Lịch sử hình thành và phát triển của Thống kê Công nghiệp và Xây dựng Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm. Trong 60 năm đó đã đạt được nhiều thành tựu và cũng có những bài học và kinh nghiệm quý giá:
(1) Hoạt động Thống kê phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể phù hợp với thực tế. Trong đó, thường xuyên theo sát các chỉ tiêu kế hoạch, các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.
(2) Phải tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Thực tế đã chứng minh ngay cả trong thời kỳ hệ thống ngành Thống kê được được quản lý theo ngành dọc hoặc hoặc phân tán theo hệ thống ngành ngang trực thuộc địa phương thì ở đâu tranh thủ được sự lãnh đạo và giúp đỡ ủng hộ của các cơ quan, chính quyền các cấp thì ở đó hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng và đạt kết quả cao hơn.
(3) Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công tác Thống kê cũng luôn phải cải tiến, bổ sung, đổi mới về phương pháp, chế độ báo cáo và điều tra. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải ổn định và thường xuyên cập nhât kiến thức khoa học mới, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Việc này phải tiến hành thường xuyên, có kế thừa, có bổ sung sửa đổi.
(4) Phải luôn coi trọng đổ mới về chuyên môn nghiệp vụ, chủ động sáng tạo trong đổi mới và đổ mới kịp thời.
Mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể yêu cầu thông tin thống kê khác nhau. Điều này đòi hỏi công tác thống kê phải luôn luôn đổi mới để tránh lạc hậu, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động thống kê đổi mới và đi lên. Và điều kiện tiên quyết để thực hiện đổi mới là cán bộ lãnh đạo phải có tư duy đổi mới, phải chủ động sáng tạo trong đổi mới và phải thể hiện được nội dung đổi mới cụ thể là hệ thống chỉ tiêu báo cáo, hình thức tổ chức điều tra thu thập thông tin, phương pháp tính các chỉ tiêu, chất lượng sản phẩm đầu ra, ứng dụng của công nghệ thông tin trong điều tra và phân tích.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tổng hợp tại Vụ thống kê công nghiệp, tổng cục thống kê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1:
TỔNG QUAN VỀ VỤ THỐNG KÊ CÔNG NGHIỆP
TÔNG CỤC THỐNG KÊ
Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của Thống kê Công nghiệp
1. Những nét chung về ngành Thống kê và Tổng cục Thống kê
Ngày 6 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 61/SL quy định bộ máy tổ chức của Bộ quốc dân kinh tế gồm các phòng, ban, nha trực thuộc trong đó có Nha Thống kê Việt Nam. Vì thế, ngành Thống kê Việt Nam đã lấy ngày 6 tháng 5 năm 1946 là ngày thành lập ngành.
Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện quản lý nhà nước về thống kê; tổ chức thực hiện hoạt động thống kê và cung cấp thông tin thống kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật.
1.1 Hệ thống tổ chức của Tổng cục Thống kê
Tổng cục Thống kê được tổ chức theo ngành dọc, cụ thể:
Ở Trung ương có cơ quan Tổng cục Thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Cục Thống kê trực thuộc Tổng cục Thống kê;
Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Phòng Thống kê trực thuộc Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc Tổng cục theo quy định của pháp luật.
1.2 Về cơ cấu tổ chức của cơ quan Tổng cục Thống kê
a) Các tổ chức giúp Tổng cục trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước có các đơn vị: Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia; Vụ Phương pháp chế độ thống kê; Vụ Thống kê Tổng hợp; Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng; Vụ Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản; Vụ Thống kê Thương mại, Dịch vụ và Giá cả; Vụ Thống kê Dân số và Lao động; Vụ Thống kê Xã hội và Môi trường; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Tổ chức Cán bộ; Vụ Kế hoạch tài chính; Thanh tra; Văn phòng
b) Các đơn vị sự nghiệp thuộc Tổng cục Thống kê có các đơn vị sau: Viện Nghiên cứu khoa học thống kê; Trung tâm Tin học thống kê; Trung tâm Tư liệu thống kê; Tạp chí Con số và Sự kiện; Trường Cao đẳng thống kê; Trường Trung học thống kê II; Trung tâm Tin học thống kê khu vực II; Trung tâm Tin học thống kê khu vực III.
c) Các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Tổng cục Thống kê có các đơn vị sau: Nhà Xuất bản Thống kê; Công ty Phát hành Biểu mẫu Thống kê; Xí nghiệp in Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Thống kê Công nghiệp
Tình hình kinh tế xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất công nghiệp do đó đồng thời ảnh hưởng đến Thống kê Công nghiệp. Lịch sử 60 năm hình thành và phát triển (1947-2009) của Vụ Thống kê Công nghiệp có thể chia ra thành các thời kỳ sau:
2.1 Thời kỳ 1946-1954:
Đây là thời kỳ kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta (từ tháng 2/1946 đến tháng 5/1954). Trong 9 năm kháng chiến đó chính sách phát triển công nghiệp là phục vụ cho quốc phòng tại căn cứ địa cách mạng, với một số xí nghiệp quốc doanh nhỏ. Vì thế công nghiệp thời kỳ này không phát triển.
Số cán bộ Thống kê thời kỳ này chỉ có 3 đến 4 người và Thống kê Công nghiệp không có bộ phận chuyên trách mà chỉ có cán bộ làm Thống kê. Thực chất về nghiệp vụ chỉ là một số công việc ghi chép, tổng hợp mang tính liệt kê với một số cơ sở công nghiệp ít ỏi. Có thể nói nền móng Thống kê chưa hình thành về cả chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức bộ máy.
2.2 Thời kỳ 1955 - 1975
Đây là thời kỳ miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước.Ở miền Bắc xác định hai nhiệm vụ rõ ràng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam.
Giai đoạn 1955-1960: Ngành công nghiệp yêu cầu phải nắm được số lượng và thực trạng các cơ sở công nghiệp của vùng mới được giải phóng đồng thời phải khôi phục sản xuất và cải tạo công thương nghiệp theo hướng chủ nghĩa xã hội. Thống kê Công nghiệp thời kỳ này mang tính chất kiểm kê khai thác từ tài liệu cũ để lại kết hợp với liệt kê báo cáo của các cơ quan chính phủ lâm thời. Thông tin thu được chỉ mới tính toán cho khu vực quốc doanh và công tư hợp doanh. Khu vực kinh tế chưa có và khu vự cá thể tiểu thủ công nghiệp có nhưng chưa được thống kê.
Giai đoạn 1961-1975: là thời kỳ các mục tiêu và các chính sách phát triển cụ thể, rõ ràng, yêu cầu các thông tin phải đầy đủ chi tiết.Vì thế hoạt động thống kê nói chung và Thống kê Công nghiệp nói riêng có nhiều điều kiện phát triển. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Thống kê Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta đã mở rộng hệ thống chỉ tiêu và mở rộng phạm vi điều tra thu thập tư liệu đến các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh (hợp tác xã và tiểu thủ công nghiệp). Một số bảng phân ngành công nghiệp, bảng danh mục các sản phẩm công nhiệp chủ yếu, bảng thành phần kinh tế được ban hành và thống nhất trong cả nước… Sau những năm 70, Thống kê Công nghiệp đã được chọn là nơi nghiên cứu thí điểm các chủ trương đổi mới thống nhất Thống kê – Kế toán, thống nhất 3 loại hạch toán và đã áp dụng máy tính vào xử lý số liệu…
2.3 Thời kỳ 1976 - 1986:
Đây là thời kỳ đất nước ta thống nhất, thực hiện các mục tiêu và kế hoạch 5 năm lần thứ IV và V. Theo yêu cầu của quản lý ngành công nghiệp Thống kê Công nghiệp vừa giữ nguyên theo chế độ, nội dung báo cáo, phương pháp tính toán, bảng danh mục sản phẩm trước đây ….để phổ biến cho miền nam đồng thời phải tiến hành bổ sung thêm các chỉ tiêu, biểu mẫu, và cả phương pháp tính toán để đáp ứng nhu cầu kiểm tra đánh giá kết quả thí điểm đổi mới.
2.4 Thời kỳ từ 1987 đến nay:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là cả nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong không khí đầy màu sắc đổi mới ấy Thống kê Công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cụ thể:
-Thời kỳ 1987-1990:
Đây là thời kỳ nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi để xác định hướng đổi mới về hệ thống chỉ tiêu, chế độ báo cáo và kiểm tra. Về phương pháp luận cơ bản vẫn dùng theo những năm trước 1987.
-Thời kỳ 1991-2000:
Đây là giai đoạn có sự chuyển đổi cơ bản về hệ thống chỉ tiêu, biểu mẫu báo cáo, hình thức tỏ chức thu thập thông tin, phương pháp tính một số chỉ tiêu theo hệ thống tài khoản quốc gia. Những năm cuối đã ứng dụng thông tin vào thống kê. Đây là giai đoạn Thống kê Công nghiệp và Xây dựng phục vụ một lượng thông tin rất lớn cho tổng kết đánh giá những chủ trương, chính sách đổi mới quan trọng được thử nghiệm từ ngành công nghiệp.
- Thời kỳ từ 2000 đến nay:
Đây là giai đoạn phát triển mới về chất, sau sắc hơn, toàn diện hơn. Về nghiệp vụ đã cơ bản tiếp cận được phương pháp chuẩn của thống kê công nghiệp thế giới, mở rộng điều tra chọn mẫu một hình thức thu thập thông tin phù hợp nhất với nền kinh tế thị trường. Một số lĩnh vực mới của thống kê công nghiệp bước đầu được nghiên cứu đưa vào ứng dụng như: Điều tra xu hướng kinh doanh, điều tra môi trường kinh doanh, Thống kê bảng cân đối năng lượng….Giai đoạn này trình độ cán bộ không chỉ được nâng lên về chuyên môn mà cả về tin học, ngoại ngữ, đang dần dần hình thành đội ngũ cán bộ trẻ thay thế cho lớp cán bộ đã có tuổi.
Chương II: Chức năng nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của Vụ Thống kê Công nghiệp
1. Vị trí, chức năng: Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng là đơn vị thuộc Tổng cục Thống kê, có chức năng giúp Tổng cục trưởng quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thống kê công nghiệp và xây dựng.
2. Nhiệm vụ.
Tổ chức thực hiện các chế độ báo cáo thống kê định kỳ.
Chủ trì và phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức điều tra doanh nghiệp và các cuộc điều tra thống kê khác được Tổng cục trưởng giao.
Tổng hợp, biên soạn số liệu thống kê, xây dựng nội dung cơ sở dữ liệu, phân tích, dự báo và làm các báo cáo tổng hợp, báo cáo chuyên đề.
Lập các bảng cân đối thống kê năng lượng.
Cung cấp số liệu cho Vụ Thống kê tổng hợp, các đơn vị khác trong ngành và các đối tượng khác theo quy định của Tổng cục Thống kê và của pháp luật.
Hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra các địa phương, các Bộ, ngành về thực hiện kế hoạch thông tin, phương pháp thống kê, chế độ báo cáo và điều tra thống kê.
Phối hợp với Vụ phương pháp chế độ thống kê và các đơn vị liên quan nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện, cải tiến hệ thống chỉ tiêu thống kê, phương pháp thống kê, các bảng phân loại thống kê, chế độ báo cáo, điều tra thống kê và thẩm định chế độ báo cáo, phương án điều tra thuộc thẩm quyền ban hành và quyết định của các Bộ, ngành và địa phương.
Phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện chương trình công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực đơn vị phụ trách.
Phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế thực hiện công tác hợp tác quốc tế.
(10) Phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, các đơn vị liên quan và các trường của Tổng cục thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị và của ngành.
(11) Phối hợp với Thanh tra Tổng cục thực hiện thanh tra nghiệp vụ theo chương trình công tác thanh tra hàng năm được lãnh đạo Tổng cục phê duyệt.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê giao.
3. Lĩnh vực phụ trách :
Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng phụ trách sau:
Thống kê công nghiệp khai thác mỏ;
Thống kê công nghiệp chế biến;
Thống kê sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước;
Thống kê cân đối năng lượng;
Thống kê xây dựng
4. Tổ chức bộ máy:
Năm 1994 Chính phủ đã ký nghị định số 23/CP ngày 23/3/1994 quy định cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục Thống kê, đồng thời quy định thống kê công nghiệp vẫn được tổ chức là một vụ Thống kê chuyên ngành công nghiệp, có 1 vụ trưởng và 2-3 phó vụ trưởng. Tổ chức bộ máy không còn các Phòng, lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo theo các nhóm công việc cụ thể: nhóm địa phương có khoảng 9 cán bộ, nhóm tổng hợp, phương pháp chế độ và trung ương có khoảng 6 cán bộ.
Ngày 3/9/2003 theo chủ trương cải cách hành chính của chính phủ, hội đồng Chính phủ đã ký quyết định số 101/CP quy định Thống kê Công nghiệp được ghép với Thống kê xây dựng thành lập Vụ Thống kê Công nghiệp và xây dựng. Lúc này vụ có 1 vụ trưởng, 3 phó vụ trưởng và 22 cán bộ. Tổ chức hoạt động và chế độ làm việc vẫn theo mô hình cũ nghĩa là không còn các Phòng, lãnh đạo Vụ trực tiếp chỉ đạo. Chế độ làm việc cụ thể như sau:
Vụ có Vụ trưởng, một số Phó Vụ trưởng và các cán bộ. Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng do Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về toàn bộ các hoạt động của Vụ.
Phó Vụ trưởng giúp việc Vụ trưởng và chịu trách nhiệm trước Vụ trưởng về nhiệm vụ được giao.
Công chức thực hiện các nhiệm vụ do Vụ trưởng hoặc Phó Vụ trưởng giao và chịu trách nhiệm về việc thực hiện các nhiệm vụ đó.
Vụ làm việc theo chế độ chuyên viên kết hợp với chế độ thủ trưởng; trong trường hợp lãnh đạo Tổng cục giao nhiệm vụ trực tiếp cho Phó Vụ trưởng hoặc chuyên viên thì Phó Vụ trưởng, chuyên viên có trách nhiệm thi hành và báo cáo với Vụ trưởng.
5. Địa chỉ:
Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng Tổng cục Thống kê Tổng cục Thống kê số 2 Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội
PHẦN 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VỤ THỐNG KÊ CÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG
Chương I: Một số cuộc điều tra của Vụ Công nghiệp và Xây dựng những năm gần đây
I. Phương án điều tra mẫu hàng tháng ngành công nghiệp.
Cuộc điều tra bắt đầu triển khai thu thập số liệu từ ngày 1 tháng sau báo cáo. Thời kỳ thu thập số liệu là số liệu chính thức tháng báo cáo và số liệu dự tính tháng tiếp theo. Ví dụ tháng 6 báo cáo thì triển khai điều tra vào ngày 1 tháng 7. Số liệu thực hiện chính thức tháng 6 và số liệu dự tính tháng tiếp theo là tháng 7.
1. Mục đích điều tra
Thu thập một số thông tin cơ bản về tình hình sản xuất kinh doanh kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp và các cơ sở sản xuất cá thể, để tính một số chỉ tiêu công nghiệp hàng tháng phục vụ cho việc quản lý của các cơ quan nhà nước và đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhà đầu tư, của các đối tượng dùng thông tin khác.
2. Đối tượng, phạm vi và đơn vị điều tra
2.1. Đối tượng điều tra: Là các doanh nghiệp hoạch toán kinh tế độc lập, các cơ sở kinh tế trực thuộc doanh nghiệp và các cơ sở công nghiệp cá thể (hay còn gọi là cơ sở kinh tế) có hoạt động sản xuất công nghiệp và trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp thuộc danh mục điều tra.
2.2. Phạm vi điều tra: Cuộc điều tra được tiến hành trên cả nước với các cơ sở kinh tế đang hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước.
2.3. Đơn vị điều tra: Là các cơ sở kinh tế có đầy đủ các điều kiện sau:
Có địa điểm sản xuất được xác định.
Có hoạt động sản xuất chính là công nghiệp.
Phải trực tiếp sản xuất ra sản phẩm được quy định trong danh mục sản phẩm điều tra kềm theo phương án điều tra mẫu hàng tháng ngành công nghiệp.
3. Nội dung điều tra
a) Đối với cơ sở thuộc doanh nghiệp:
- Tên cơ sở;
- Địa chỉ, điện thoại, Fax, Email;
- Loại hình cơ sở;
- Khối lượng sản phẩm tồn kho đầu tháng
- Khối lượng sản phẩm sản xuất trong tháng
- Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong tháng
- Giá trị sản phẩm tiêu thụ trong tháng
- Khối lượng sản phẩm xuất kho để chế biến tiếp ở doanh nghiệp
b) Đối với cơ sở công nghiệp cá thể:
- Tên cơ sở;
- Địa chỉ, điện thoại, Fax, Email;
- Ngành hoạt động chính
- Doanh thu của hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng.
- Thuế tiêu thụ phát sinh trong tháng phải nộp.
- Khối lượng sản phẩm sản xuất trong tháng
- Tình hình sản xuất trong tháng.(tóm tắt khó khăn thuận lợi nếu có).
4. Phương pháp điều tra:
Điều tra công nghiệp hàng tháng được tiến hành theo phương pháp điều tra chọn mẫu. Đối với mỗi khu vực (doanh nghiệp và cá thể) có cách chọn mẫu khác nhau.
4.1 Chọn mẫu cho khu vực doanh nghiệp
Mẫu của khu vực doanh nghiệp được chọn theo 3 cấp:
Cấp 1: Chọn ngành công nghiệp cấp 4
Cấp 2: Chọn sản phẩm
Cấp 3: Chọn cơ sở sản xuất ra sản phẩm.
4.2 Chọn mẫu cho khu vực công nghiệp cá thể
Mẫu chọn cố định cho nhiều năm, khi có biến động ảnh hưởng đến việc tính các chỉ tiêu công nghiệp hàng tháng, sẽ được bổ sung hoặc chọn lại mẫu.
II. Cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2009
Thực hiện điều tra thu thập số liệu tại các doanh nghiệp bắt đầu từ ngày 10 tháng 02 năm 2009.
Số liệu thu thập của các chỉ tiêu thời kỳ (doanh thu, thuế, sản phẩm, thu nhập của người lao động,...) là số chính thức cả năm 2008, các chỉ tiêu thời điểm (lao động, tài sản, nguồn vốn,...) là số liệu đầu năm tại thời điểm 01 tháng 01 năm 2008 và cuối năm tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2008.
1. Mục đích điều tra
Cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2009 nhằm các mục đích sau:
- Thu thập một số thông tin cơ bản nhằm đánh giá sự phân bố, điều kiện sản xuất, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực và kết quả sản xuất - kinh doanh (SXKD) của các doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành và thành phần kinh tế trên phạm vi cả nước, phục vụ cho việc quản lý, hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phát triển doanh nghiệp của quốc gia, từng địa phương, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp;
- Thu thập những thông tin cần thiết (số lượng doanh nghiệp, số lao động, vốn, tài sản, các chỉ tiêu về kết quả SXKD) để tổng hợp các chỉ tiêu báo cáo chính thức năm 2008 cho các chuyên ngành: Nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ, xã hội, môi trường, tài khoản quốc gia,...
- Thu thập các thông tin để xây dựng dàn mẫu cho các cuộc điều tra thống kê chọn mẫu hàng năm và điều tra thường xuyên;
- Cập nhật cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp phục vụ các yêu cầu về thống kê doanh nghiệp và các yêu cầu thống kê khác.
2. Đối tượng, phạm vi và đơn vị điều tra
2.1. Đối tượng điều tra
Là các tập đoàn; tổng công ty; doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập và cả những doanh nghiệp hoạt động theo thời vụ không sản xuất đủ 12 tháng trong năm 2008, những doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất kinh doanh để đầu tư đổi mới, sửa chữa, xây dựng, mở rộng sản xuất, những doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ sáp nhập, giải thể nhưng vẫn còn bộ máy quản lý để có thể trả lời được các câu hỏi trong phiếu điều tra; các cơ sở sản xuất kinh doanh trực thuộc doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập.
2.2. Phạm vi điều tra
Cuộc điều tra được tiến hành trên cả nước với các cơ sở kinh tế đang hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước.
Gồm toàn bộ các doanh nghiệp thuộc đối tượng điều tra nói trên, đang hoạt động trong các ngành: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; Khai khoáng; Công nghiệp chế biến, chế tạo; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí; Cung cấp nước; Hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; Xây dựng; Bán buôn và bán lẻ; Sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác ……
2.3. Đơn vị điều tra
Là các doanh nghiệp thuộc phạm vi điều tra, có đầy đủ tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
3. Nội dung điều tra
a) Những chỉ tiêu nhận dạng đơn vị điều tra
- Tên doanh nghiệp;
- Địa chỉ, điện thoại, Fax, Email;
- Thông tin về người đứng đầu doanh nghiệp;
- Loại hình doanh nghiệp;
- Ngành nghề hoạt động SXKD;
b) Những chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh
- Lao động;
- Thu nhập của người lao động;
- Số cơ sở;
- Tài sản và nguồn vốn;
- Vốn đầu tư;
- Doanh thu;
- Sản phẩm sản xuất kinh doanh;
- Lợi nhuận;
- Tồn kho;
- Thuế và các khoản nộp ngân sách;
- Ứng dụng công nghệ thông tin;
- Một số chỉ tiêu về bảo vệ môi trường;
- Tổng doanh thu, giá vốn hàng chuyển bán và chi phí vận tải thuê ngoài;
- Giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng gia công chế biến;
- Trợ cấp, trợ giá cho sản xuất;
- Một số chỉ tiêu về môi trường đầu tư kinh doanh;
6. Phương pháp điều tra
Cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2008 được thực hiện theo phương pháp điều tra toàn bộ kết hợp với điều tra chọn mẫu, bao gồm các bước sau:
6.1. Lập danh sách các đơn vị điều tra
Danh sách các đơn vị điều tra được lấy từ danh sách các doanh nghiệp thuộc đối tượng điều tra đã được rà soát theo Quyết định số: 1694 ngày 15 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cụ thể gồm 2 đối tượng: (1) Tập đoàn, tổng công ty (2) Doanh nghiệp hạch toán kinh tế dộc lập thực tế đang hoạt động.
6.2. Chọn mẫu điều tra
Đối với các doanh nghiệp nhà nước (100 vốn nhà nước hoặc DN nhà nước đã cổ phần hóa có vốn nhà nước chiếm trên 50%); doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước có từ 10 lao động trở lên: Điều tra 100% theo phiếu số 1A. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước có dưới 10 lao động được chọn điều tra mẫu.
6.2.1. Chọn mẫu các DN ngoài nhà nước dưới 10 lao động để điều tra theo phiếu số 1A.
a. Lập dàn chọn mẫu:
Dàn chọn mẫu được lập dựa trên danh sách các doanh nghiệp ngoài nhà nước có dưới 10 lao động từ cuộc Điều tra doanh nghiệp năm 2008 của từng tỉnh, thành phố. Dàn mẫu được phân tổ theo các ngành kinh tế cấp 4, hoặc nhóm ngành cấp 4; Trong mỗi ngành kinh tế thuộc dàn mẫu, các doanh nghiệp được sắp xếp theo thứ tự giảm dần của chỉ tiêu doanh thu thuần hoạt động SXKD năm 2008.
b. Chọn mẫu:
Số lượng DN ngoài nhà nước được chọn để điều tra theo phiếu số 1A là 15% của tổng số DN có dưới 10 lao động trong danh sách các DN có thu được phiếu ở cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2008. Riêng TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có số lượng DN quá lớn nên quy định: Số DN ngoài nhà nước được chọn mẫu điều tra đối với Hà Nội là 15% số doanh nghiệp có dưới 20 lao động và TP. Hồ Chí Minh là 15% số doanh nghiệp có dưới 30 lao động.
Mẫu chọn theo nguyên tắc đại diện cho từng ngành kinh tế cấp 4, hoặc nhóm ngành cấp 4 trên địa bàn tỉnh, thành phố theo phương pháp ngẫu nhiên rải đều.
6.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập trực tiếp: Điều tra viên trực tiếp phỏng vấn đối tượng điều tra, đề nghị cung cấp số liệu, giải thích tình hình, trên cơ sở đó điều tra viên ghi vào phiếu điều tra. Phương pháp này được áp dụng đối với những đơn vị điều tra chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, không có khả năng tự ghi được phiếu điều tra (doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp chuẩn bị giải thể, doanh nghiệp đang bị thanh tra,...).
- Thu thập gián tiếp: Tổ chức hội nghị tập huấn cho kế toán trưởng, cán bộ nghiệp vụ kế toán hoặc thống kê của các doanh nghiệp, hoặc điều tra viên trực tiếp hướng dẫn phương pháp ghi phiếu điều tra và những quy định cụ thể về nơi gửi, hình thức, thời gian gửi, để các doanh nghiệp tự ghi phiếu gửi cho cơ quan điều tra.
Trong thực tế cần kết hợp chặt chẽ cả 2 phương pháp để vừa tiết kiệm kinh phí và công sức của điều tra viên, vừa đảm bảo yêu cầu nhanh và chính xác của số liệu.
Chương II: Những bài học kinh nghiệm qua hoạt động Thống kê Công nghiệp từ năm 1946 đến nay
Những thành tựu đạt được
Từ khi mới thành lập năm 1947 với điểm xuất phát gần như chưa có gì, đến nay đã xây dựng nên một hệ thống thống kê Công nghiệp thời kỳ kế hoạch hóa tập trung tương đối hoàn chỉnh, mà đỉnh cao la chế độ báo cáo định kỳ theo Nghị định 233/CP của Chính phủ ban hành năm 1970 và chế độ điều tra cá thể cùng với hệ thống chỉ tiêu khá đầy đủ, mang tính khoa học, đã đáp ứng được nhu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước cũng như như nhu cầu quản lý vi mô của cơ sở.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước, ngành Thống kê nói chung và Thống kê Công nghiệp và Xây dựng nó riêng dã có sự tiến bộ vượt bậc thể hiện qua việc chuyển từ phương pháp bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) sang hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), đồng thời loại bỏ hàng loạt các chỉ tiêu thống kê chỉ phục vụ cho quản lý vi mô ở đơn vị cơ sở, tinh giản biểu mẫu báo cáo, mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận cới phương pháp chuẩn của Thống kê Công nghiệp quốc tế (UNIDO).
2. Những tồn tại cần khắc phục:
- Lượng thông tin Thống kê mới chỉ đảm bảo phục vụ cho các cơ quan Đảng và nhà nước chứ không đủ cho các đối tượng khác, nhất là đối với các doanh nghiệp đầu tư trong nước hay nước ngoài. Khi một cá nhân hay doanh nghiệp muốn có các thông tin thống kê thì họ phải tự điều tra hoặc thuê người khác điều tra, có rất ít thông tin sẵn có. Một số thông tin phù hợp với nội dung và mục đích thì lại quá cũ kỹ lạc hậu không thể đánh giá chính xác thực trạng, vì thế cũng không thể sử dụng.
- Mặc dù đã áp dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các giai đoạn các công việc của thống kê nhưng vẫn còn lạc hậu so với một số nước trong khu vực cả về xử lý thông tin và phổ biến thông tin.
- Trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng nâng cao, song vẫn còn yếu so với yêu cầu tiếp cận phương pháp mới, công nghệ mới. Nhất là đối với các cán bộ làm việc tại các địa phương. Thậm chí một số địa phương các cán bộ vẫn còn yếu kém về chuyên môn và nghiệp vụ.
- Các ấn phẩm thông tin thuộc Vụ công nghiệp thực hiện còn rất ít về số lượng, nghèo về chỉ tiêu và hạn chế về phân tích dự báo.
- Thống kê công nghiệp còn chậm đổi mới, phương pháp thống kê phát triển sản xuất công nghiệp theo bảng giá cố định không phù hợp với nền kinh tế thị trường, chất lượng thông tin kém chính xác không có tính so sánh quốc tế.
Những bài học kinh nghiệm:
Lịch sử hình thành và phát triển của Thống kê Công nghiệp và Xây dựng Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm. Trong 60 năm đó đã đạt được nhiều thành tựu và cũng có những bài học và kinh nghiệm quý giá:
(1) Hoạt động Thống kê phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể phù hợp với thực tế. Trong đó, thường xuyên theo sát các chỉ tiêu kế hoạch, các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.
(2) Phải tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Thực tế đã chứng minh ngay cả trong thời kỳ hệ thống ngành Thống kê được được quản lý theo ngành dọc hoặc hoặc phân tán theo hệ thống ngành ngang trực thuộc địa phương thì ở đâu tranh thủ được sự lãnh đạo và giúp đỡ ủng hộ của các cơ quan, chính quyền các cấp thì ở đó hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng và đạt kết quả cao hơn.
(3) Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công tác Thống kê cũng luôn phải cải tiến, bổ sung, đổi mới về phương pháp, chế độ báo cáo và điều tra. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải ổn định và thường xuyên cập nhât kiến thức khoa học mới, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Việc này phải tiến hành thường xuyên, có kế thừa, có bổ sung sửa đổi.
(4) Phải luôn coi trọng đổ mới về chuyên môn nghiệp vụ, chủ động sáng tạo trong đổi mới và đổ mới kịp thời.
Mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể yêu cầu thông tin thống kê khác nhau. Điều này đòi hỏi công tác thống kê phải luôn luôn đổi mới để tránh lạc hậu, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động thống kê đổi mới và đi lên. Và điều kiện tiên quyết để thực hiện đổi mới là cán bộ lãnh đạo phải có tư duy đổi mới, phải chủ động sáng tạo trong đổi mới và phải thể hiện được nội dung đổi mới cụ thể là hệ thống chỉ tiêu báo cáo, hình thức tổ chức điều tra thu thập thông tin, phương pháp tính các chỉ tiêu, chất lượng sản phẩm đầu ra, ứng dụng của công nghệ thông tin trong điều tra và phân tích.
(5) Phải gắn công tác Thống kê với công nghệ thông tin
Khi ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác Thống kê mang lại hiệu quả cao. Việc đưa công nghệ thông tin vào mọi khâu trong quá trình thống kê làm thay đổi năng lực xử lý thông tin và cung cấp thông tin đầu ra cho xã hội, làm thay đổi nội dung thông tin thu thập đầu vào theo hướng tối thiểu nhưng thông tin đầu ra là tối đa, làm thay đổi về quan hệ báo cáo tổng hợp giữa các cấp địa phương và trung ương và trung ương với nhau giảm tới mức thấp nhất. Ngoài ra một ưu điểm rất dễ nhận thấy là ứng dụng công nghệ thông tin giúp giảm được chi phí về vật chất, về thời gian và nhân lực cho việc thu thập thông tin, xử lý số liệu.
(6) Tăng cường công tác phân tích và làm báo cáo tổng hợp theo chuyên đề trực tiếp nhằm mục đích đánh giá và đề ra mục tiêu chính sách kinh tế lớn. Thông qua một báo cáo phân tích hoặc một báo cáo tổng hợp mang tính chuyên đề chúng ta có thể thấy được hệ thống chỉ tiêu có thực sự phù hợp hay không, đồng thời nâng cao được chất lượng số liệu, giá trị số liệu và vị thế của công tác Thống kê trong quản lý xã hội.
(7) Bài học về coi trọng hợp tác quốc tế
Thực tế trước thời kỳ đổi mới (từ năm 1955-1986) đặc biệt là khi hòa bình vừa lập lại, Thống kê Việt Nam hầu như chưa hề có khía niệm về một ngành Thống kê xã hội chủ nghĩa. Chỉ sau một thời gian ngắn học tập kinh nghiệm của Thống kê Liên Xô và Trung Quốc đến năm 1960 chúng ta đã hình thành phương pháp luận phương pháp luận của Tống kê Việt Nam khá hoàn chỉnh, đủ để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội theo kế hoach 5 năm lần thứ nhất 1961-1965. Hiện nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự hợp tác đó càng cần được phát huy. Nguồn thông tin, kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước trên thế giới ngày càng phong phú mà về nguyên lý thì kiến thức và trí tuệ là tài sản chung của nhân loại. Vì thế khi hợp tác quốc tế có thể giúp chúng ta tránh được những sai lầm của các quốc gia đi trước và tiếp cận sớm với những thành tựu mà họ đã đạt được. Thống kê Việt Nam chuyển đổi từ phương pháp bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) sang hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) và trong lĩnh vực Thống kê Công nghiệp khá nhanh là do đã tiếp cận với phương pháp Thống kê Công nghiệp chuẩn của UNIDO.
PHẦN 3:
TÊN ĐỀ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP DỰ KIẾN
Sau một thời gian thực tập tại vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng, em dự kiến sẽ làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp: “Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2002-2007”.
Ở đây, số liệu thống kê khá chi tiết được sắp xếp và lưu trữ một cách khoa học. Tuy nhiên do đặc thù của điều tra công nghiệp, đến năm 2009 chỉ có số liệu Thống kê đến năm 2007. Do vậy ta chỉ xem xét và phân tích số liệu đến năm 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22889.doc