy vững mạnh luôn là nguồn cổ vũ động viên, là chỗ dựa vững chắc của cán bộ công nhân viên nhà máy, chính vì vậy môi trường và điều kiện làm việc luôn được bảo đảm tốt, tạo ra tinh thần đoàn kết, sự tin cậy và sự gắn bó trong nội bộ nhà máy.
Nhà máy luôn làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách, nên tạo dựng được niềm tin với cấp trên. Sản phẩm của nhà máy luôn được cải tiến về mặt chất lượng mẫu mã, giá cả hợp lý nên càng ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng. Khả năng thanh toán tương đối chắc chắn của khách hàng. Hầu hết khách hàng của nhà máy là các bưu điện hoặc là các công ty thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông nên khả năng thanh toán được đảm bảo. Khả năng huy động vốn dễ dàng do uy tín của nhà máy cùng với sự đảm bảo của Tổng công ty và được sự quan tâm của Nhà nước về vốn, chính sách hỗ trợ xuất khẩu, tạo tiền đề cho khả năng nắm bắt trình độ công nghệ thế giới từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm được nguyên vật liệu.
Với lịch sử phát triển lâu dài, nhà máy đã tạo lập được mối quan hệ tốt với các bạn hàng trong và ngoài ngành, tạo ra những tiền đề trong việc thiết lập và giới thiệu sản phẩm của nhà máy trên thị trường.
D.Những hạn chế của Nhà máy
Xét về mặt tổng thể, sự tăng trưởng của nhà máy chỉ về mặt lượng, chưa có biến đổi về chất thực sự, đã xuất hiện những sự bất cập ở nơi này hay nơi khác về năng lực sản xuất, khả năng công nghệ, quản lý công nghệ và nắm bắt thị trường. Có các trường hợp nội lực bị triệt tiêu hoặc giảm do chưa có sự phối hợp đông đều của từng bộ phận. Sau đây là một số mặt hạn chế:
+ Về sản phẩm, số lượng sản phẩm còn ít, việc triển khai thương mại bị chậm trễ do các khó khăn về công nghệ , kỹ thuật, vật tư dẫn tới hiệu quả kinh doanh thấp thậm chí bỏ lỡ đơn hàng. Các sản phẩm đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp, nên khả năng cạnh tranh thấp như bảo an nguồn, cabin ACSON. Công nghệ không hoàn chỉnh, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm thấp, sai sót về chất lượng còn xảy ra, dẫn đến các thiệt hại về chi phí sản xuất và thị trường (thùng thư, giá MDF, các sản phẩm gia công). Các loại loa và nam châm được sản xuất theo công nghệ và vật tư cũ, nguồn vật tư chưa bảo đảm ổn định, công tác nghiên cứu và phát triển không có tác dụng hỗ trợ trong lĩnh vực này. Năng lực sản xuất hàng gia công, công nghệ còn chưa kịp đáp ứng các yêu cầu khách hàng. Công tác nghiên cứu và phát triển tìm kiếm sản phẩm để đáp ứng cho các thiết bị Công nghệ sẵn có của nhà máy quá thấp, hiệu quả sử dụng thiết bị thấp (dây chuyền hàn sóng, dây chuyền CKD, MDF). Một số các sản phẩm không khẳng định được vị trí trên thị trường (máy điện thoại Casio, Alfaten).
+ Năng lực sản xuất (bao gồm thiết bị, khuôn mẫu, nguồn vật tư công + nghệ): công tác thiết kế và chế tạo mẫu chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Nguồn cung cấp vật tư không ổn định và chưa vươn ra tầm thị trường quốc tế làm hạn chế khả năng phát triển sản phẩm tiên tiến đặc biệt là linh kiện điện tử.
+ Công tác quản lý chất lượng chưa đi vào ổn định. Các dự án đầu tư tiến triển chậm và không đồng bộ. Về mặt thị trường: chưa xây dựng được mối quan hệ hợp tác giữa các đơn vị trong ngành về hợp tác công nghệ. Cũng như nhiều đơn vị trong ngành, nhà máy cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hoá theo phương thức đấu thầu cạnh tranh. Công tác quảng cáo yếu, chưa đem lại hiệu quả.
III.Những căn cứ và định hướng chung của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
1.Dự đoán những thay đổi của thị trường
Thị trường sản phẩm và thiết bị Bưu điện tăng trưởng liên tục trong những năm qua thậm chí ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng tiền tệ. Hiện nay Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện mới chỉ chú trọng tới những khách hàng tập thể, đặc biệt là các Bưu điện trên toàn quốc. Trong những năm tới đoạn thị trường này cũng vẫn được tiếp tục mở rộng song tốc độ phát triển sẽ có xu hướng chậm lại do yêu cầu đặt ra của ngành Bưu chính là 100% các xã có Bưu điện đã sắp được hoàn thành. Do vậy đoạn thị trường dành cho người tiêu dùng cá nhân mà tới nay Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện vẫn không chú trọng sẽ là đoạn thị trường hấp dẫn cần được quan tâm đặc biệt trong tương lai. Trên đoạn thị trường này, hàng Trung Quốc và các hãng nước ngoài đặc biệt là điện thoại đang tràn ngập, do vậy việc thâm nhập thị trường này đòi hỏi sản phẩm của nhà máy phải có sức bật lớn về chất lượng và giá cả. Ngoài ra, thị trường miền Bắc và thị trường miền Nam là những thị trường có tiềm năng phát triển lớn, ở đây sẽ được xây dựng nhiều khu công nghiệp nên nhu cầu về điện thoại và các thiết bị sẽ tăng nhanh, nhà máy nên chú trọng phát triển thị phần của mình ở những thị trường này.
Đối với thị trường nước ngoài, từ trước đến nay điện thoại và thiết bị Bưu điện đã được xuất khẩu sang những thị trường chủ yếu như: Lào, Campuchia, Nga... Song hầu hết là xuất khẩu nhiều sản phẩm đã đến thời kỳ suy thoái ở trong nước hoặc là chất lượng không cao với giá rẻ. Trong tương lai, sản phẩm của nhà máy sẽ có nhiều cơ hội thâp nhập vào thị trường các nước ASEAN, do đó cần lập chiến lược thâm nhập và tìm bạn hàng ở các thị trường này ngay từ bây giờ. Để tạo hình ảnh tốt, những sản phẩm xuất khẩu không nên chỉ là những sản phẩm chất lượng không cao giá rẻ, mà nên xuất khẩu nhiều hơn những sản phẩm có chất lượng cao mẫu mã đẹp đa dạng. Tuy nhiên việc giữ vững những thị trường truyền thống vẫn là mục tiêu lâu dài của nhà máy. Để phát triển tốt thị trường xuất khẩu hơn nữa, những biện pháp nghiệp vụ cần làm ngay là:
Đào tạo đội ngũ cán bộ không những giỏi về nghiệp vụ mà phải có trình độ ngoại ngữ, tin học, khả năng giao dịch tốt với người nước ngoài. Phải nghiên cứu thị trường nước ngoài để nắm vững những thay đổi trong chính sách của Nhà nước về tiền tệ, hạn ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư cũng như đường lối chính trị để có đối sách cần thiết.
Nên liên doanh với một số hãng nước ngoài để thuận lợi trong việc đưa sản phẩm của nhà máy ra thị trường nước ngoài. Tích cực trong việc tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để tìm kiếm đối tác mới để ký kết hợp đồng kinh tế. Sử dụng những liên doanh hiện có để khai thác và mở rộng thị trường ở nước ngoài.
2. Mục tiêu, phương hướng, chiến lược chung của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện trong thời gian tới
Là một doanh nghiệp hạch toán độc lập như nhiều doanh nghiệp khác hoạt động trong cơ chế thị trường mục tiêu lâu dài của nhà máy vẫn là tăng lợi nhuận và phát triển sản xuất kinh doanh chiếm lĩnh thị trường trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Trong những năm vừa qua Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện vẫn lấy điện thoại làm sản phẩm mũi nhọn, trong những năm tới khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA, hàng rào thuế quan sẽ bị dỡ bỏ, giá bán của sản phẩm của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện và sản phẩm nhập khẩu đều giảm, nhưng độ giảm của các sản phẩm nhập khẩu sẽ lớn hơn. Chính vì vậy ngay từ bây giờ nhà máy phải tìm ra những giải pháp giải quyết từng bước hạ chi phí sản xuất ngay từ bây giờ, bởi vì hạ giá thành sản xuất là nguồn gốc của sức mạnh cạnh tranh về giá bán. Để hạ giá thành sản xuất, nhà máy tận dụng tối đa năng lực của Công nghệ hiện đại mà nhà máy đã đầu tư trong những năm qua, giảm chi phí nguyên vật liệu bởi vì chi phí nguyên vật liệu chiếm tỉ lệ lớn: 70%. Vì vậy giảm chi phí nguyên vật liệu góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành, hạ thấp định mức dùng nguyên vật liệu, ngoài ra còn phải triệt để thu hồi và tận dụng phế liệu phế phẩm. Để tăng năng xuất lao động trực tiếp thì chế độ tiền lương tiền thưởng cho lao động phải được quan tâm hơn nữa.
Mục tiêu sản xuất kinh doanh cho năm 2003:
Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao năng lực thiết bị hiện có.
Nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nhằm đạt được tỉ suất lợi tức cao và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Cải tiến tổ chức sản xuất (từ cung cấp vật tư, sử dụng thiết bị, hoàn thiện khuôn mẫu, thiết kế) nhằm đẩy nhanh tiến độ sản xuất.
Đẩy mạnh công tác quảng cáo, nâng cao trình độ bán hàng của nhân viên bán hàng.
Tăng nhanh vòng quay vốn, quản lý tốt vấn đề dự trữ.
Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nghiên cứu phương án xuất khẩu, tiếp thị trong khuôn khổ các dự án Bưu chính.
E. Một số giải pháp trong thời gian tới của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
Duy trì cải tạo tổ chức theo hướng điều hành tập trung, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa bộ phận chức năng và bộ phận sản xuất. Thông tin nhanh, phân công giải quyết kịp thời các trở ngại. Riêng với việc quản lý vốn lưu động thì sự kết hợp cần chặt chẽ hơn giữa phòng kế toán với phòng vật tư và bộ phận kho, giữa phòng kế toán với phòng kinh doanh và trung tâm tiếp thị.
Không ngừng nâng cao ý thức tổ chức, phong cách làm việc.
Chú trọng tạo điều kiện cho các cán bộ nhân viên học tập thêm, nâng cao trình độ tay nghề. áp dụng biện pháp kiểm tra trình độ của người lao động.
Giảm tối đa các chi phí quản lý doanh nghiệp để tăng lợi nhuận.
Có chế độ thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích người lao động phát huy Hết mức khả năng của mình cũng như có thêm trách nhiệm đối với công việc mình làm.
Tổ chức các hội nghị khách hàng để tiếp cận trực tiếp với người sử dụng sản phẩm và qua đó thăm dò nhu cầu.
Có chương trình nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, biết tính lỗ lãi một cách kịp thời để đề xuất các lĩnh vực kinh doanh có khả năng phát huy của Nhà máy.
Phát triển hơn nữa công tác tiếp thị, tìm hiểu thị trường cả trong và ngoài nước.
Nhà máy nên có định hướng lâu dài với chính sách giá cả sản phẩm trên cơ sở giá cả sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Cải tiến hệ thống tiêu thụ sản phẩm.
Tăng cường hoạt động hậu mãi.
Cố gắng giảm tương đối chi phí bán hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC955.doc