Báo cáo Thực tập tổng hợp tại Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán

Quá trình hội nhập đang diễn ra một cách mạnh mẽ, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nói chung và các công ty kiểm toán của Việt Nam nói riêng là hết sức quan trọng. Đối với kiểm toán là một lĩnh vực còn khá non trẻ tại Việt Nam nên đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa. Cụ thể, chúng ta cần từng bước hội nhập Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam với Chuẩn mực kiểm toán quốc tế, hoàn thiện quy trình kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán của nước ta. Trong phạm vi một Báo cáo Thực tập tổng hợp, em cũng đã mạnh dạn trình bày tổng quan về Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán cũng như công tác kiểm toán tại Công ty, góp phần hoàn thiện công tác tổ chức tại Công ty.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tổng hợp tại Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an; Bộ phận quản lý của doanh nghiệp có năng lực chuyên môn, chính trực, có sự hiểu biết về tình hình kinh doanh và hợp nhất trong các quyết định của Ban Giám đốc; Đối với khách hàng có rủi ro ở mức độ kiểm soát được (tương ứng với số điểm nhỏ hơn 380 và lớn hơn 50). Việc đánh giá về khách hàng phụ thuộc vào thực tế và khả năng suy đoán dựa trên sự xét đoán tổng thể và kinh nghiệm của kiểm toán viên. Nếu khách hàng được đánh giá ở mức rủi ro thông thường và mức rủi ro có thể kiểm soát được thì Công ty có thể chấp nhận khách hàng này. Đối với khách hàng có rủi ro ở mức cao (tương ứng với số điểm >380): Đây là những khách hàng có khả năng gây ra tổn thất cho hãng kiểm toán hoặc làm mất uy tín của hãng kiểm toán. Công ty không nên chấp nhận những khách hàng này. Dựa trên các thông tin cơ bản ban đầu, kiểm toán viên phân tích và đánh giá tính trọng yếu của từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Từ đó, tuỳ theo khách hàng, tùy theo bản chất của từng khoản mục mà mức trọng yếu được phân bổ cho các khoản mục theo cách khác nhau. AASC đã xây dựng được phương pháp cũng như căn cứ để xác định mức độ trọng yếu thống nhất trong toàn công ty. Việc đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch của AASC được kiểm toán viên thực hiện đánh giá đối với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, đồng thời thể hiện kết quả đánh giá đó trong kế hoạch kiểm toán tổng thể. Bảng 2.2 Bảng kết quả đánh giá rủi ro tổng quát Bảng câu hỏi đánh giá rủi ro tổng quát Khách hàng:…… Tổng số điểm:….. Người thực hiện:.. 1. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty 2. Tình hình sở hữu của công ty 3. Chính sách kế toán của công ty 4. Cơ cấu quản lý của công ty 5. Hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty xét trên khía cạnh chung nhất 6. Quy mô khách hàng (sử dụng giá trị tổng tài sản nếu khách hàng là một ngân hàng, một công ty bảo hiểm; sử dụng doanh thu bán hàng hoặc tổng số bán ra nếu khách hàng hoạt động theo lĩnh vực khác) 7. Mức độ các khoản nợ của công ty và khả năng tăng trưởng 8. Quan hệ của công ty và kiểm toán viên 9. Khả năng công ty báo cáo sai các kết quả tài chính và tài sản ròng 10. Khách hàng có ý định lừa dối kiểm toán viên 11. Mức độ chủ quan trong việc xác định kết quả 12. Năng lực của Ban Giám đốc điều hành và Giám đốc tài chính 13. Khả năng khách hàng bị vướng vào các vụ kiện 14. Kiểm toán viên có băn khoăn về liên tục hoạt động của khách hàng Đặc biệt với doanh thu, đây là chỉ tiêu nhạy cảm nhất trên báo cáo tài chính, là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, là cơ sở đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy các doanh nghiệp có xu hướng trình bày gian lận khoản mục này trên báo cáo của mình. Ước lượng được mức trọng yếu dựa vào óc xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Nếu mức trọng yếu được ước lượng là cao, có nghĩa độ chính xác của số liệu trên báo cáo tài chính thấp, khi đó số lượng bằng chứng thu thập nhiều và ngược lại. Mức trọng yếu đối với khoản mục doanh thu tại AASC được quy định trong khoản từ 0.4% đến 0.8%. Tại AASC, thông thường việc đánh giá này được thực hiện bởi các kiểm toán viên lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, là các trưởng phòng hoặc các Phó Tổng Giám đốc. Công ty đã thiết kế một mẫu “phân tích hiệu quả hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ” đối với hệ thống kế toán, số dư tài khoản và loại nghiệp vụ theo từng cơ sở dẫn liệu trên báo cáo tài chính. Mẫu phân tích này làm giảm thiểu các ý kiến bất đồng giữa Ban Giám đốc công ty khách hàng với kiểm toán viên. Bốn là xác định nhu cầu nhân sự và thời gian kiểm toán: Dựa trên các thông tin cơ bản trên, người phụ trách nhóm kiểm toán sẽ tiến hành lựa chọn nhân sự phù hợp và phân công công việc cho từng người. Trước khi phân công kiểm toán sẽ tiến hành kiểm tra tính độc lập của kiểm toán viên từ nhân viên trực tiếp thực hiện cho đến cấp soát xét nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tại AASC, mặc dù có sự phân chia các phòng ban, tuy nhiên các phòng nghiệp vụ chỉ có tính chất tương đối, các phòng kiểm toán đều có thể tiến hành kiểm toán các khách hàng thuộc các loại hình kinh doanh khác nhau. Nhóm kiểm toán thường từ 3 đến 5 người, trong đó có một người chủ nhiệm kiểm toán, là người có trình độ chuyên môn cao và nhiều năm kinh nghiệm (thường là kiểm toán viên cao cấp hoặc phó phòng), hai kiểm toán viên và một trợ lý kiểm toán viên. Khi lựa chọn nhóm kiểm toán, thường chú trọng đến những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Năm là tổng hợp: Trong bước này, kiểm toán viên thực hiện tổng hợp kế hoạch kiểm toán trong đó xác định mức rủi ro, mức trọng yếu, phương pháp kiểm toán, các thủ tục kiểm toán đối với khoản mục quan trọng. Trưởng nhóm kiểm toán sẽ lập bảng tổng hợp kiểm toán bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Thu thập thông tin cơ sở cũng như thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng; Hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng; Đánh giá rủi ro và xác định mức độ trọng yếu; Nội dung, phương pháp, lịch trình, phạm vi kiểm toán; Sự phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra việc thực hiện triển khai kế hoạch kiểm toán và nhu cầu chuyên gia trợ giúp; Bảng tổng hợp sẽ được lưu vào hồ sơ kiểm toán chung. Các thành viên trong nhóm kiểm toán sẽ được nhận tài liệu này và phổ biến kế hoạch kiển toán, nắm vững những nội dung quan trọng để đảm bảo chất lượng, hiệu quả cuộc kiểm toán. Thứ ba: Thiết kế chương trình kiểm toán: Lập chương trình kiểm toán chi tiết đối với từng khoản mục được xem là một bước hết sức quan trọng trong mỗi cuộc kiểm toán. Đó là cơ sở để kiểm toán viên thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của khách hàng. Chương trình kiểm toán nếu được thiết kế phù hợp và hiệu quả sẽ giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng đầy đủ và thích hợp cho việc đưa ra ý kiến của mình. Chương trình kiểm toán được thiết kế cho từng khoản mục và Công ty có các chương trình kiểm toán sẵn. Khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên thường dựa chủ yếu vào chương trình đó. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm cụ thể của từng đối tượng kiểm toán mà kiểm toán viên có thể bổ xung hoặc thay đổi một phần nào đó của chương trình kiểm toán cho phù hợp. AASC đã xây dựng được một quy trình kiểm toán hợp lý, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cao. Quy trình kiểm toán tại AASC được xây dựng trên cơ sở lý thuyết kiểm toán, tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng như các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận và các quy định khác của Bộ Tài chính. Trong chương trình kiểm toán mỗi khoản mục đều xác định rõ các mục tiêu và nội dung tiến hành kiểm toán đối với khoản mục đó (xác định rõ các thủ tục phân tích, các thử nghiệm cơ bản, quy mô chọn mẫu,… áp dụng cho từng khoản mục). Mỗi khoản mục trên BCTC đều được đánh giá rủi ro, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để phát hiện và phòng ngừa các rủi ro còn chứa đựng trong BCTC. Chương trình kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của Công ty được thiết kế bao gồm các bước phân tích, kiểm tra chi tiết và đưa ra kết luận. Kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết đã được lập bám sát, các kiểm toán viên của AASC đã thực hiện kiểm toán một cách toàn diện các báo cáo tài chính của khách hàng. Mặc dù thời gian thực hiện cho mỗi cuộc kiểm toán hạn chế nhưng các kiểm toán viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thập được các bằng chứng đầy đủ và đáng tin cậy, cần thiết cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên. Tại AASC, công việc kiểm toán được tiến hành theo khoản mục. Các khoản mục này được thực hiện bởi các kiểm toán viên khác nhau nhưng giữa các kiểm toán viên luôn có sự phối hợp chặt chẽ. Chương trình kiểm toán chi tiết này được lập phù hợp với chương trình kiểm toán tiên tiến nhất đang được áp dụng thống nhất trong Công ty nhằm đảm bảo cho việc thực hiện kiểm toán có hiệu quả nhất. Thứ tư: Thảo luận với khách hàng: Sau khi đã tìm hiểu khái quát về khách hàng, người phụ trách nhóm kiểm toán sẽ liên hệ trực tiếp với khách hàng để thoả thuận các điều kiện khác có liên quan về thời gian, đi lại… Giai đoạn thứ tư: Thực hiện kiểm toán: Sau khi lập chương trình kiểm toán chi tiết, các kiểm toán viên được phân công thực hiện sẽ đến đơn vị khách hàng tiến hành thực hiện kiểm toán theo chương trình đã lập. Kiểm toán viên tiến hành theo các bước đã được mô tả cụ thể trong chương trình kiểm toán của Công ty nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán. Thực hiện kế hoạch kiểm toán bao gồm các công việc như sau: Bước một: Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát: Trước hết, kiểm toán viên sử dụng các thử nghiệm kiểm soát (trong đó chủ yếu thông qua bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống KSNB) để phân tích môi trường kiểm soát chung, xem xét hệ thống kế toán và thủ tục kiểm soát hiện có tại khách hàng. Việc phân tích này giúp kiểm toán viên có những đánh giá ban đầu về mức độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ, việc tuân thủ các chế độ, chuẩn mực kế toán cũng như các quy định của Luật kế toán… để có thể xác định được các thủ tục kiểm toán cần thiết. Bước hai: Thực hiện các thủ tục phân tích: Các thủ tục này giúp kiểm toán viên xác định nội dung, phạm vi của các thủ tục kiểm toán khác cần thực hiện. Thủ tục này bổ sung cho kiểm tra chi tiết, kiểm tra tính hợp lý của số liệu và kiểm tra toàn bộ báo cáo tài chính trong khâu soát xét cuối cùng của kiểm toán viên. Các thủ tục phân tích được sử dụng trong giai đoạn này bao gồm: phân tích sự biến động giữa năm nay với năm trước, giữa thực hiện với kế hoạch, giữa đơn vị với trung bình ngành, phân tích tỉ suất. Đối với kiểm toán doanh thu bao gồm các bước sau: So sánh kỳ này với kỳ trước, nếu có biến động bất thường cần tìm hiểu rõ nguyên nhân; So sánh tỷ trọng lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh với doanh thu thuần giữa kỳ này với kỳ trước để đánh giá khả năng sinh lời từ doanh thu bán sản phẩm qua các kỳ; Lập bảng phân tích tổng quát quan hệ đối ứng tài khoản và nhận dạng các quan hệ bất thường; Lập bảng phân tích doanh thu theo thuế suất, theo từng tháng và theo từng loại doanh thu, lập bảng phân tích doanh thu trong mối quan hệ với giá vốn, với thuế GTGT và với số dư công nợ phải thu (liên quan đến việc phân tích chính sách bán hàng của đơn vị trên thực tế)… Nhận dạng của sự tăng hay giảm bất thường của các chỉ tiêu phân tích này. Tính tỷ lệ lãi gộp theo từng tháng, từng quý và qua đó, xác định rõ nguyên nhân của những biến động bất thường; So sánh số dư doanh thu chưa thực hiện (TK3387) cuối kỳ với kỳ trước theo từng loại doanh thu, nếu có biến động bất thường cần tìm hiểu rõ nguyên nhân; So sánh tỷ suất vòng quay hàng hoá (sản phẩm/doanh thu) qua các năm, giải thích các biến động bất thường (nếu có); Tuy nhiên, trong bước này vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau: Tại AASC, thông thường kiểm toán viên chỉ tiến hành phân tích xu hướng biến động của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán, không thực hiện thủ tục phân tích các tỷ suất tài chính. Điều này sẽ gây ra những hạn chế trong việc thực hiện mục tiêu nói trên. Phân tích xu hướng biến động chỉ cho thấy những biến động bất thường, nguyên nhân của biến động của từng khoản mục, chỉ tiêu mà chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa các khoản mục đó. Bước ba: Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết: Để có những bằng chứng đầy đủ và đáng tin cậy, kiểm toán viên còn phải áp dụng các thủ tục kiểm tra chi tiết đối với các nghiệp vụ phát sinh và số dư các khoản mục. Việc kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ phát sinh được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp chọn mẫu. Kiểm toán viên chọn mẫu phải đảm bảo rằng mẫu được chọn phải mang tính đại diện. Thông thường, mẫu chọn thường bao gồm các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất thường và các nghiệp vụ có số tiền phát sinh lớn. Việc kiểm tra chi tiết số dư được thực hiện đối với tất cả các khoản mục có số dư trên bảng cân đối kế toán (cần thiết phải được theo dõi chi tiết theo đối tượng hoặc theo nội dung kinh tế của nghiệp vụ). Đối với kiểm toán doanh thu bao gồm các bước sau: Một là đối chiếu số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh với số liệu trên sổ tổng hợp và sổ chi tiết, tờ khai thuế GTGT đầu ra; và thu thập thông tin và những sự thay đổi trong chính sách kế toán và nguyên tắc ghi nhận doanh thu. Hai là kiểm tra phát sinh tăng doanh thu: Công việc này bao gồm các bước cụ thể sau: Tìm hiểu hệ thống lưu trữ các tài liệu liên quan đến việc quản lý doanh thu như hợp đồng kinh tế, thanh lý hợp đồng kinh tế, đơn đặt hàng, lệnh bán hàng, chính sách bán hàng, đơn giá bán hàng, các hợp đồng vận chuyển hàng bán… Chọn mẫu để kiểm tra chứng từ chi tiết (đề nghị ghi rõ phương thức lựa chọn mẫu): Đối chiếu nghiệp vụ bán hàng được ghi chép trên sổ kế toán, nhật ký bán hàng với các chứng từ gốc có liên quan như: đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế, thanh lý hợp đồng kinh tế, lệnh bán hàng, phiếu xuất kho, vận đơn, hoá đơn… kết hợp xem xét và kiểm tra quá trình thanh toán. Kiểm tra số lượng, đơn giá và tính toán trên hoá đơn bán hàng, kiểm tra việc quy đổi đồng tiền bán hàng bằng ngoại tệ ra đồng tiền hạch toán; đối chiếu số liệu trên hoá đơn với sổ chi tiết và sổ tổng hợp doanh thu. Kiểm tra việc phân loại doanh thu, phân biệt doanh thu bán chịu (đối chiếu với số hạch toán trên tài khoản công nợ phải thu), doanh thu thu tiền ngay, doanh thu nhận trước, doanh thu hàng đổi hàng,… phân biệt doanh thu bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ với các khoản thu nhập khác, phân biệt từng loại doanh thu liên quan đến từng loại thuế suất khác nhau, từng sản phẩm khác nhau (đối với số liệu hạch toán trên tài khoản thuế GTGT đầu ra). Ở AASC, các kiểm toán viên thường chọn mẫu theo kinh nghiệm. Đó là phương pháp mà mẫu chọn bao gồm các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất thường và các nghiệp vụ có số tiền lớn. Phương pháp chọn mẫu này tuy chi phí thấp nhưng lại chứa đựng rủi ro vì chưa hẳn gian lận và sai sót đã xảy ra ở các nghiệp vụ có số tiền phát sinh lớn. Kiểm toán viên thường ít lựa chọn các khoản mục có sai số nhỏ, tuy khó phát hiện nhưng sai sót này lại mang tính hệ thống. Kiểm tra tính đúng kỳ đối với nghiệp vụ doanh thu: Kiểm tra chứng từ của một số nghiệp vụ doanh thu phát sinh trước và sau thời điểm khoá sổ để xem xét ngày tháng ghi trên hoá đơn, vận đơn với ngày tháng trên nhật ký bán hàng và sổ chi tiết. Từ việc kiểm tra chi tiết nêu trên, đưa ra kết luận về nguyên tắc ghi nhận doanh thu, điều kiện ghi nhận doanh thu từng loại tại đơn vị (nếu trái với quy định hiện hành phải giải thích nguyên nhân); Kiểm tra việc hạch toán doanh thu trên sổ kế toán để đảm bảo rằng các khoản doanh thu đã được hạch toán đúng; Kiểm tra việc trình bày trên báo cáo tài chính và thuyết minh báo cáo tài chính; Ba là kiểm tra số phát sinh giảm doanh thu: Kiểm tra các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu thương mại: có thể kiểm tra 100% hoặc chọn mẫu tuỳ theo kết quả tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục này của doanh nghiệp… Bốn là kiểm tra doanh thu nội bộ: Kiểm tra căn cứ phát sinh và việc theo dõi, xử lý các khoản doanh thu nội bộ của đơn vị; kiểm tra việc loại trừ các khoản doanh thu nội bộ khi hợp nhất báo cáo tài chính. Năm là kiểm tra doanh thu chưa thực hiện: Bao gồm các công việc sau: Kiểm tra chọn mẫu chứng từ xem các khoản ghi nhận có phù hợp không; Xem xét việc kết chuyển doanh thu có phù hợp về thời gian và khoản tiền nhận trước hay không; Phân tích số dư cuối kỳ để đảm bảo không có khoản nào cần phải ghi nhận doanh thu mà vẫn chưa được kết chuyển; Sáu là kiểm tra việc trình bày doanh thu. Khi công việc kiểm toán ở tất cả các khoản mục được hoàn thành, trưởng nhóm kiểm toán chịu trách nhiệm tổng hợp các bằng chứng thu thập được và đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của chúng. Giai đoạn thứ năm: Kết thúc kiểm toán: Giai đoạn này bao gồm các bước sau: Thứ nhất: Soát xét chất lượng và giải thích các phát hiện: Khi giai đoạn thực hiện kiểm toán hoàn thành, trưởng nhóm kiểm toán tóm tắt các công việc đã thực hiện và kết quả thu được. Sau đó, lập tài liệu soát xét 3 cấp, tổng hợp các sai sót để đề nghị điều chỉnh, dự thảo phục vụ cho mục đích soát xét chất lượng. Sau khi kiểm soát thông qua thì trưởng nhóm kiểm toán sẽ gửi cho khách hàng bản dự thảo các bút toán điều chỉnh và tổ chức họp với ban lãnh đạo đơn vị khách hàng để thông báo kết quả kiểm toán và thảo luận để thống nhất về kết quả cuối cùng của cuộc kiểm toán. Bao gồm: Soát xét hồ sơ kiểm toán trước khi rời khỏi văn phòng khách hàng; Tổng kết công việc đã thực hiện; Lập tài liệu soát xét 3 cấp, tổng hợp các sai sót để đề nghị điều chỉnh, dự thảo phục vụ cho mục đích kiểm soát chất lượng; Sau khi hoàn thành thủ tục kiểm toán đối với các phần hành, KTV tiến hành tổng hợp các kết quả kiểm toán để xem xét xem liệu bằng chứng kiểm toán đã được tập hợp đủ để đảm bảo cho kết luận là các thông tin trên BCTC được trình bày trung thực và hợp lý trên mọi khía cạnh trọng yếu. Tổng kết cuối cùng về tính đầy đủ của bằng chứng là quá trình xem xét lại toàn bộ cuộc kiểm toán do KTV thực hiện để xác định liệu tất cả các khía cạnh quan trọng có được khảo sát đầy đủ, có xét đến các tình huống của hợp đồng hay không. Bước chủ yếu trong quá trình này là sự xem xét lại chương trình kiểm toán để đảm bảo là tất cả các phần đã được hoàn thành chính xác và có chứng từ chứng minh, tất cả các mục tiêu kiểm toán đều được thoả mãn. Nếu KTV nhận thấy chưa thu thập đủ bằng chứng để đưa ra kết luận về tính trung thực trong BCTC của đơn vị được kiểm toán thì KTV sẽ tiến hành thu thập thêm bằng chứng kiểm toán bổ sung hoặc lựa chọn dạng nhận xét thích hợp trong BCKT. Đồng thời trong quá trình này KTV cũng cần xem xét lại các nghiệp vụ và các sự kiện xảy ra sau ngày lập bảng cân đối kế toán để xác định liệu có sự kiện nào xảy ra mà có thể ảnh hưởng đến các thông tin trên các báo cáo đang được kiểm toán hay không. Trách nhiệm của KTV đối với việc xem xét lại các sự kiện tiếp sau thường bị giới hạn bắt đầu từ ngày lập báo cáo lập bảng cân đối kế toán và kết thúc vào ngày viết báo cáo của KTV. Vì ngày viết báo cáo của KTV liên quan với việc hoàn thành các thủ tục kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán, sự xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập bảng cân đối kế toán phải được hoàn thành gần ngày cuối của hợp đồng. Sau khi KTV thấy rằng đã có đủ bằng chứng cho kết luận kiểm toán của mình, KTV tiến hành họp và thảo luận tổng kết các kết quả kiểm toán với Ban giám đốc đơn vị được kiểm toán. Trong giai đoạn này KTV sẽ tiến hành nêu ra các vấn đề mà KTV phát hiện được trong quá trình thực hiện kiểm toán và sẽ được đưa vào trong BCKT. Đồng thời KTV cũng nêu ra các sai sót và các bút toán đề nghị đơn vị điều chỉnh và trình bày lại. Bằng những phương pháp, kỹ thuật mà KTV áp dụng trong quá trình kiểm toán, KTV đã thu thập được những bằng chứng kiểm toán để đưa ra những nhận xét của mình cũng như những bút toán điều chỉnh. Thứ hai: Phát hành báo cáo kiểm toán và thư quản lý: Sau đó, trưởng nhóm lập và ký báo cáo dự thảo báo cáo kiểm toán có đính kèm các BCTC đã được kiểm toán của khách hàng, trình Phó Tổng Giám đốc ký duyệt và đóng dấu, sau đó công bố chính thức. AASC cũng ban hành thư quản lý để tư vấn cho khách hàng trong việc hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Bao gồm: Một là gửi các bản dự thảo cho khách hàng và họp thông báo kết quả kiểm toán: Dựa trên các bút toán điều chỉnh và những ghi chép, bằng chứng kiểm toán (hồ sơ kiểm toán) mà KTV thu thập được được trong quá trình kiểm toán, KTV tiến hành thảo luận với ban giám đốc đơn vị được kiểm toán, và đưa ra bản dự thảo BCKT bao gồm: Báo cáo của ban giám đốc; Báo cáo kiểm toán; Báo cáo tài chính, bao gồm: Bảng cân đối kế toán (số trước và sau điều chỉnh), báo cáo kết quả kinh doanh dự thảo (số trước và sau điều chỉnh), báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự thảo (số trước và sau điều chỉnh), bản thuyết minh BCTC; Hai là thông qua các bản dự thảo và phát hành báo cáo kiểm toán và thư quản lý (nếu có): Để giúp đơn vị được kiểm toán chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV và công ty kiểm toán được phép phát hành thư quản lý. Thư quản lý mô tả về từng sự kiện cụ thể, gồm: Hiện trạng thực tế, khả năng rủi ro, kiến nghị của KTV và ý kiến của người quản lý liên quan đến sự kiện đó. Trong thư quản lý, KTV ghi chép những đánh giá của mình về hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Những đánh giá này, KTV đã rút ra được cuộc kiểm toán nhằm cung cấp các ý kiến trợ giúp mang tính chất xây dựng đối với ban giám đốc doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nội dung của thư quản lý được KTV trình bày rõ ràng, dễ hiểu. Đối với một vấn đề cần hoàn thiện thì thường bao gồm các mục: Kiểm tra của KTV, ảnh hưởng trọng yếu của vấn đề và kiến nghị của KTV. 2.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Công ty Quy trình kiểm soát chất lượng kiểm toán của Công ty được khái quát qua Sơ đồ 2.2. Ban Giám đốc Sơ đồ 2.2 Quy trình kiểm soát chất lượng kiểm toán Lãnh đạo phòng Trưởng nhóm Kiểm toán viên Chú thích: Quan hệ chỉ đạo, giám sát 2.2.1. Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán Trước khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên sẽ được thông báo lịch kiểm toán, danh sách nhóm kiểm toán, nhóm trưởng nhóm kiểm toán tại các khách hàng cụ thể, kiểm toán viên sẽ tìm hiểu một số thông tin về khách hàng mình sắp kiểm toán như: thông tin về nhân sự, thông tin về kế toán, thông tin về hợp đồng… Trưởng nhóm sẽ là người trực tiếp giám sát các KTV trong việc sử dụng các kỹ thuật để thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán. Các giấy tờ làm việc của KTV được nhóm trưởng soát xét nhằm đảm bảo các kỹ thuật thu thập đúng quy định, thông tin thu thập được là đầy đủ, công việc tiến hành đúng chuẩn mực, đúng quy trình kiểm toán. 2.2.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong giai đoạn thực hiện kiểm toán Sau khi khảo sát về đơn vị khách hàng, nhóm trưởng sẽ thiết lập kế hoạch kiểm toán trong đó nêu rõ mục tiêu, nội dung, trọng yếu kiểm toán. Căn cứ vào kế hoạch kiểm toán, trình độ năng lực và thế mạnh của từng kiểm toán viên, nhóm trưởng tiến hành phân công công việc cụ thể: nhóm trưởng phổ biến cho từng kiểm toán viên nắm rõ những nội dung, phần hành kiểm toán được phân công, các phương pháp kiểm toán cần áp dụng và những trọng tâm cần chú ý trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán. Trưởng nhóm kiểm toán tăng cường giám sát tiến độ thực hiện công việc, các thủ tục kiểm toán, các phương pháp kiểm toán mà KTV đã áp dụng. Đồng thời, trưởng nhóm cũng cũng phải giám sát việc tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp và giám sát việc ghi chép giấy tờ làm việc của KTV… Ngoài ra, trưởng nhóm cũng có thể hỗ trợ các KTV trong việc đánh giá chất lượng của bằng chứng kiểm toán và tham gia thảo luận với các KTV khác khi có các vấn đề còn nghi vấn để đi tới quyết định chính xác. Việc soát xét chất lượng kiểm toán trong giai đoạn này còn thể hiện thông qua các giấy làm việc. Các giấy tờ làm việc được trình bày và sắp xếp theo trình tự từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận đến các bằng chứng kiểm toán cụ thể. Trong mỗi hồ sơ kiểm toán, trang tổng hợp luôn ở vị trí đầu tiên, sau đó là trang kết luận, tiếp đến là chương trình kiểm toán, sau nữa là các giấy tờ làm việc khác mô tả chi tiết các bước công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện cùng kết quả thu được, cuối cùng là các tài liệu thu thập được từ phía khách hàng. Việc sắp xếp giấy tờ làm việc như vậy cho phép người sử dụng thấy ngay được kết luận của kiểm toán viên và căn cứ đưa ra kết luận đó. Các trưởng nhóm, trưởng phòng nghiệp vụ cũng như các thành viên kiểm soát chất lượng có thể dễ dàng soát xét các công việc mà kiểm toán viên đã làm. Bảng 2.3 Mẫu giấy soát xét Mẫu giấy soát xét Khách hàng...... .................... Ref:........................................ Niên độ kế toán.................... KTV:..................................... Ngày:..................................... STT Các vấn đề Ý kiến của KTV Ý kiến của Trưởng phòng/P.phòng Ý kiến của Ban Giám đốc I Kết quả kiểm toán năm trước Ý kiến Tham chiếu Ý kiến Tham chiếu Ý kiến Tham chiếu II Các sai sót phát hiện năm nay. Lập Báo cáo tài chính Tiền Khoản phải thu Hàng tồn kho ...................... III Kết luận chung 2.2.3. Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Trưởng nhóm kiểm toán sẽ trực tiếp xem xét các tổng hợp công việc của KTV để đảm bảo sự chính xác, đầy đủ, hợp lý của kết quả kiểm toán phản ánh trong các biên bản kiểm toán. Đồng thời, trưởng nhóm cũng xem xét lại tất cả các bằng chứng kiểm toán, các nhận xét… Một lần nữa, các giấy tờ làm việc của KTV được soát xét bởi lãnh đạo phòng trước khi trình lên Ban Giám đốc. Sau đó, Ban Giám đốc xem xét tính hợp lý của kết quả kiểm toán. Nếu kết quả kiểm toán được Ban Giám đốc phê duyệt thì Công ty sẽ phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng. AASC đã tiến hành soát xét kỹ báo cáo kiểm toán trước khi phát hành. Do đó, báo cáo được đưa ra với chất lượng và độ tin cậy cao. Sau khi báo cáo kiểm toán được chính thức phát hành, kiểm toán viên của AASC vẫn tiếp tục theo dõi các sự kiện sau ngày phát hành báo cáo và xem xét sự ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Có thể nói, hoạt động kiểm soát ở tất cả các cấp và tất cả các giai đoạn của quy trình kiểm toán đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác kiểm toán, góp phần nâng cao chất lượng của từng cuộc kiểm toán. 2.3. Tổ chức hệ thống hồ sơ kiểm toán tại Công ty Tài liệu trong hồ sơ kiểm toán phản ánh các thủ tục áp dụng, các thử nghiệm thực hiện, các thông tin thu được và những kết luận tương thích trong quá trình kiểm toán. Mỗi một khách hàng kiểm toán có một hồ sơ kiểm toán riêng, bao gồm hai loại hồ sơ kiểm toán chung và hồ sơ kiểm toán năm. Thứ nhất: Hồ sơ kiểm toán chung: Hồ sơ kiểm toán chung chứa đựng những thông tin chung về khách thể kiểm toán liên quan tới nhiều cuộc kiểm toán trong nhiều năm của cùng một khách thể kiểm toán. Các thông tin đó được khái quát qua bảng 2.4. Hồ sơ kiểm toán chung bao gồm các thông tin chung mà kiểm toán viên bắt buộc phải thu thập để có những hiểu biết sơ bộ về khách hàng. Phần lớn các thông tin trong hồ sơ kiểm toán chung là do khách hàng cung cấp hoặc do kiểm toán viên thu thập được thông qua phỏng vấn các cá nhân về những vấn đề này. Với những khách hàng được kiểm toán là năm đầu tiên thì kiểm toán viên phải thu thập toàn bộ các thông tin trong hồ sơ kiểm toán chung còn với những khách hàng thường xuyên thì kiểm toán viên cần cập nhật thêm các thông tin mới liên quan đến sự thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng trong năm kiểm toán đó để bổ sung vào hồ sơ kiểm toán chung. Việc nghiên cứu hồ sơ kiểm toán chung giúp các kiểm toán viên biết được những đặc điểm chung nhất của khách hàng cùng những vấn đề đặc biệt liên quan đến khách hàng để lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán một cách tốt nhất. Đối với mỗi chỉ mục trong hồ sơ kiểm toán chung là những thông tin quan trọng về khách hàng. Bảng 2.4 Ký hiệu các thông tin chung Tên khách hàng:………………. Ký hiệu:……………………...... Mã khách hàng:……………… I Các thông tin chung II Các tài liệu pháp luật III Các tài liệu về thuế IV Các tài liệu nhân sự V Các tài liệu kế toán VI Các tài liệu về hợp đồng VII Các thủ tục Thứ hai: Hồ sơ kiểm toán năm: Trong hồ sơ kiểm toán năm có lưu giữ những bằng chứng của cuộc kiểm toán được thực hiện trong năm, và kết luận kiểm toán cho năm kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán năm chứa đựng các thông tin chung về việc thực hiện hợp đồng kiểm toán của năm hiện hành. Hồ sơ kiểm toán năm được chia thành hai phần: hồ sơ tổng hợp và hồ sơ làm việc. Một là hồ sơ tổng hợp: Hồ sơ tổng hợp bao gồm các thông tin tổng hợp liên quan đến năm kiểm toán hiện hành. Đây chủ yếu là những ghi chép của kiểm toán viên chứ không phải là tài liệu mà kiểm toán viên thu thập được. Hồ sơ kiểm toán tổng hợp bao gồm các phần được khái quát qua bảng 2.5. Hai là hồ sơ làm việc: Hồ sơ làm việc ghi lại quá trình thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính của công ty khách hàng đối với mỗi phần hành cụ thể. Mỗi thành viên trong đoàn kiểm toán phụ trách một số phần hành và lưu lại giấy tờ làm việc của mình. Các giấy tờ này là bằng chứng chứng minh rằng phần hành đó đã được kiểm tra và cũng là cơ sở để các cấp soát xét lại báo cáo trước khi phát hành. Bảng 2.5 Ký hiệu các thông tin năm Khách hàng:…………… Ngày kết thúc niên độ:…. Mã khách hàng:………….. I Báo cáo kiểm toán, báo cáo tài chính đã được kiểm toán, thư quản lý II Tổng kết công việc kiểm toán của niên độ III Kế hoạch kiểm toán IV Các sự kiện phát sinh sau khi phát hành báo cáo kiểm toán năm trước V Bản ghi nhớ những sửa chữa của kiểm toán VI Những vấn đề chưa rõ cần được giải quyết, các vấn đề cần lưu ý cho cuộc kiểm toán năm sau VII Các sự kiện phát sinh sau niên độ kế toán và trước khi phát hành báo cáo kiểm toán VIII Ngân sách kiểm toán và thời gian làm việc IX Các tài liệu khác Trong công tác kiểm toán, các kiểm toán viên đã tiến hành sắp xếp tài liệu, hồ sơ kiểm toán theo trình tự thích hợp, thuận tiện cho công tác kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán. Hồ sơ làm việc được sắp xếp theo từng tài khoản và trong một tài khoản thì các giấy tờ làm việc lại được sắp xếp theo thứ tự như sau: Trang tổng hợp; Trang kết luận; Trang chương trình kiểm toán; Trang giấy làm việc; Trong quá trình cuộc kiểm toán diễn ra, kiểm toán viên tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán, từ đó sắp xếp các tài liệu này theo trình tự tham chiếu do Công ty quy định, theo đó, các giấy tờ làm việc trong phần chung, khái quát được sắp xếp ngay trong phần đầu của hồ sơ kiểm toán. Trong cách đánh tham chiếu, mỗi một phần hành kiểm toán bao gồm: Kết luận kiểm toán cho phần hành kiểm toán và tiếp sau đó là các giấy tờ làm việc và bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập được. Trên mỗi trang giấy làm việc của AASC bao gồm các thông tin bắt buộc sau: tên khách hàng, niên độ kế toán, khoản mục, bước công việc, tham chiếu, người thực hiện, ngày thực hiện, người kiểm tra, ngày kiểm tra. Phần doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, theo quy định tại AASC được đánh tham chiếu là R, doanh thu tài chính được đánh tham chiếu là T. Bên cạnh đó AASC còn tự thiết kế cho mình một hệ thống các câu hỏi để người lập hồ sơ kiểm toán xác định xem hồ sơ kiểm toán đã đầy đủ và hợp lý chưa. Nếu như tất cả các câu hỏi đặt ra đều được thỏa mãn thì chứng tỏ hồ sơ kiểm toán được lập là đầy đủ. Hệ thống các câu hỏi này như sau: Các giấy tờ làm việc trong hồ sơ được tham chiếu logic và hợp lý không; Các yếu tố bắt buộc của giấy làm việc có được ghi đầy đủ không; Các ký hiệu trên giấy tờ làm việc đã được chú thích hết chưa; Trên giấy tờ làm việc đã thể hiện được đầy đủ mục tiêu kiểm toán, công việc thực hiện, kết quả và kết luận của tất cả các khoản mục không; Kiểm toán viên đã thực hiện đối chiếu giữa số dư đầu kỳ với số dư cuối kỳ trước, giữa số dư cuối kỳ này với số dư trên bảng cân đối phát sinh hay bảng cân đối kế toán chưa; Việc lập các bút toán điều chỉnh, đưa ra các nhận xét kiểm toán có được ghi chép đầy đủ, có căn cứ và tham chiếu chéo một cách thức hợp lý không; Việc thực hiện các thủ tục kiểm toán đã đầy đủ và hoàn thành chưa; Đã thu thập đầy đủ các thông tin cho phần lập thuyết minh báo cáo tài chính và thư quản lý chưa; Tất cả các vấn đề chưa được làm rõ, các vướng mắc chưa được giải quyết có thể hiện đầy đủ trên giấy làm việc không; PHẦN III: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY 3.1. Một số đánh giá tổng quan về Công ty 3.1.1. Những mặt mạnh của Công ty Thứ nhất: AASC là một trong hai công ty kiểm toán đầu tiên tại Việt Nam, với quá trình phát triển lâu dài và bền vững. Sau hơn 16 năm xây dựng và phát triển, AASC đã đạt được nhiều thành tựu lớn. AASC đã có được một số lượng khách hàng đông đảo trong nhiều lĩnh vực từ sản xuất, thương mại, xây dựng cho đến ngân hàng, tài chính, bảo hiểm… Bằng trình độ, nghiệp vụ, AASC đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn… với chất lượng cao, đáp ứng được sự tin cậy của khách hàng. Với những thành công như vậy là vì AASC có được những thế mạnh sau: Một là bộ máy quản lý của AASC được tổ chức một cách khoa học và hiệu quả trong nhiều năm qua: Ban Giám đốc Công ty đều là những người được cấp chứng chỉ KTV đầu tiên tại Việt Nam, có trách nhiệm trong công việc và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, kế toán, tư vấn tài chính luôn giám sát chặt chẽ quá trình cung cấp các dịch vụ kiểm toán. Hai là nhân sự: Với đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, có kiến thức và kỹ năng chuyên môn, sáng tạo trong công việc, luôn luôn tìm tòi học hỏi. Ngoài những kiến thức cập nhật thường xuyên do đòi hỏi của công việc, hàng năm, nhân viên của Công ty đều được đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn qua các khoá học tập huấn do Công ty tổ chức. Thứ hai: Về quy trình kiểm toán: Để có được những thành công như vậy là nhờ AASC đã xây dựng được một quy trình kiểm toán hợp lý, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cao. Quy trình kiểm toán tại AASC được xây dựng trên cơ sở lý thuyết kiểm toán, tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng như các Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận và các quy định khác của Bộ Tài chính và được thể hiện qua từng giai đoạn: Đối với giai đoạn chuẩn bị: Công việc lập kế hoạch kiểm toán được AASC thực hiện khá tốt. Ưu điểm của giai đoạn này là: Một: Hệ thống câu hỏi đánh giá hệ thống KSNB khá chi tiết, từ công việc đánh giá nhân sự phòng kế toán đến việc thực hiện từng khoản mục cụ thể. AASC cũng đã thiết kế được chương trình kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục một cách khoa học, giúp cho việc thực hiện kiểm toán tiết kiệm được thời gian và chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên thu thập thông tin về khách hàng như cơ cấu tổ chức, ngành nghề kinh doanh, các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. Điều này giúp kiểm toán viên đánh giá được các rủi ro đồng thời định hướng cho quá trình kiểm toán tập trung vào các vấn đề có rủi ro cao, nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán. Bên cạnh đó, AASC tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, hệ thống kế toán, quy trình hạch toán đang áp dụng, cơ cấu tổ chức và hoạt động kiểm soát của đơn vị. Đối với các khách hàng thường niên, AASC lưu các thông tin này trong hồ sơ chung và luôn cập nhật những thay đổi qua các năm. Công việc này giúp tiết kiệm chi phí và thời gian tìm hiểu khách hàng cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán, giúp nâng cao hiệu quả cho cuộc kiểm toán. Hai: Về đánh giá rủi ro: Tại AASC, thông thường việc đánh giá này được thực hiện bởi các kiểm toán viên lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, là các trưởng phòng hoặc các Phó Tổng Giám đốc. Công ty đã thiết kế một mẫu “phân tích hiệu quả hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ” đối với hệ thống kế toán, số dư tài khoản và loại nghiệp vụ theo từng cơ sở dẫn liệu trên báo cáo tài chính. Mẫu phân tích này làm giảm thiểu các ý kiến bất đồng giữa ban giám đốc công ty khách hàng với kiểm toán viên. Đối với giai đoạn thực hiện: Giai đoạn này là giai đoạn kiểm toán viên làm việc trực tiếp tại công ty khách hàng. Quá trình làm việc này được tiến hành một cách khoa học: Một: Kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết: Đã lập được bám sát, các kiểm toán viên của AASC đã thực hiện kiểm toán một cách toàn diện các báo cáo tài chính của khách hàng. Mặc dù thời gian thực hiện cho mỗi cuộc kiểm toán hạn chế nhưng các kiểm toán viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thập được các bằng chứng đầy đủ và đáng tin cậy, cần thiết cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên. Tại AASC, công việc kiểm toán được tiến hành theo khoản mục. Các khoản mục này được thực hiện bởi các kiểm toán viên khác nhau nhưng giữa các kiểm toán viên luôn có sự phối hợp chặt chẽ. Hai: Về việc trình bày và sắp xếp giấy tờ làm việc tại AASC: Các giấy làm việc được trình bày và sắp xếp theo trình tự từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận đến các bằng chứng kiểm toán cụ thể. Trong mỗi hồ sơ kiểm toán, trang tổng hợp luôn ở vị trí đầu tiên, sau đó là trang kết luận, tiếp đến là chương trình kiểm toán, sau nữa là các giấy tờ làm việc khác mô tả chi tiết các bước công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện cùng kết quả thu được, cuối cùng là các tài liệu thu thập được từ phía khách hàng. Việc sắp xếp giấy tờ làm việc như vậy cho phép người sử dụng thấy ngay được kết luận của kiểm toán viên và căn cứ đưa ra kết luận đó. Các trưởng nhóm, trưởng phòng nghiệp vụ cũng như các thành viên kiểm soát chất lượng có thể dễ dàng soát xét các công việc mà kiểm toán viên đã làm. Đối với giai đoạn kết thúc: AASC đã tiến hành soát xét kỹ báo cáo kiểm toán trước khi phát hành. Do đó, báo cáo được đưa ra với chất lượng và độ tin cậy cao. Sau khi báo cáo kiểm toán được chính thức phát hành, kiểm toán viên của AASC vẫn tiếp tục theo dõi các sự kiện sau ngày phát hành báo cáo và xem xét sự ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. 3.1.2. Những mặt còn tồn tại của Công ty Thứ nhất: Những hạn chế trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Một: Khi sử dụng bảng câu hỏi để tìm hiểu hệ thống KSNB, Công ty chưa quy định rõ tiêu chí để đưa ra đánh giá hệ thống KSNB là tốt, khá, trung bình hay kém. Việc đánh giá hệ thống KSNB vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, khả năng xét đoán của kiểm toán viên. Vì vậy, có thể xảy ra trường hợp các kiểm toán viên khác nhau đưa ra quan điểm khác nhau về tính hiệu quả của hệ thống KSNB. Từ đó sẽ gây ra khó khăn cho kiểm toán viên trong việc đưa ra kết luận về hệ thống KSNB của khách hàng. Điều đó là do bảng câu hỏi được thiết kế sẵn, theo mẫu chung của AASC và được áp dụng chung cho tất cả các khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng của AASC rất đa dạng, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có đặc điểm khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng một mẫu bảng câu hỏi cho tất cả các khách hàng có thể sẽ làm cho quá trình tìm hiểu không đạt được mục tiêu hoặc bỏ sót các thông tin quan trọng phục vụ cho quá trình kiểm toán. Cũng có thể thấy bảng câu hỏi chỉ bao gồm các câu hỏi đóng, không mô tả được một cách có hệ thống các thủ tục kiểm soát nội bộ đang được áp dụng. Hai: Lập kế hoạch là công việc đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu của chính cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán mà còn nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện kiểm toán, giúp cho công ty kiểm toán tiết kiệm chi phí kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả công tác kiểm toán. Tuy nhiên, hiện nay công tác lập kế hoạch kiểm toán cho các cuộc kiểm toán của AASC chưa thực sự được chú trọng. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán thì các bước quan trọng bao gồm: thu thập thông tin cơ sở về khách hàng, thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Phần lớn trong các cuộc kiểm toán tại AASC hiện nay, bước thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ và đánh giá hệ thống KSNB thường được dựa trên kinh nghiệm phán đoán của KTV chứ không được thể hiện cụ thể trên giấy tờ làm việc. Điều này khiến cho khâu lập kế hoạch còn nhiều hạn chế. Ba: Việc soạn thảo chương trình kiểm toán riêng biệt cho từng cuộc kiểm toán vẫn chưa thực hiện được. Công ty nên xây dựng chương trình cho mỗi cuộc kiểm toán, nếu có thủ tục bổ sung thì trình bày bằng văn bản để định hướng cho người thực hiện kiểm toán và thuận lợi cho việc soát xét. Tuy nhiên, với khung mẫu có sẵn, chương trình kiểm toán áp dụng với mọi loại hình khách hàng nên sẽ thiếu sự linh hoạt khi áp dụng. Kiểm toán viên cần bổ xung các thủ tục cần thiết cho phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. Thứ hai: Những hạn chế trong giai đoạn thực hiện kiểm toán: Một: Về việc thực hiện thủ tục phân tích: Tại AASC, thông thường kiểm toán viên chỉ tiến hành phân tích xu hướng biến động của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán, không thực hiện thủ tục phân tích các tỷ suất tài chính. Điều này sẽ gây ra những hạn chế trong việc thực hiện mục tiêu nói trên. Phân tích xu hướng biến động chỉ cho thấy những biến động bất thường, nguyên nhân của biến động của từng khoản mục, chỉ tiêu mà chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa các khoản mục đó. Hai: Về phương pháp chọn mẫu: Ở AASC, các kiểm toán viên thường chọn mẫu theo kinh nghiệm. Đó là phương pháp mà mẫu chọn bao gồm các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất thường và các nghiệp vụ có số tiền lớn. Phương pháp chọn mẫu này tuy chi phí thấp nhưng lại chứa đựng rủi ro vì chưa hẳn gian lận và sai sót đã xảy ra ở các nghiệp vụ có số tiền phát sinh lớn. Kiểm toán viên thường ít lựa chọn các khoản mục có sai số nhỏ, tuy khó phát hiện nhưng sai sót này lại mang tính hệ thống. Ba: Về trình bày giấy tờ làm việc: Tại AASC, giấy tờ làm việc được thiết kế theo một mẫu có sẵn. Trên giấy làm việc thường in sẵn các thông tin bắt buộc kiểm toán viên phải điền vào: tên khách hàng, niên độ kế toán, khoản mục, bước công việc, tham chiếu, người thực hiện, ngày thực hiện. Đây là những thông tin quan trọng xác định công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện và là cơ sở cho việc kiểm tra, soát xét, xác định trách nhiệm của người thực hiện. Tuy nhiên, các kiểm toán viên thường không điền ngay các thông tin này khi thực hiện mà khi chuẩn bị hồ sơ mới hoàn tất thông tin nên nhiều thông tin trên giấy tờ bị bỏ sót. Kiểm toán viên nên điền đầy đủ thông tin ngay tại mỗi bước công việc để thuận lợi cho quá trình tổng hợp và xác định trách nhiệm. Khi kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên thường chỉ ghi lại những sai sót phát hiện được mà không ghi lại công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện… Điều này có thể chấp nhận được nếu những sai sót là nhỏ, không nghiêm trọng. Còn trong trường hợp sai sót là nghiêm trọng thì cần phải ghi lại đầy đủ các bước công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện cùng kết quả thu được từ bước công việc đó. Thứ ba: Những hạn chế trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: Một: Về tổng hợp bút toán điều chỉnh của kiểm toán viên: Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV đã xác định được mức trọng yếu và thực hiện phân bổ mức trọng yếu cho các bộ phận, khoản mục, từ đó tính ra sai sót có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kiểm toán, KTV thấy có sai sót là điều chỉnh và không quan tâm đến mức trọng yếu có thể bỏ qua. Từ đó, dẫn đến việc đưa ra kết luận kiểm toán có quá nhiều bút toán điều chỉnh sai sót mà các sai sót đó không được coi là trọng yếu. Điều đó sẽ làm lãng phí thời gian làm việc của KTV đồng thời ảnh hưởng đến việc theo dõi sổ sách của đơn vị sau điều chỉnh. Hai: Về việc so sánh ước tính sai số kết hợp víi ước tính ban ®Çu vÒ møc träng yÕu: AASC đã xây dựng quy trình đánh giá trọng yếu gồm năm bước, và trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV đã thực hiện ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và phân bổ ước lượng ban đầu về mức trọng yếu cho các bộ phận. Tuy nhiên, trong giai đoạn kết thúc kiểm toán thì các KTV không thực hiện ước lượng sai số cho các bộ phận và ước tính sai số kết hợp để so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Kiểm toán viên đã tin tưởng rằng sai số kết hợp nhỏ hơn ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Vì thế, rất dễ bỏ sót bút toán điều chỉnh sai sót nếu sai số kết hợp lớn hơn ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. 3.2. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán tại Công ty Qua đây, em xin đề xuất một số ý kiến đóng góp như sau: Thứ nhất: Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán: Một: Để đánh giá hệ thống KSNB của khách hàng, cần thiết phải lập bảng câu hỏi về hệ thống KSNB đối với từng khoản mục. Đồng thời, bảng câu hỏi đánh giá hệ thống KSNB nên bao gồm các câu hỏi mở, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp riêng. Bên cạnh đó, Công ty nên đưa ra tiêu chí để đánh giá hệ thống KSNB là tốt, khá, trung bình hay kém. Hai: Về chương trình kiểm toán: Do đặc thù của mỗi doanh nghiệp khác nhau về ngành nghề kinh doanh, hình thức sở hữu cũng như cơ cấu tổ chức, kiểm toán viên phải có sự linh hoạt khi áp dụng chương trình kiểm toán sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của khách hàng. Chương trình kiểm toán được thiết kế ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kiểm toán và có thể phải sửa đổi do hoàn cảnh thay đổi. Sự thay đổi chương trình kiểm toán ban đầu không phải là điều gì bất thường vì được dự kiến trước vì việc dự kiến trước tất cả các tình huống xảy ra là rất khó khăn. Nguyên nhân dẫn đến việc phải có những sửa đổi đáng kể trong kế hoạch hoặc chương trình kiểm toán cần phải được ghi rõ trong hồ sơ kiểm toán. Trường hợp kiểm toán năm đầu tiên cho khách hàng mới, kiểm toán viên phải mở rộng quy trình lập kế hoạch kiểm toán dựa trên những nội dung đã được nêu. Thứ hai: Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán: Một: Thủ tục phân tích là một phương pháp kiểm toán rất hữu hiệu, tiết kiệm được thời gian và chi phí nhưng vẫn đảm bảo việc đưa ra kết luận đáng tin cậy. Trước khi thực hiện các thủ tục phân tích, KTV nên rà soát một cách sơ lược về ngành nghề của khách hàng để nắm bắt được tình hình thực tế cũng như xu hướng chung của ngành nhằm tạo căn cứ phân tích. Trường hợp tài liệu phân tích không cho kết quả như dự kiến của KTV thì KTV phải điều tra làm rõ nguyên nhân. Đối với các thông tin thu thập để phân tích, kiểm toán viên nên tăng cường lượng thông tin về nội bộ ngành cũng như các ngành có liên quan. Việc phân chia các tiêu thức theo ngành và lĩnh vực hoạt động sẽ làm cơ sở để so sánh giữa thực tế tại doanh nghiệp với các chỉ tiêu trung bình theo ngành nhằm tìm ra những biến động bất hợp lý và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng nên chú ý phân tích các chỉ số. Các chỉ số tuyệt đối bản thân cung cấp không đủ thông tin. Việc phân tích so sánh đòi hỏi phải so sánh với một tiêu chuẩn đã lựa chọn cần đạt được. Cần phải có sự chú tâm trong việc sử dụng các chỉ số. Những hạn chế của các chỉ số gồm tính trung thực của các con số trong bảng cân đối tài sản, ảnh hưởng của lạm phát, tình trạng thiếu số liệu chi tiết và mức độ phù hợp của số liệu đã sử dụng. Hai: Về phương pháp chọn mẫu: Ngoài chọn mẫu các nghiệp vụ bất thường hoặc có phát sinh lớn, các kiểm toán viên cũng nên chọn ngẫu nhiên các nghiệp vụ khác để phát hiện các sai phạm có tính hệ thống, ảnh hưởng trọng yếu. Thứ ba: Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: Một: Về việc tổng hợp bút toán điều chỉnh của kiểm toán viên: KTV nên căn cứ vào tính trọng yếu của các bộ phận để từ đó đưa ra bút toán điều chỉnh thích hợp. Hai: Về việc so sánh ước tính sai số kết hợp víi ước tính ban ®Çu vÒ møc träng yÕu: AASC nên thực hiện đầy đủ các bước đánh giá trọng yếu mà AASC đã xây dựng. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán việc đánh giá trọng yếu bao gồm các bước sau: Ước tính sai sót của các bộ phận: Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán tất cả các sai sót phát hiện đều được KTV ghi trong giấy tờ làm việc, đây là sai sót phát hiện được. Tuy nhiên, do chỉ thực hiện chọn mẫu còn nhiều khoản sai sót chưa được thực hiện, đòi hỏi kiểm toán viên phải ước tính sai sót tổng thể cho bộ phận. Ước tính sai sót kết hợp: Trong bước này KTV thực hiện bằng cách cộng số học tất cả ước tính sai sót của khoản mục và các bộ phận khác đã tính được ở bước trên. So sánh ước tính sai số kết hợp với ước tính ban đầu hoặc xem lại ước lượng ban đầu về tính trọng yếu: Trong bước này KTV so sánh ước lượng ban đầu về mức trọng yếu và ước tính sai số kết hợp, nếu sai số kết hợp cao hơn ước lượng ban đầu thì kiểm toán viên phải bổ sung các thủ tục kiểm toán và yêu cầu khách hàng điều chỉnh sai sót. Trường hợp KTV thấy ước lượng ban đầu là quá lớn hoặc quá bé thì KTV có thể xác định lại mức trọng yếu cho phù hợp. KẾT LUẬN Quá trình hội nhập đang diễn ra một cách mạnh mẽ, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nói chung và các công ty kiểm toán của Việt Nam nói riêng là hết sức quan trọng. Đối với kiểm toán là một lĩnh vực còn khá non trẻ tại Việt Nam nên đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa. Cụ thể, chúng ta cần từng bước hội nhập Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam với Chuẩn mực kiểm toán quốc tế, hoàn thiện quy trình kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán của nước ta. Trong phạm vi một Báo cáo Thực tập tổng hợp, em cũng đã mạnh dạn trình bày tổng quan về Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán cũng như công tác kiểm toán tại Công ty, góp phần hoàn thiện công tác tổ chức tại Công ty. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và những điều kiện khác trong quá trình thực tập nên Báo cáo của em chắc còn có nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để Báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – GS.TS.Nguyễn Quang Quynh đã giúp đỡ em trong suốt thời gian vừa qua để em có thể hoàn thiện Báo cáo này. Hà Nội, ngày 23 tháng 03 năm 2008 Sinh viên thực hiện: Trần Thị Thu Hà DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU STT Tên Nội dung Trang 1 Bảng 1.1 : Kết quả kinh doanh trong 5 năm...............................8 2 Bảng 2.1 : Câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng………………………………………...19 3 Bảng 2.2 : Bảng kết quả đánh giá rủi ro tổng quát……………23 4 Bảng 2.3 : Mẫu giấy soát xét………………………………….36 5 Bảng 2.4 : Ký hiệu các thông tin chung………………………38 6 Bảng 2.5 : Ký hiệu các thông tin năm………………………...39 7 Sơ đồ 1.1 : Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty........................11 8 Sơ đồ 2.1 : Quy trình kiểm toán chung......................................15 9 Sơ đồ 2.2 : Quy trình kiểm soát chất lượng kiểm toán………...34 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Nội dung 1 DNNN : Doanh nghiệp nhà nước 2 GTGT : Giá trị gia tăng 3 KSNB : Kiểm soát nội bộ 4 KTV : Kiểm toán viên 5 TL : Trợ lý 6 TNHH : Trách nhiệm hữu hạn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lý thuyết kiểm toán Chủ biên: GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, Nhà xuất bản Tài chính 2. Kiểm toán tài chính Chủ biên: GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, Nhà xuất bản Tài chính 3. Hồ sơ kiểm toán và các tài liệu có liên quan khác của Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32901.doc
Tài liệu liên quan