Báo cáo Thực tập tổng hợp tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội phòng giao dịch Hai Bà Trưng

Nâng cao hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư của PGD Hai Bà Trưng ngoài việc cần phải có các biện pháp Vĩ mô của nhà nước, phải có phương hướng hoạt động đúng đắn của Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên, PGD Hai Bà Trưng cũng cần thực hiện một số giải pháp như: - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, huy động vốn ngày thứ 7. - Tiếp cận linh hoạt và duy trì mối quan hệ với những khách hàng có nguồn vốn lớn, thay đổi phong cách, nâng cao chất lượng phục vụ, thu hút thêm nguồn vốn của tổ chức tín dụng trên địa bàn nhằm đảm bảo sự ổn định và có tăng trưởng nguồn vốn thường xuyên. - Cần coi trọng và có chính sách ưu đãi hợp lý đối với khách hàng truyền thống có nguồn vốn lớn tạm thời nhàn rỗi, song cũng không được xem nhẹ nguồn vốn từ các tầng lớp dân cư trên đại bàn. - Đổi mới phong cách phục vụ và thái độ giao dịch phải tận tình, chu đáo. Đồng thời mở rộng dịch vụ thu tiền lưu động tại các khu đô thị tạo điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng khi giử tiền. - Mở rộng các hoạt động dịch vụ như: dịch vụ uỷ thác chi trả lương hộ, dịch vụ thẻ, dịch vụ thu cước điện thoại - Tổ chức triển khai kịp thời những biện pháp huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp cấp trên như: tiết kiệm dự thưởng - Tập trung mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế khi có phương án vay vốn khả thi, đủ điều kiện vay vốn, từ đó thay đổi cơ cấu dư nợ hợp lý. - Tích cực tìm kiếm cho vay các dự án trung và dài hạn có tính khả thi cao. - Coi trọng, nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện nghiêm túc các văn bản chế độ thể lệ của ngành từ đó có hướng đầu tư cho vay hợp lý và phòng ngừa rủi ro.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tổng hợp tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội phòng giao dịch Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng năng lực cho các đơn vị trực tiếp kinh doanh. Năm 2001 là năm đầu tiên Ngân hàng No&PTNT triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu với các nội dung chính là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tài chính, nâng cao chất lượng tài sản có, chuyển đổi hệ thống kế toán hiện hành theo chuẩn mực quốc tế, đổi mới sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại, tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ tập trung đổi mới công nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin hiện đại. Năm 2002, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam tiếp tục tăng cường quan hệ quốc tế. Đến cuối năm 2002, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã trở thành thành viên của APRACA, CICA và ABA. Trong đó, Tổng Giám đốc Ngân hàng No&PTNT là thành viên chính thức Ban điều hành của APRACA và CICA. Năm 2003, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án Tái cơ cấu nhằm đưa hoạt động của ngân hàng phát triển với quy mô lớn, chất lượng cao. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiêp-nông thôn, Chủ tịch nước CHXHCNVN đã ký quyết định số 226/2003/QĐ/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Tính đến năm 2004, sau 4 năm triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu giai đoạn 2001-2010, Ngân hàng No&PTNT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: tình hình tài chính đã được lành mạnh hơn qua việc cơ cấu lại nợ và tăng vốn điều lệ, xử lý trên 90% nợ tồn đọng. Mô hình tổ chức từng bước được hoàn thiện nhằm tăng cường năng lực quản trị điều hành. Bộ máy lãnh đạo từ trung ương đến chi nhánh được củng cố, hoàn thiện, quyền tự chủ trong kinh doanh được mở rộng hơn. Từ năm 2006, bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mới, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam (Agribank) đã thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu hộ gia đình. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn toàn là vốn huy động. Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của Agribank và cũng là năm có tính chất quyết định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. Trong chiến lược phát triển của mình, Agribank sẽ trở thành một tập đoàn tài chính đa ngành, đa sở hữu, hoạt động đa lĩnh vực. Sáng ngày 03/01/2009, Agribank vinh dự đứng thứ 2 trong số 104 doanh nghiệp được nhận giải “Doanh nghiệp phát triển bền vững”. 2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Mô hình tổ chức Agribank Việt Nam Hội đồng quản trị Ban Kiểm soát Ban quản lý rủi ro Bộ phận giúp việc HĐQT Tổng giám đốc Các phó Tổng giám đốc Hệ thống kiểm tra kiểm toán nội bộ Kế toán trưởng Hệ Thống Ban chuyên môn nghiệp vụ Sở Quản lý KD vốn và ngoại tệ Chi nhánh Sở giao dịch Văn phòng đại diện Đơn vị sự nghiệp Công ty trực thuộc Ngoài trụ sở chính nằm tại số 2, Láng Hạ, Quận Ba Đình, Hà Nội, Agribank còn có 3 văn phòng đại diện: miền Nam, miền Trung và văn phòng đại diện Campuchia. Sở quản lý kinh doanh vốn và ngoại tệ và Sở giao dịch nằm ngay tại trụ sở chính. Agribank còn có 5 trung tâm: trung tâm Công nghệ thông tin, trung tâm đào tạo, trung tâm thẻ, trung tâm thanh toán, trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro và 8 công ty trực thuộc: Công ty cho thuê tài chính I, Công ty cho thuê tài chính II, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty In thương mại và dịch vụ ngân hàng, Công ty kinh doanh mỹ nghệ Vàng bạc Đá quý, Công ty Vàng bạc Đá quý TP.HCM, Công ty du lịch thương mại Agribank, Công ty kinh doanh lương thực và đầu tư phát triển và 1800 chi nhánh trên toàn quốc. II. Khái quát về Ngân hàng No&PTNT Hà Nội và PGD Hai Bà Trưng 1. Khái quát về Ngân hàng No&PTNT Hà Nội 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng No&PTNT Hà Nội Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà Nội, nay là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội- gọi tắt là Agribank Hà Nội được thành lập theo quyết định số 51-NH/QĐ ngày 27/06/1988 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 Công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công-Nông-Thương thành phố Hà Nội và 12 chi nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp huyện được đổi tên từ các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77, Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khi mới thành lập, Agribank Hà Nội đã có nhiều khó khăn. Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn đọng. Trụ sở, phương tiện, kho tàng không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Agribank Hà Nội đã sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các ngân hàng đã có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn. Không những thế, khi mới thành lập, Agribank Hà Nội luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt, những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương, Agribank Hà Nội cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức, kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, Agribank Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp, nhờ vậy chỉ sau hơn 2 năm hoạt động, từ năm 1990 trở đi, Agribank Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng. Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà nội đã phối hợp với Hội Nông đân, Hội liên hiệp phụ nữ thành phố đã đẩy mạnh cho vay phát triển các sản phẩm Nông Nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò sữa, gia súc, gia cầm, phát triển vùng chuyên canh rau, hoa cây cảnh...nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và gia tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng kể. Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phú Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phúc và Hà Tây. Sau đó, thực hiện mô hình 2 cấp từ tháng 10 năm 1995, Agribank Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thành Trì, Từ Liêm, Gia Lâm. Từ tháng 11 năm 2004 đến nay, tiếp tục bàn giao các chi nhánh Chương Dương, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thành Xuân về Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Lúc này, Agribank Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng Nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dáng dấp của sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Hà Nội. Để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, Agribank Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành. Sau 20 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, Agribank Hà Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rông quan hệ đối ngoại, phát triển đa dạng hoá dịch vụ đặc biệt chi trả lương ngân sách qua thẻ ATM và các hoạt động khác. Cùng với vịêc tích cực tìm mọi giải pháp để huy động vốn nhất là tiền gửi từ dân cư và đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Từ năm 1995, Agribank Hà Nội triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, chỉ sau 11 năm đã có thể giao dịch với gần 900 Ngân hàng và đại lý các tổ chức tín dụng Quốc tế, với doanh số thanh toán xuất nhập khẩu hàng năm từ 200 đến 250 triệu USD, đông thời hàng năm đã khai thác được hàng trăm triệu USD, JPY, EURO, DM và nhiều loại ngoại tệ khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Hoạt động thanh toán quốc tế đã nhanh chóng tạo được sự tín nhiệm của nhiều khách hàng trong và ngoài nước, đến nay, Agribank Hà Nội đã mở rộng thanh toán biên mậu với các nước láng giềng, nhất là Trung Quốc, thực hiện các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hối… Ngoài những nhiệm vụ chính, Agribank Hà Nội đã quan tâm mở rộng các loại hình dịch vụ tiện ích như: chuyển tiền, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, mở L/C nhập khẩu, Phonebanking, thẻ ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ, tư vấn trong thanh toán Quốc tế, thu tiền tại nhà…mở mang nhiều tiện lợi cho khách hàng và tăng thu dịch vụ cho Ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập trong khu vực và quốc tế, Agribank Hà Nội đã từng bước hiện đại hoá hoạt động Ngân hàng mà trọng tâm là công tác thanh toán, chuyển tiền điện tử cho khách hàng, đến nay, mọi nhu cầu chuyển tiền cho khách hàng trong và ngoài hệ thống được thực hiện ngay trong ngày làm việc, thậm chí chỉ trong thời gian rất ngắn với độ an toàn và chính xác cao. Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, bên cạnh việc mở rộng hoạt động kinh doanh, cán bộ viên chức Agribank Hà Nội đã tích cực hưởng ứng các công tác xã hội như: ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, ủng hộ người nghèo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tổ chức thăm hỏi các gia đình thương binh liệt sĩ, ủng hộ xây nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách… Với những cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế Thủ đô cũng như sự phát triển của ngành ngân hàng, từ ngày thành lập đến nay, Agribank Hà Nội luôn đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, được nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương lao động hạng Nhì, 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 1 Huân chương chiến công hạng Ba, 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 37 Bằng khen của Thống đốc NHNN Việt Nam, 33 Bằng khen của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội, 39 Chiến sỹ thi đua, 1266 lượt lao động giỏi cấp cơ sở. Phát huy truyền thống hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế trong quá trình hội nhập, Agribank Hà Nội sẽ phát huy những thành quả và bài học kinh nghiệm bước đầu trong quản lý điều hành kinh doanh, đồng thời được sự giúp đỡ của các cấp, các ngành cũng với sự nỗ lực, đoàn kết phấn đầu của tập thể cán bộ, viên chức, Agribank Hà Nội sẽ phát triển bền vững và giánh được nhiều thành tích to lớn hơn nữa. 1.2. Mô hình tổ chức Ngân hàng No&PTNT Hà Nội BAN GIÁM ĐỐC Các Phòng, tổ nghiệp vụ - Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp - Phòng tín dụng - Phòng Thẩm định - Phòng Kế toán - Ngân quỹ - Phòng Thanh toán quốc tế - Phòng vi tính - Phòng hành chính - Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo - Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ - Tổ tiếp thị - Tổ nghiệp vụ thẻ Chi nhánh cấp 2, phòng giao dịch trực thuộc - Phòng tín dụng - Phòng Kế toán - Ngân quỹ 2. Sự hình thành và phát triển của Phòng giao dịch Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng 2.1. Sự hình thành và phát triển của Phòng giao dịch Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Chợ Hôm (nay là PGD Hai Bà Trưng) được thành lập theo quyết định số 12-TCCB-DT ngày 01/08/1994 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, tại địa chỉ: số 60, Ngô Thì Nhậm, Hai Bà Trưng, Hà Nội, với 4 PGD cấp dưới: PGD số 12 ở địa chỉ: 207 Trương Định PGD số 14 ở địa chỉ: 142 Lò Đúc PGD số 40 ở địa chỉ: 109 Lê Thanh Nghị PGD số 52 ở địa chỉ: 102A3 Đầm Trấu Việc thành lập chi nhánh Chợ Mơ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nói chung, huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế, phát triển mạng lưới Ngân hàng Nông nghiệp. Ngày 19/06/1998, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã ký quyết định số 340/QĐ-NHNN-02 về việc đổi tên chi nhánh Chợ Hôm thành chi nhánh Hai Bà Trưng. Sau khi Quyết định 888/2005/QĐ/NHNN ngày 16-06-2005 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về việc mở, thành lập và chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại có hiệu lực, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng No&PTNT đã có nhiều biến động. Ngày 31/01/2008, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã ký quyết định số 138/QĐ-NHNN-TCCB về việc điều chỉnh chi nhánh Hai Bà Trưng từ chi nhánh cấp 2 thành PGD Hai Bà Trưng. Được thành lập khi mà tên cũng như uy tín của Ngân hàng Nông nghiệp đã được nhiều cá nhân, tổ chức biết đến, lại nằm ngay ở trung tâm đông dân cư, PGD Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng đã có những thuận lợi bước đầu. Song ngay từ khi mới thành lập, PGD Hai Bà Trưng đã sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng, các chi nhánh Ngân hàng khác đã có bề dày hoạt động kinh doanh. Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần vào việc đổi mới nông thôn ngoại thành Hà Nội, PGD Hai Bà Trưng đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Bên cạnh việc huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, từ năm 1995, PGD Hai Bà Trưng đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, góp phần vào việc khai thác nhiều loại ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài những nhiệm vụ chính: huy động vốn, cho vay ngắn, trung, dài hạn…PGD Hai Bà Trưng còn thực hiện các loại hình dịch vụ tiện ích như: chuyển tiền, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng, bảo lãnh hoàn thanh toán, mở L/C, thẻ tín dụng nội địa…tăng thêm nhiều tiện lợi cho khách hàng và tăng thu dịch vụ cho ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập trong khu vực và quốc tế, với trọng tâm hàng đầu mà mọi thành viên của Agribank Hà Nội nói chung và PGD Hai Bà Trưng nói riêng đều thực sự quan tâm là hiệu quả kinh doanh cuối cùng, đặc biệt là chất lượng tín dụng, tập thể cán bộ PGD Hai Bà Trưng luôn nỗ lực, đoàn kết phấn đấu, phát huy những thành quả và bài học kinh nghiệm bước đầu trong quản lý điều hành kinh doanh, góp phần vào việc phát triển hệ thống Ngân hàng, đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho nền kinh tế. 2.2. Nhiệm vụ của PGD Hai Bà Trưng Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước bằng Đông Việt Nam Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp. Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân bà hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền. Hướng dẫn khách hàng lập dự án, thẩm định các dự án tín dụng vượt quyền phán quyết, trình Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên quyết định. Kinh doanh các nghiệp vụ ngoại hối khi được Tổng giám đốc Ngân hàng No&PTNT cho phép. Kinh doanh dịch vụ: Thu, chi tiền mặt; thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức, cá nhân khác trong và ngoài nước; các dịch vụ ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp quy định. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn trong quy định. Tổ chức thực hiện việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. 2.3. Cơ cấu tổ chức Phòng giao dịch Hai Bà Trưng BAN GIÁM ĐỐC Phòng Ngân quỹ Phòng tín dụng và thanh toán quốc tế Phòng Kế toán và giao dịch Trước ngày 31/01/2008, chi nhánh Hai Bà Trưng có tất cả 40 cán bộ công nhân viên. Sau ngày 31/01/2008, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng No&PTNT có nhiều thay đổi. Tổng số cán bộ công nhân viên của PGD Hai Bà Trưng là: 18 người. Trong đó: Trình độ Đại học: 16 người Trình độ cao đẳng: 1 người Trình độ trung cấp: 1 người Được bố trí và sắp xếp như sau Ban Giám đốc gồm: + 1 Giám đốc + 2 Phó giám đốc Phòng kế toán-giao dịch: 5 người Phòng Ngân quỹ: 3 người Phòng tín dụng và thanh toán quốc tế: 5 người Bảo vệ: 2 người Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban: 2.3.1. Ban Giám đốc Ban Giám đốc có nhiệm vụ chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động của chi nhánh, quyết định cho vay, bảo lãnh trong thẩm quyền của mình. 2.3.2. Phòng kế toán và giao dịch Nhận tiền giử bằng VNĐ và ngoại tệ đối với các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân. Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ đối với các thành phần kinh tế, cho vay ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, kinh doanh, xuất nhập khẩu. Cho vay phục vụ đời sống đối với cán bộ công nhân viên có thu nhập ổn định Cho vay thông qua hình thức cầm cố trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm có kỳ hạn. Thực hiện các dịch vụ ngân hàng bao gồm: + Mở L/C và thanh toán quốc tế + Kinh doanh, thu đổi ngoại tệ, chi trả kiều hối, chuyển tiền đi và nhận trả tiền qua thanh toán chuyển tiền toàn quốc + Dịch vụ thu hộ, chi hộ, chi trả lương cán bộ công nhân + Chuyển tiền điện tử toàn quốc + Giao dịch tự động bằng máy ATM - Thực hiện các công tác hạch toán, kế toán, theo dõi và phản ánh tình hình hoạt động các loại vốn, quỹ và tài sản tại chi nhánh. Lập và tổ chức chấp hành kế hoạch thu, chi tài chính của chi nhánh. 2.3.3. Phòng ngân quỹ Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định. Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương trình Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên phê duyệt Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ, tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định Thực hiện các khoản nộp ngân sách nhà nước theo luật định Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định 2.3.4. Phòng tín dụng và thanh toán quốc tế Nghiên cứu, xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng. Nghiên cứu, đề xuất, cải tiến thủ tục cho vay, tạo thuận lợi cho khách hàng Trực tiếp thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng thuộc thẩm quyền Phân tích hoạt động tín dụng, phân loại nợ, phân tích nợ quá hạn để tìm nguyên nhân và đề xuất hướng giải quyết Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột suất theo quy định Thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ 2.4. Các sản phẩm-dịch vụ Dịch vụ tiết kiệm Dịch vụ tìa khoản Tín dụng Thanh toán quốc tế Mua bán ngoại tệ Bảo lãnh Dịch vụ chuyển tiền Dịch vụ ngân quỹ Dịch vụ thẻ Chương II. Tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư của PGD Hai Bà Trưng I. Tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh Những năm qua, PGD Hai Bà Trưng đã không ngừng mở rộng quan hệ khách hàng, đầy mạnh công tác tín dụng, chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, PGD Hai Bà Trưng luôn duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống, nâng cao chất lượng tín dụng, tạo niềm tin và uy tín đối với khách hàng. 1. Hoạt động huy động vốn Vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Bất kỳ một tổ chức nào muốn hoạt động tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao thì điều kiện trước tiên là phải có nguồn vốn dồi dào. Do đó, việc huy động vốn là hết sức quan trọng đặc biệt đối với các tổ chức kinh doanh tiền tệ như các ngân hàng thương mại. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của PGD Hai Bà Trưng Đơn vị: Triệu VNĐ chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 Tiền gửi của dân cư 223371 279536 287875 262681 Tiền gửi không kỳ hạn 1713 1734 1940 22217 Tiền gửi có kỳ hạn 221658 277802 285935 240464 Tiền gửi của các tổ chức KT 100531 192625 261097 245596 Tiền gửi không kỳ hạn 28531 69925 54797 26846 Tiền gửi có kỳ hạn 72000 122700 206300 218750 Tiền gửi của các TCTD 77311 8111 3403 509 Tổng cộng 401213 480272 552375 508786 Nhìn chung, nguồn vốn huy động được của PGD Hai Bà Trưng có xu hướng tăng. Năm 2005, tổng nguồn vốn huy động được là 401.213 triệu VNĐ. Trong đó chủ yếu là tiền gửi của dân cư chiếm hơn 55%. Sang năm 2006, mặc dù phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh do sự ra đời của nhiều chi nhánh ngân hàng trên địa bàn. Song, với sự nỗ lực của tập thể cán bộ, công nhân viên, tiếp cận linh hoạt và duy trì mối quan hệ với những khách hàng có nguồn vốn lớn, thay đổi phong cách, nâng cao chất lượng phục vụ, chi nhánh Hai Bà Trưng đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao về tổng nguồn vốn. So với năm 2005, tổng nguồn vốn năm 2006 tăng 79059 triệu VNĐ, tương ứng với tăng 19,7% so với năm 2005. Phát huy kinh nghiệm trong việc huy động vốn, năm 2007, chi nhánh Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng vốn khá cao. Năm 2007, tổng nguồn vốn huy động được là 552375 triệu VNĐ, tăng 15% so với năm 2006. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 35,5%, tiền gửi của dân cư tăng 3% so với năm 2006. Việc gia tăng tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế cho thấy niềm tin và uy tín của chi nhánh đối với khách hàng ngày càng cao. Năm 2008, công tác huy động vốn của chi nhánh gặp phải nhiều khó khăn như việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chi nhánh Hai Bà Trưng điều chỉnh thành PGD Hai Bà Trưng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc huy động vốn. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu từ khủng hoảng tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và đầu năm 2008 đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù, chưa có những tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam, song cuộc khủng hoảng cũng đã làm suy giảm lòng tin của người dân và các tổ chức đối với hoạt động ngân hàng. Do đó mà việc huy động vốn trong năm qua gặp nhiều khó khăn, khiến cho tổng nguồn vốn huy động được trong năm 2008 giảm 43589 triệu VNĐ tương ứng với 7,9% so với năm 2007. Trong tổng nguồn vốn, tiền gửi có kỳ hạn các năm luôn chiếm tỷ lệ cao, trung bình trên 88,9%. Điều đó cho thấy sự tin tưởng của khách hàng vào hoạt động của ngân hàng No&PTNT nói chung và của PGD Hai Bà Trưng nói riêng. Tỷ lệ tiền gửi có kỳ hạn cao, tạo điều kiện ổn định nguồn vốn huy động được của ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện cho vay trung và dài hạn. 2. Hoạt động tín dụng Huy động và cho vay là hai nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các ngân hàng thương mại. Với trọng tâm hàng đầu là đẩy mạnh cho vay, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng tại PGD Hai Bà Trưng đã có nhiều khởi sắc. Bảng 2: Tình hình dư nợ tín dụng của PGD Hai Bà Trưng Đơn vị: Triệu VNĐ chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 Tổng dư nợ 246176 259224 301425 287768 Dư nợ phân theo thời hạn Dư nợ cho vay ngắn hạn 184642 199584 245268 252543 Dư nợ cho vay trung và dài hạn 61534 59640 56157 35225 Dư nợ phân theo thành phần kinh tế Dư nợ DNNN 49466 37587 20716 15719 Dư nợ DN ngoài quốc doanh 52682 50485 79895 118595 Dư nợ tư nhân 144028 171152 200814 153454 Nợ quá hạn 507 3184 2571 4521 Nghiệp vụ tín dụng liên tục được mở rộng, dư nợ qua các năm có xu hướng tăng, năm 2006 tổng dư nợ tăng 5,3% so với năm 2005. Năm 2006, doanh số cho vay và tổng dư nợ tăng ở mức hạn chế là do thực hiện các giải pháp tín dụng nhằm đảm bảo kìm chế lạm phát cũng như hạn chế tăng trưởng nóng trong lĩnh vực đầu tư, PGD Hai Bà Trưng đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ tín dụng, chỉ đầu tư vào các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh, cương quyết hạn chế cho vay đối với các doanh nghiệp xếp loại B,C nếu không bổ sung tài sản đảm bảo. Sang năm 2007, tổng dư nợ tăng 16,3% so với năm 2006. Sở dĩ là do doanh số cho vay năm 2007 tăng so với năm 2006. Sang năm 2008, ngành ngân hàng phải đối mặt với nhiều thách thức do cuộc khủng khoảng kinh tế tài chính. Từ đầu năm 2008, sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như của các hộ gia đình sản xuất. Việc tiếp cận được vốn tín dụng từ ngân hàng của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn dẫn đến tâm lý không muốn trả các khoản nợ đã đến hạn từ phía khách hàng. Những khó khăn trên làm cho dư nợ năm 2008 giảm 13657 triệu VNĐ so với năm 2007, tương ứng với 4,5% so với năm 2007, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ lại tăng: năm 2008, tỷ lệ nợ quá hạn là 1,6%, năm 2007, tỷ lệ này là 0,9%. Nguyên nhân của việc nợ quá hạn tăng cao trong năm 2008 là do chủ trương thắt chặt tín dụng chống lạm phát, PGD Hai Bà Trưng đã cắt giảm hạn mức tín dụng. Đồng thời năm 2008, lãi suất tín dụng tăng, tình hình vay vốn của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn tới chi phí giá thành sản phẩm cao, lợi nhuận giảm, kèm theo đó là năng lực tài chính suy giảm, vốn luân chuyển chậm, không thực hiện đúng kế hoạch trả nợ ngân hàng dẫn tới nợ quá hạn tăng đột biến. Tuy vậy, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm 2008 là 1,6% vẫn thấp hơn tỷ lệ nợ quá hạn chung của các ngân hàng thương mại (2%) điều này cho thấy sự nỗ lực của các cán bộ tín dụng PGD Hai Bà Trưng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. Nhìn chung, cho vay ngắn hạn có xu hướng tăng lên, trong khi cho vay trung và dài hạn có xu hướng giảm xuống. Điều này là do, cho vay trung và dài hạn thường có rủi ro lớn, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng, PGD đã thực hiện cho vay ngắn hạn với tỷ lệ nhiều hơn. Tỷ trọng cho vay DNNN giảm từ 14,5% năm 2006 xuống còn 6,9% năm 2007 và 5,5% năm 2008. Trong khi đó, tỷ lệ cho vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng ngày càng tăng từ 19,5% năm 2006 lên 26,5% năm 2007 và 41,2% năm 2008. Sự thay đổi trong cơ cấu cho vay này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường. 3. Hoạt động thanh toán quốc tế Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, việc các tổ chức, các doanh nghiệp tham gia hoạt động, buôn bán quốc tế trở nên rất phổ biến. Tuy nhiên, những trở ngại về ngôn ngữ, sự khác biệt về luật lệ và chính sách, phong tục và tập quán, khoảng cách về địa lý. Sự khác nhau về tiền tệ và chế độ quản lý ngoại hối…có thể gây ra những khó khăn hoặc rủi ro các tổ chức, các doanh nghiệp. Để giúp các tổ chức, các doanh nghiệp khi tham gia vào các hoạt động quốc tế, Agribank đã mở rộng mạng lưới với 1800 chi nhánh trên toàn quốc, gần 900 ngân hàng đại lý tại 110 quốc gia và vùng lãnh thổ và những dịch vụ tài chính ngân hàng quốc tế hiện đại. Hoạt động thanh toán quốc tế của Agribank nói chung và của PGD Hai Bà Trưng nói riêng ngày càng trở nên sôi nổi hơn. Mặc dù năm 2004, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn là một loại hình mới đưa vào thực hiện tại một chi nhánh cấp 2 trực thuộc đơn vị thành viên. Nhưng trong mấy năm gần đây, PGD Hai Bà Trưng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Trong hoạt động thanh toán nhập khẩu, thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) đang là hình thức phổ biến. Năm 2006, PGD Hai Bà Trưng đã mở 23 L/C và 1 món thông báo nhờ thu với tổng giá trị 4.280.000 USD cho các nhu cầu nhập khẩu như: sắt, thép, phân bón, máy móc, công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp…; 7 món thông báo L/C và 1 món gửi nhờ thu xuất khẩu các loại hàng hoá như: cao su, cà phê, một số mặt hàng nông sản… với tổng trị giá 313.068 USD, và đã thanh toán hàng nhập cho 38 món với tổng trị giá 5.602.456 USD. Sang năm 2007, PGD đã thực hiện mở 27 L/C và 6 món thông báo nhờ thu với tổng giá trị 7.986.120 USD cho các nhu cầu nhập khấu, 6 món thông báo L/C xuất khẩu với tổng trị giá 297.188 USD và đã thanh toán hàng nhập khẩu qua chuyển tiền tổng trị giá 687.986 USD. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cùng với đà tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của PGD Hai Bà Trưng có xu hướng tăng. Bảng 3: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của PGD Hai Bà Trưng Đơn vị: triệu VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 Doanh số mua 83549 91201 111472 42489 Doanh số bán 83415 91107 111424 42336 Doanh số mua và bán từ năm 2005 đến năm 2007 liên tục tăng. Năm 2006 tăng 9,2% so với năm 2005, năm 2007 doanh số mua và bán tăng 22,3% so với năm 2006. Sang năm 2008, doanh số mua bán ngoại tệ của PGD giảm hơn 61,9%. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ cuối năm 2007 đầu năm 2008. 4. Hoạt động thẩm định dự án vay vốn 4.1. Quy trình thẩm định Khách hàng Đề xuất tín dụng Thẩm định - Thẩm định khách hàng - Thẩm định dự án Ra bản từ chối cho vay Thương lượng - Kỳ hạn - Thanh toán - Các điều khoản - Đảm bảo tiền vay - Vấn đề khác Phê duyệt - Cán bộ quản trị rủi ro - Giám đốc hoặc Phó giám đốc Thủ tục hồ sơ và giải ngân Đủ đk vay vốn Không đủ đk vay vốn NH (P. tín dụng) Phân công cán bộ phụ trách dự án 4.2. Phương pháp thẩm định dự án vay vốn 4.2.1. Thẩm định theo trình tự Việc thẩm định được tiến hành theo một trình tự từ tổng quát đến chi tiết, kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. Thẩm định tổng quát là xem xét khái quát các nội dung cần thẩm định. Qua đó, đánh giá một cách chung nhất tính đầy đủ, phù hợp, hợp lý của dự án như: hồ sơ dự án, tư cách pháp lý của chủ đầu tư… Thẩm định chi tiết được tiến hành sau thẩm đinh tổng quát. Việc thẩm định được tiến hành tỉ mỉ, chi tiết với từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến việc thẩm định thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính và kinh tế xã hội của dự án. 4.2.2. Phương pháp so sánh đối chiếu các chỉ tiêu Nội dung của phương pháp này là so sánh, đối chiếu nội dung dự án với các chuẩn mực pháp lý quy định, các tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật thích hợp, thông lệ quốc tệ và trong nước cũng như các kinh nghiệm thực tế. 4.2.4. Phương pháp phân tích độ nhạy Phương pháp này được ngân hàng dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án xin vay vốn. Phân tích độ nhạy của dự án là xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án khi các yếu tố có liên quan đến chỉ tiêu đó thay đổi. Phân tích độ nhạy nhằm xác định hiệu quả của dự án trong điều kiện biến động của các yếu tố có liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính đó. Việc phân tích độ nhạy của dự án cho phép đánh giá được độ an toàn cho những kết quả dự tính, cũng như đánh giá được tính vững chắc của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính. 4.3. Nội dung thẩm định 4.3.1. Kiểm tra hồ sơ vay vốn Tuỳ theo loại khách hàng, mà hồ sơ vay vốn do khách hàng lập và cung cấp có các yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên, hồ sơ vay vốn của khách hàng phải đảm báo được các yêu cầu chung, trên cơ sở phục vụ cho cán bộ thẩm định kiểm tra các nội dung: Kiểm tra hồ sơ pháp lý Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp; Điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân); Quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quả trị (nếu có), Tổng giám đốc (giám đốc), kế toán trưởng, quyết định công nhận ban quản trị, chủ nhiệm hợp tác xã; Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy phép hành nghề (nếu có); Giấy phép đầu tư (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh); Kiểm tra hồ sơ vay vốn Giấy đề nghị vay vốn; Kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong kỳ; Dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống; Các chứng từ có liên quan; Các báo cáo tài chính 3 năm gần nhất (đã được kiểm toán) và quý gần nhất; Đối với pháp nhân hoạt động chưa được 2 năm, yêu cầu gửi báo cáo tài chính đến thời điểm gần nhất; Các báo cáo tài chính dự tính cho 3 năm tới và cơ sở tính toán; Bảng kê các lạo công nợ của doanh nghiệp; Bảng kê các khoản phải thu, phải trả lớn của doanh nghiệp; Hồ sơ khác có liên quan; 4.3.2. Thẩm định khách hàng Thẩm định khách hàng là một trong những nội dung quan trọng cần được thực hiện trước khi ngân hàng quyết định cho vay. Thẩm định khách hàng nhằm xem xét khách hàng có đủ điều kiện để cấp tín dụng, đầu tư hay không, có đáng tin cậy để cấp tín dụng, đầu tư không, có khả năng để thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư không. Nội dung thẩm định khách hàng bao gồm: Đánh giá về tư cách, năng lực pháp lý của khách hàng Khách hàng xin cấp tín dụng phải có đủ năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật, phải có đủ hồ sơ chứng minh năng lực pháp lý theo quy định pháp luật hiện hành. Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng, chủ đầu tư nhằm xác định sức mạnh về tài chính, khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của khách hàng, chủ đầu tư. Ngoài ra còn xác định số vốn chủ sở hữu thực tế tham gia vào dự án đầu tư xin vay vốn. Việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng dựa trên mọi nguồn thông tin liên quan đến tài chính của khách hàng. Cơ sở chính để phân tích, đánh giá là các báo cáo tài chính của khách hàng, chủ đầu tư được lập theo quy định. Việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng, của chủ đầu tư được thông qua các nội dung như: + Đánh giá khái quát tình hình tài chính của khách hàng thông qua xem xét tổng nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. + Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng, khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán, đánh giá về tài sản cố định của khách hàng - Đánh giá quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng Khi tiến hành thẩm định khách hàng, cán bộ tín dụng đánh giá quan hệ tín dụng của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng, phân tích các khoản vay, nợ của khách hàng, chủ đầu tư với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các khoản vay tín dụng ngắn hạn, trung hạn, bảo lãnh. Việc đánh giá dựa trên các thông tin như: doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ, đánh giá mức độ tín nhiệm trong quan hệ tín dụng của khách hàng. - Đánh giá chung về khách hàng xin cấp tín dụng + Đánh giá về trình độ tổ chức và quản lý + Đánh giá về kinh nghiệm, năng lực quản lý, tư cách của lãnh đạo doanh nghiệp + Uy tín của khách hàng + Đánh giá về tình hình phát triển và tình hình hoạt động của khách hàng 5. Hoạt động đánh giá và quản lý rủi ro các dự án vay vốn Việc đánh giá rủi ro của dự án thường được xem xét trên các nội dung như: - Rủi ro về cơ chế chính sách Việc đánh giá rủi ro về cơ chế chính sách thực chất là xem cơ chế chính sách có ổn định không, nếu có thay đổi thì theo thay đổi theo chiều hướng nào, có ảnh hưởng như thế nào đến dự án vay vốn. Rủi ro thị trường, thu nhập, thanh toán Rủi ro về cung cấp Rủi ro kinh tế vĩ mô Rủi ro kỹ thuật, vận hành, bảo trì Rủi ro xây dựng, hoàn tất Rủi ro môi trường xã hội Trong phân tích, đánh giá rủi ro, PGD cũng thường sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, cụ thể hoá rủi ro thành con số, để từ đó xác định được mức độ rủi ro của dự án. 6. Hoạt động đầu tư Không chỉ chú trọng nâng cao hiệu quả huy động vốn và nâng cao chất lượng tín dụng, PGD Hai Bà Trưng đã đẩy mạnh đầu tư, hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng. Về đầu tư cơ sở vật chất, tính đến năm 2008, PGD Hai Bà Trưng đã đầu tư 1.318 triệu VNĐ cho máy móc, thiết bị; 467 triệu VNĐ cho phương tiện vận tải và thiết bị truyền dẫn, 822 triệu VNĐ cho phần mềm máy vi tính… Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết lập mạng thanh toán liên ngân hàng nội bộ tập trung, hệ thống quản lý vốn tập trung, ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, triển khai ứng dụng thanh toán SWIFT, dịch vụ thẻ…đã mở ra nhiều cơ hội mới để nâng cao hiệu quả hoạt động cho PGD. Việc đầu tư hàng tỷ đồng cho máy móc thiết bị, cải tiến nâng cấp các chương trình công nghệ, hiện đại hóa các sản phẩm dịch vụ, hướng đến tối đa hóa tiện ích và lợi ích cho khách hàng. Đến nay, PGD Hai Bà Trưng đã được trang bị hệ thống tính toán hiện đại, phần mềm ứng dụng đa dạng, phong phú, phục vụ đắc lực cho hoạt động của PGD trong việc thực hiện các nghiệp vụ. Đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư khá khiêm tốn của PGD Hai Bà Trưng. Cho đến năm 2008, PGD mới đầu tư hơn 938 triệu VNĐ vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu do NHNN phát hành, công trái giáo dục và một số trái phiếu do các tổ chức tài chính khác phát hành. II. Đánh giá hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư của PGD Hai Bà Trưng 1. Kết quả đạt được - Về hoạt động huy động vốn, nhìn chung nguồn vốn huy động được của PGD Hai Bà Trưng có xu hướng tăng. Nguồn vốn huy động được năm 2005 là 401.213 triệu VNĐ, đến năm 2008, nguồn vốn huy động được đã tăng lên tới 508.786 triệu VNĐ tương ứng với tăng 26,8%. - Về hoạt động tín dụng. Mặc dù PGD đã mở rộng tín dụng đến các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, PGD vẫn lấy an toàn, hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng làm mục tiêu hoạt động. Do đó mà năm 2008, dư nợ tín dụng tại PGD có giảm. Nợ quá hạn, nợ xấu tăng do nhiều doanh nghiệp chịu ảnh hưởng từ các biến động của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2008 là 1,6%. Trong khi đó, năm 2007, tỷ lệ nợ quá hạn là 0,9%. Mặc dù năm 2008, tỷ lệ nợ quá hạn có tăng lên tới 1,6%, song vẫn thấp hơn tỷ lệ nợ quá hạn chung của các ngân hàng thương mại và tỷ lệ nợ quá hạn ngân hàng nhà nước cho phép. - Về hoạt động thanh toán quốc tế, PGD đã ứng dụng các công nghệ hiện đại hóa, tiên tiến hóa, theo hướng tự động hóa, tăng nhanh tốc độ xử lý, giúp cho việc thực hiện các dịch vụ thanh toán trở nên nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong các quan hệ thương mại, thanh toán trong và ngoài nước. - Hoạt động thẩm định và đánh giá rủi ro có vai trò rất quan trọng, là cơ sở để ra quyết định cho vay vốn. Quy trình thẩm định, đánh giá rủi ro tại PGD Hai Bà Trưng được tiến hành theo quy chuẩn của hệ thống Ngân hàng No&PTNT. Dự án vay vốn dần dần được phân tích thẩm định trên nhiều phương diện: khía cạnh pháp lý, khía cạnh thị trường, khía cạnh kỹ thuật-công nghệ… Kết quả thẩm định đã phản ánh được tương đối đầy đủ các chỉ tiêu để đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh. Kết quả đánh giá rủi ro cơ bản đã xác định được rủi ro của dự án. Có tính toán lại các chỉ tiêu tài chính như: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn đầu tư, thời gian hoàn trả vốn vay đối với dự án mà chủ đầu tư có tính toán và đề cập đến. 2. Tồn tại và các nguyên nhân tồn tại 2.1. Tồn tại - Nguồn vốn huy động được và dư nợ tín dụng tại PGD Hai Bà Trưng còn nhỏ. Năm 2005-2007, nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng tăng. Song đến năm 2008, tổng nguồn vốn huy động được giảm 7,9% so với năm 2007, dư nợ giảm 4,5% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng cao trong năm 2008: năm 2008, tỷ lệ nợ quá hạn là 1,6%, năm 2007, tỷ lệ này là 0,9%. Hoạt động thanh toán quốc tế vẫn còn ở quy mô nhỏ, các dịch vụ thanh toán chưa đa dạng. Hoạt động thẩm định và đánh giá rủi ro: + Thông tin phục vụ cho công tác thẩm định còn thiếu, nhiều thông tin đã lỗi thời. Việc phân tích đánh giá báo cáo tài chính của một số doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn do các báo cáo tài chính được lập ra mang tính chất đối phó, chưa phản ánh kịp thời tình hình hoạt động kinh doanh + Cán bộ thẩm định và đánh giá rủi ro còn rất trẻ. Bên canh thế mạnh là năng động, nhanh chóng tiếp thu được những kiến thức mới, nhưng cũng chưa có kinh nghiệm sâu trong công tác thẩm định. Dự án ở nhiều lĩnh vực đầu tư khác nhau, mỗi lĩnh vực đòi hỏi công nghệ, máy móc thiết bị khác nhau, cán bộ thẩm định ít am hiểu các lĩnh vực,mà chủ yếu tập trung thẩm định phương diện tài chính. 2.2. Nguyên nhân - Do phải cạnh tranh nhiều ngân hàng và các chi nhánh nên nguồn vốn huy động của PGD chưa cao. - PGD vẫn chưa có được các giải pháp huy đông vốn cụ thể, phù hợp với địa bàn mình. - Môi trường trong nước và quốc tế thiếu ổn định và có những biến động khó dự đoán. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính cuổi năm 2007, đầu năm 2008 đã gây ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn, tình hình tín dụng, thanh toán quốc tế của PGD. - Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế của từng ngành, từng vùng, từng địa phương chưa được cụ thể hoặc chủ trương chỉ đạo của các ngành hữu quan chưa đồng bộ dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định - Yếu tố thông tin phục vụ cho công tác thẩm định chủ yếu là từ hồ sơ vay vốn, do đó không mang tính khách quan. Thông tin thêm từ các nguồn: báo chí, internet, bạn hàng, tổ chức tín dụng… mang tính chắp vá, số lượng không nhiều. - Đội ngũ cán bộ chưa được phân công chuyên môn hoá. Chương III. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư của PGD Hai Bà Trưng I. Phương hướng và mục tiêu hoạt động 1. Phương hướng và mục tiêu hoạt động của Agribank Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân hàng, mục tiêu của AGRIBANK là tiếp tục giữ vững vị trí ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam  tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế. AGRIBANK kiên trì với định hướng chiến lược phát triển là: Tiếp tục triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu, chuẩn bị điều kiện để cổ phần hoá. Đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững. Tập trung sức toàn hệ thống, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ Đề án tái cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông  thôn Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt và tập trung xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam thành tập đoàn tài chính; Triển khai mạnh hai đề án gồm: “Đề án một số giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn cho Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” và “Đề án phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngoài tín dụng truyền thống”; Chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hoá vào năm 2009; Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời; Đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; Tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hoá, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp. Phấn đấu tăng tổng nguồn vốn từ 25-28%/năm, tổng dư nợ từ 20-25 %/năm, trong đó tỷ trọng tín dụng trung dài hạn tối đa chiếm 45 % tổng dư nợ trên cơ sở cân đối nguồn vốn cho phép; nợ quá hạn dưới 1 % tổng dư nợ; lợi nhuận tối thiểu tăng 10%. Tập trung đầu tư cho hệ thống tin học trên cơ sở đẩy nhanh tốc độ thực hiện tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng điều hành và phục vụ nhiều tiện ích thu hút khách hà ng. Tiếp tục triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001- 2010, xây dựng thành tập đoàn tài chính và thực hiện tốt cổ phần hoá theo đúng lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Xây dựng và hoàn thiện các Đề án: Đề án tái cơ cấu lại NHNo&PTNT Việt Nam giai đo ạn 2001-2010, Đề án cổ phần hoá NHNo&PTNT Việt Nam vào năm 2009. Xây dựng ngân hàng theo mô  hình ngân hàng  2 cấp quản lý tập trung thành các mô hình tổ chức quản lý theo nhóm khách hàng và loại sản phẩm dịch vụ. Triển khai các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo cho hoạt động ngân hàng được an toàn, hiệu quả, bền vững.  2. Phương hướng và mục tiêu hoạt động của PGD Hai Bà Trưng Góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu mà Agribank đã đề ra, PGD Hai Bà Trưng đã đề ra mục tiêu kinh doanh năm 2009 như tăng trưởng nguồn vốn từ 15-20%, dư nợ tăng từ 16-18%, nợ xấu từ nhóm 3 đến nhóm 5 dưới 1% trên tổng dư nợ. Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh. Nâng cao chất lượng tín dụng, trích và xử lý rủi ro theo đúng quy định của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, hạn chế mức tối đa nợ tồn đọng phát sinh Nhanh chóng thực hiện hiện đại hóa ngân hàng để phát triển trong cạnh tranh, trong thời đại hội nhập. II. Thuận lợi và khó khăn 1. Thuận lợi Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, việc các tổ chức, các doanh nghiệp tham gia hoạt động, buôn bán quốc tế trở nên rất phổ biến. Mà các hoạt động, buôn bán quốc tế sẽ trở nên khó khăn nếu thiếu sự tham gia của các ngân hàng trong việc thanh toán, thu chi…Bên cạnh đó, hội nhập khu vực và quốc tế còn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng mạng lưới, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đã và đang diễn ra gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các ngân hàng. Song từ đầu năm 2009, chính phủ, các cơ quan quản lý, đến cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư đã có những biện pháp chủ động, sẵn sàng đối phó với khó khăn, thách thức. Các doanh nghiệp phát triển, nhu cầu vay vốn tăng, đồng thời hoạt động của doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao góp phần bảo đảm an toàn cho đồng vốn cho vay của các ngân hàng. 2. Khó khăn Năm 2009 thực sự là một năm đầy thử thách đối với kinh tế-xã hội nước ta. Suy thoái kinh tế toàn cầu tác động trực tiếp tới triển vọng xuất khẩu. Khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài gặp không ít khó khăn. Do đó mà nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng trong đó có ngân hàng tăng cao. Song bên cạnh đó, suy thoái kinh tế toàn cầu còn ảnh hưởng đến tâm lý, làm suy giảm lòng tin của khách hàng vào hệ thống ngân hàng, gây khó khăn cho việc huy động vốn. Hơn nữa, Ngân hàng No&PTNT nói chung và PGD Hai Bà Trưng nói riêng còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng và chi nhánh khác. Đặc biệt, sự ra đời của 2 ngân hàng 100% vốn nước ngoài trong thời gian tới đây đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt hơn trong hoạt động của ngân hàng. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tưcủa PGD Hai Bà Trưng Nâng cao hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư của PGD Hai Bà Trưng ngoài việc cần phải có các biện pháp Vĩ mô của nhà nước, phải có phương hướng hoạt động đúng đắn của Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên, PGD Hai Bà Trưng cũng cần thực hiện một số giải pháp như: Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, huy động vốn ngày thứ 7. Tiếp cận linh hoạt và duy trì mối quan hệ với những khách hàng có nguồn vốn lớn, thay đổi phong cách, nâng cao chất lượng phục vụ, thu hút thêm nguồn vốn của tổ chức tín dụng trên địa bàn nhằm đảm bảo sự ổn định và có tăng trưởng nguồn vốn thường xuyên. Cần coi trọng và có chính sách ưu đãi hợp lý đối với khách hàng truyền thống có nguồn vốn lớn tạm thời nhàn rỗi, song cũng không được xem nhẹ nguồn vốn từ các tầng lớp dân cư trên đại bàn. Đổi mới phong cách phục vụ và thái độ giao dịch phải tận tình, chu đáo. Đồng thời mở rộng dịch vụ thu tiền lưu động tại các khu đô thị tạo điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng khi giử tiền. Mở rộng các hoạt động dịch vụ như: dịch vụ uỷ thác chi trả lương hộ, dịch vụ thẻ, dịch vụ thu cước điện thoại… Tổ chức triển khai kịp thời những biện pháp huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp cấp trên như: tiết kiệm dự thưởng… Tập trung mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế khi có phương án vay vốn khả thi, đủ điều kiện vay vốn, từ đó thay đổi cơ cấu dư nợ hợp lý. Tích cực tìm kiếm cho vay các dự án trung và dài hạn có tính khả thi cao. Coi trọng, nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện nghiêm túc các văn bản chế độ thể lệ của ngành từ đó có hướng đầu tư cho vay hợp lý và phòng ngừa rủi ro. Đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho quá trình thẩm định. Cần khai thác các loại thông tin một cách đầy đủ, chính xác, hiệu quả nhất qua các kênh thông tin về định mức kinh tế, kỹ thuật, suất đầu tư, kênh thông tin của các cơ quan quản lý chức năng, kênh thông tin từ các báo cáo nghiên cứu, hội thảo. Từng cán bộ phải đổi mới cách nghĩ, cách làm và không ngừng học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. KẾT LUẬN Đợt thực tập tổng hợp vừa qua đã cho em có được những hiểu biết tổng quan về các hoạt động của ngân hàng cụ thể ở đầy là PGD Hai Bà Trưng. Về hoạt động huy động vốn, nhìn chung nguồn vốn huy động được của PGD có xu hướng tăng. Năm 2008, do gặp phải nhiều khó khăn như việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nguồn vốn huy động được của PGD có giảm. Với trọng tâm là đẩy mạnh cho vay đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. PGD Hai Bà Trưng đã mở rộng tín dụng đến các thành phần kinh tế. Song vẫn lấy an toàn, hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng làm mục tiêu hoạt động. Về hoạt động thanh toán quốc tế, PGD đã ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiên tiến, theo hướng tự động hoá, tăng nhanh tốc độ xử lý, giúp cho việc thực hiện các dịch vụ thanh toán trở nên nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật, đáp ứng nhu cầu khách hàng trong các quan hệ thương mại, thành toán. Quy trình thẩm định và đánh giá rủi ro tại PGD được tiến hành theo quy chuẩn của hệ thống Ngân hàng No&PTNT. Dự án vay vốn dần được phân tích, đánh giá trên nhiều phương diện, tuy nhiên vẫn chủ yếu tập trung thẩm định trên phương diện tài chính. Với các biện pháp như: đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; đổi mới phong cách phục vụ và thái độ giao dịch tận tình, chu đáo; mở rộng các hoạt động dịch vụ như: dịch vụ uỷ thác chi trả lương hộ, dịch vụ thẻ, dịch vụ thu cước điện thoại…; coi trọng, nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế khi có phương án vay khả thi, đủ điều kiện;… cùng với sự nỗ lực đoàn kết phấn đấu, sự giúp đỡ của các cấp các ngành, PGD Hai Bà Trưng sẽ phát huy được những thành quả và bài học kinh nghiệm bước đầu để phát triển bền vững và giành được nhiều thành tích to lớn hơn nữa TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương, Kinh tế đầu tư, NXB ĐH Kinh tế Quốc Dân, 2007 Trần Thị Mai Hương, Bài giảng Thẩm định Dự án Đầu tư, 2008 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay đối với khách hàng Quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Báo cáo kế hoạch kinh doanh các năm của PGD Hai Bà Trưng www.vbard.com www.agribankhanoi.com.vn www.google.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22890.doc
Tài liệu liên quan