Báo cáo Tổng hợp tại Doanh nghiệp cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế

MỤC LỤC I.Giới thiệu chung về doanh nghiệp 1 1.1. Khái quát về doanh nghiệp 1 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp 3 1.2.1 Giai đoạn 2000-2001 3 1.2.2. Giai đoạn 2002-2003 4 1.2.3 Giai đoạn 2004-2006. 5 1.3 Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp 5 1.3.1 Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 5 1.3.2 Tình hình nhân sự của doanh nghiệp 8 1.3.3 Tài chính 9 II: Tình hình hoạt động sản xuất kin doanh của doanh nghiệp 11 2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp: 11 2.1.1. Môi trường Marketing vi mô 11 2.1.2 Môi trường Marketing vĩ mô 17 2.2 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 22 2.2.1 Phương châm của doanh nghiệp 22 2.2.2 Khách hàng và hoạt động truyền thông của doanh nghiệp với khách hàng 23 2.2.2.1 Khách hàng chính của doanh nghiệp 23 2.2.2.2 Hoạt động truyền thông của doanh nghiệp với khách hàng 24 2.2.3 Các dịch vụ cung cấp chính của doanh nghiệp 26 2.2.3.1 Marketing trực tiếp 26 2.2.3.2 Hoạt động tư vấn xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp 27 2.2.3.3 Lập kế hoạch quảng cáo 28 2.2.3.4 Làm bảng biển quảng cáo 28 2.2.3.5 Tổ chức sự kiện 28 III Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 30

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tổng hợp tại Doanh nghiệp cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Giới thiệu chung về doanh nghiệp 1.1. Khái quát về doanh nghiệp Doanh nghiệp cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế được thành lập vào năm 2000 tại Hà Nội. Doanh nghiệp có tên giao dịch nước ngoài là SMART CAMPAIGN. Doanh nghiệp là thành viên của doanh nghiệp cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế. Là doanh nghiệp đầu tiên triển khai những chiến dịch khác biệt trong lĩnh vực truyền thông và truyền thông trực tiếp tại Việt Nam. Doanh nghiệp chỉ thực hiện những chiến dịch truyền thông và truyền thông độc đáo và đó là sứ mệnh của doanh nghiệp. Trụ sở chính của doanh nghiệp: Phòng 806, Toà nhà 17T1, Trung Hoà, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội. Điện thoại: (84-4) 2512653/ 2512679/ 2512680 Fax: (84-4) 2512654 Email: Smartmarketing@hn.vnn.vn Loại hình doanh nghiệp: là doanh nghiệp cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp Việt Nam và pháp lệnh về quảng cáo của nhà nước ta. -Hình thức sở hữu vốn : +Vốn kinh doanh là do các cổ đông góp. + Vốn do tập thể sở hữu. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Vốn được chia thành các phần nhỏ bằng nhau được gọi là các cổ phần. Các cổ đông sẽ có mức vốn góp là khác nhau, nó phụ thuộc vào số cổ phần mà các cổ đông nắm giữ. Các quyền điều hành và lãnh đạo, giải quyết các việc liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào số vốn góp đó. Song song với các quyền lãnh đạo giám sát doanh nghiệp là nghĩa vụ của các cổ đông đối với doanh nghiệp. Tóm lại khi các cổ đông có số vốn càng lớn thì quyền lợi càng nhiều và trách nhiệm càng cao. -Lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp là thương mại, tư vấn, và quảng cáo. Doanh nghiệp nhận liên hệ tìm kiếm, lên lịch với các chủ của phương tiện mà các công ty thuê quảng cáo muốn được quảng cáo trên đó. Doanh nghiệp là trung gian giữa người thuê quảng cáo và chủ các phương tiện quảng cáo. Khi khách hàng muốn lập một kế hoạch quảng cáo truyền thông hoặc marketing trọn vẹn từ đầu đến cuối hoặc một phần công việc nào đó trong chiến dịch quảng cáo hoặc Marketing của công ty mà vẫn chưa biết phải làm như thế nào thì có thể tìm đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhận làm trực tiếp cho khách hàng hoặc tư vấn cho họ cách tối ưu nhất để có một chiến lược truyền thông độc đáo nhất, đem lại cho họ nhiều lợi ích nhất. Doanh nghiệp nhận thiết kế cho khách hàng những chương trình quảng cáo trên tất cả các phương tiện truyền hình, báo chí, đài phát thanh, mạng Internet, biển quảng cáo ngoài trời....Biển quảng cáo ngoài trời có thể là biển Hiflex, biển Lightbox, Biển quảng cáo ba mặt, biển công nghệ mới, biển quảng cáo Scrolling Sign, biển quảng cáo sân vận động, đèn cho biển quảng cáo và doanh nghiệp sẽ thực hiện theo đúng yêu cầu của khách hàng. Lợi ích của khách hàng cũng chính là danh tiếng của doanh nghiệp nên doanh nghiệp luôn luôn cố gắng phấn đấu làm thế nào để cả hai cùng có lợi . 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp 1.2.1 Giai đoạn 2000-2001 Nhận thấy thị trường Việt Nam còn nhiều bỏ ngỏ trong ngành quảng cáo và truyền thông. Việt Nam đang trên con đường hội nhập quốc tế, sự gia tăng ngày một nhiều các doanh nghiệp nước ngoài mở công ty 100% vốn nước ngoài. Hoặc mở các văn phòng đại diện cũng như liên doanh với các doanh nghiệp trong nước của các công ty nước ngoài tại Việt Nam. Và đây đang là cơ hội cho ngành kinh doanh quảng cáo phát triển. Do vậy, đến đầu năm 2000 công ty cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế được thành lập. Trong giai đoạn đầu 2000-2001 doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với khách hàng của mình do doanh nghiệp mới thành lập nên kinh nghiệm vẫn còn chưa có nhiều, khách hàng vẫn chưa có sự tin tưởng vào doanh nhiệp. Bên cạnh đó vì mới thành lập nên nguồn vốn của doanh nghiệp hiện có là không nhiều, doanh nghiệp không có nhiều vốn để quay vòng . Mặt khác, trên thị trường sự cạnh tranh là rất gay gắt, các công ty quảng cáo mở ra ngày một nhiều, trong khi đó các doanh nghiệp bỏ tiền chi cho hoạt động quảng cáo và truyền thông lại đang là con số rất nhỏ. Đa số các doanh nghiệp chi tiền cho truyền thông là các công ty nước ngoài, các công ty Việt Nam chỉ có một số ít mà số tiền họ chi ra lại là rất nhỏ trong tổng số ngân sách giành cho quảng cáo tại Việt Nam. Trong khi đó ngân sách chi ra của các công ty nước ngoài lại nằm phần lớn ở các doanh nghiệp quảng cáo hoặc các chi nhánh, văn phòng đại diện của các công ty quảng cáo nước ngoài tại việt Nam. Mặt khác, doanh nghiệp mới thành lập đội ngũ nhân viên của công ty có rất ít người có kinh nghiệm đa số là những người mới vào nghề chưa có nhiều kinh nghiệm trong ngành quảng cáo và truyền thông nên doanh nghiệp chưa phát huy được những điểm mạnh cũng như cơ hội mà doanh nghiệp có được trong kinh doanh. Do có nhiều khó khăn và hạn chế như vậy nên trong giai đoạn này doanh nghiệp đã không thể thu lợi nhuận và chịu lỗ gần 150 triệu đồng. Đó sẽ là một động lực không nhỏ để doanh nghiệp cố gắng phát huy hết khả năng của mình để có thể kinh doanh bù phần lỗ của giai đoạn trước và có lãi ở những giai đoạn tiếp theo. 1.2.2. Giai đoạn 2002-2003 Trong giai đoạn này doanh nghiệp đã phần nào lấy được lòng tin của khách hàng và đó là nền tảng để doanh nghiệp phát triển ở hiện tại và trong tương lai. Bên cạnh đó tình hình nhân sự và vốn của doanh nghiệp đã đi vào ổn định. Nhân viên của doanh nghiệp đã quen việc và có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh. Mặt khác họ cũng được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ một cách có hệ thống và qui củ. Do đó, doanh nghiệp đã thu được lợi nhuận lớn không những đã bù được phần lỗ của giai đoạn trước mà giai đoạn này còn thu được lãi. Ở giai đoạn này trên thị trường ngành quảng cáo và truyền thông phát triển mạnh, nhiều doanh nghiệp đã chú ý đến vấn đề quảng cáo và truyền thông nên qui mô thị trường được mở rộng. Các hình thức quảng cáo mới trên Internet cũng đã xuất hiện và tạo ra nhiều cơ hội thị trường cho doanh nghiệp. Nhu cầu quảng cáo ngày một tăng và đòi hỏi của khách hàng cũng ngày một nhiều nên doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị kĩ càng, phải cố gắng phát minh ra nhiều loại hình quảng cáo mới hiện đại hơn và có sức cạnh tranh hơn loại hình quảng cáo cũ. Doanh nghiệp nên là người đi đầu trong việc đưa sản phẩm mới vào thị trường. Trong kinh doanh nếu ta không là người giỏi nhất thì ta hãy là người đi đầu. Bao giờ cũng vậy mọi người chỉ nhớ người đầu tiên, và thường họ không biết đến người thứ hai. 1.2.3 Giai đoạn 2004-2006. Trong thời kì này doanh nghiệp đã thực sự ổn định về các mặt, kinh nghiệm đúc rút được trong thực tế đã phần nào giúp họ nhiều trong công việc của mình. Chính vì có được lòng tin của khách hàng, doanh nghiệp đã kí được nhiều hợp đồng với các công ty lớn như Mobi fone, Nokia, Petrolimex....Như vậy nhờ kí được nhiều hợp đồng nên doanh thu của doanh nghiệp ngày một tăng cao và uy tín ngày một được khẳng định trong ngành quảng cáo và truyền thông. Vốn có, kinh nghiệm có bên cạnh đó đội ngũ nhân viên đã được đào tạo chính qui và có nhiều kinh nghiệm nên doanh nghiệp trong thời gian tới phải phát huy tối đa, tận dụng triệt để nguồn lực mà mình có cũng như nắm bắt thị trường để tạo ra cơ hội lớn trong kinh doanh cho doanh nghiệp. 1.3 Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp 1.3.1 Mô hình tổ chức của doanh nghiệp Sơ đồ 1: Mô hình cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp Hội đồng quản trị Giám đốc điều hành Kế toán trưởng Phó giám đốc Phòng khách hàng Phòng tổ chức sự kiện Phòng thiết kế Phòng sản xuất Cộng tác viên báo chí Cộng tác viên trong nước Chuyên gia nước ngoài Cộng tác viên truyền hình ( ( Nguồn: Phòng tổ chức của doanh nghiệp ) Hội đồng quản tri chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động của doanh nghiệp như các quyết định về chiến lược kinh doanh, quyết định đầu tư tài chính, đầu tư tài sản cố định,… Doanh nghiệp có bốn phòng ban chính đó là: Phòng khách hàng do anh Nguyễn Tất Đạt làm trưởng phòng, trong phòng có 5 nhân viên. Nhiệm vụ của phòng là phụ trách tất cả các công việc liên quan đến khách hàng như tìm kiếm khách hàng mới, quan hệ với khách hàng hiện tại của doanh nghiệp, các dịch vụ chăm sóc khách hàng, trả lời những thắc mắc của khách hàng, hướng dẫn khách hàng một công việc cụ thể nào đó… Phòng tổ chức sự kiện do chị Nguyễn Bích Ngọc làm trưởng phòng, trong phòng có 6 nhân viên, nhiệm vụ của phòng này là chuyên nghiên cứu và thực hiện các chương trình tổ chức sự kiện cho khách hàng. Phòng này có thể làm trọn gói một chương trình tổ chức một sự kiện cho khách hàng từ khâu lên kế hoạch đến khâu thực hiện. Sau mỗi bước thực hiện công việc đều có sự kiểm soát của lãnh đạo cũng như của khách hàng. Hoặc họ có thể tư vấn cho khách hàng phương pháp làm tối ưu nhất nếu như họ muốn. Phòng thiết kế do anh Triệu Quốc Dương làm trưởng phòng, trong phòng có 5 nhân viên. Nhiệm vụ chính của phòng là phác thảo kế hoạch, đưa ra những ý tưởng cho khách hàng về một kế hoạch Marketing độc đáo, ấn tượng nhất. Bên cạnh đó phòng còn nghiên cứu để đưa ra được những sản phẩm mới nhất, có sức cạnh tranh hơn các đối thủ cạnh tranh. Phòng sản xuất do anh Nguyễn Ngọc Duy làm trưởng phòng, trong phòng có 9 nhân viên. Nhiệm vụ chính của phòng là quản lí và tiến hành thực hiện, hoàn chỉnh các sản phẩm để giao nộp cho khách hàng. Phòng này chịu trách nhiệm hoàn thành sản phẩm cuối cùng của khách hàng. Bên cạnh đó doanh nghiệp còn có đội ngũ cộng tác viên báo chí, cộng tác viên truyền hình giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc đưa thông tin về doanh nghiệp lên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ đó doanh nghiệp có thể tiếp cận được với khách hàng cũng như công chúng mục tiêu của mình. Các chuyên gia nước ngoài giúp doanh nghiệp trong việc tư vấn, trao đổi kinh nghiệm và phương pháp thực hiện sao cho có hiệu quả nhất, ít tốn chi phí nhất. Các chuyên gia nước ngoài họ có kinh nghiệm thực tế, được đào tạo chính qui nên họ giúp doanh nghiệp được rất nhiều trong mọi công việc từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn tất. Các cộng tác viên trong nước kinh nghiệm họ có ít kinh nghiệm, chưa được đào tạo cẩn thận, nhưng họ lại có lòng say mê nhiệt tình với công việc, tinh thần trách nhiệm cao nên họ cũng đóng góp không nhỏ vào thành công của doanh nghiệp. 1.3.2 Tình hình nhân sự của doanh nghiệp Nam Nữ Tổng Số lượng (Người) 18 12 30 Tỉ lệ ( % ) 60 40 100 ( Nguồn: Phòng tổ chức của doanh nghiệp ) -Nhân sự: toàn doanh nghiệp có tổng số 30 nhân viên trong đó: + Nam có 18 người chiếm 60% trong tổng số nhân viên của toàn doanh nghiệp + Nữ có 12 người chiếm 40% trong tổng số nhân viên của toàn doanh nghiệp Trình độ Số lượng Nam Nữ Tốt nghiệp nghiên cứu sinh nước ngoài 2 Tốt nghiệp cao học trong nước 2 2 Tốt nghiệp đại học trong nước 8 6 Tốt nghiệp hệ tại chức và cao đẳng 6 4 Tổng số 18 12 ( Nguồn: Phòng tổ chức của doanh nghiệp ) Trong tổng số nhân viên của doanh nghiệp có 2 người tốt nghiệp nghiên cứu sinh ở nước ngoài, 4 người tốt nghiệp cao học, 12 người tốt nghiệp đại học chuyên ngành Marketing và quảng cáo, 2 người tốt nghiệp đại học chuyên ngành kế toán. Số còn lại tốt nghiệp hệ tại chức, cao đẳng ở một số ngành có liên quan. Đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp đa số là những người trẻ tuổi, năng động, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao nên mọi công việc đều được họ làm một cách nhanh chóng và chính xác. Mặt khác, đội ngũ nhân viên lại có nhiều nam và hầu như là chưa lập gia đình nên họ có nhiều điều kiện để làm việc và cống hiến cho doanh nghiệp. 1.3.3 Tài chính Đơn vị tính: đồng Năm 2004 2005 2006 Doanh thu (đồng ) 8.600.930.315 9.511.610.355 10.576.785.945 Tỉ lệ ( % ) 100 110.59 122.97 ( Nguồn: Phòng kế toán của doanh nghiệp ) Năm 2006 tổng doanh thu của doanh nghiệp là 10.576.785.945 đồng tăng 1.065.175.585 đồng tương ứng với mức tăng trưởng là 11,19% so với năm 2005. Và tăng 1.975.855.625 đồng tương ứng với mức tăng trưởng là 22,97% so với năm 2004. Năm 2005 tổng doanh thu của doanh nghiệp là 9.511.610.355 đồng tăng 910.680.040 đồng tương ứng với mức tăng trưởng là 10,59%. Tính đến cuối năm 2006 nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là 5.986.789.535 đồng và doanh nghiệp phải vay lãi của ngân hàng là 570.000.000 đồng, hàng năm phải trả lãi cho ngân hàng là 68.400.000 đồng. Số tiền lương những năm gần đây doanh nghiệp phải trả cho nhân viên là: Đơn vị tính: đồng 2004 2005 2006 Ban điều hành 204,563,235 215,268,123 220,689,567 Các phòng ban khác 968,125,235 980,268,129 995,658,236 Cộng tác viên 305,129,689 320,689,375 335,896,258 Tổng 1,477,818,159 1,516,225,627 1,552,244,061 ( Nguồn: Phòng kế toán của doanh nghiệp ) Tổng số tiền thưởng của doanh nghiệp năm 2004, 2005, 2006 có mức tương ứng là 708.565.000 đồng, 862.236.000 đồng, 958.365.000 đồng. Bên canh đó hàng năm doanh nghiệp còn đóng góp vào ngân sách của nhà nước với mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 497.565.135 đồng và 257.656.000 đồng các loại thuế khác. Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán là đồng Việt Nam, nguyên tắc và phương pháp chuyển đổi đồng tiền khác của doanh nghiệp dựa vào tỉ giá hối đoái do ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định tại thời điểm chuyển đổi. Một vấn đề làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn đó là các khách hàng còn nợ lại nhiều, họ không thanh toán ngay cho doanh nghiệp sau khi mỗi hợp đồng được thực hiện xong. Do vậy doanh nghiệp không có nhiều vốn để quay vòng, doanh nghiệp mất nhiều cơ hội trong kinh doanh. Khách hàng khi kí hợp đồng chỉ thanh toán trước cho doanh nghiệp 50% tổng giá trị hợp đồng cho doanh nghiệp số còn lại khách hàng sẽ thanh toán cho doanh nghiệp sau 2 tháng khi hợp đồng được thực hiện xong. II: Tình hình hoạt động sản xuất kin doanh của doanh nghiệp 2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp: Nhiệm vụ cơ bản của người làm Marketing là sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ để cung cấp cho khách hàng của mình. Tuy nhiên, công việc đó có thành công hay không lại chiu sự sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố và lực lượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như: 2.1.1. Môi trường Marketing vi mô *Các yếu tố bên trong doanh nghiệp: Sự tiếp cận thị trường chưa tốt: Doanh nghiệp chưa có những chiến lược, hành động tiếp xúc với khách hàng hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Hay nói cách khác kế hoạch truyền thông của doanh nghiệp với khách hàng còn kém, hiện nay trong ngành quảng cáo và truyền thông thương hiệu Smart Campaign còn chưa được nhiều người biết đến. *Những người cung ứng: Những người cung ứng là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh của của doanh nghiệp để có thể sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ nhất định. Những người cung ứng của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là: những người cung ứng về nguyên vật liệu, về phương tiện truyền hình, báo chí, đài phát thanh, về địa điểm tổ chức sự kiện,… Bất kì một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng, sớm hay muộn, trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Nhà quản lí của doanh nghiệp phải luôn luôn có đầy đủ các thông tin chính xác về tình trạng số lượng, chất lượng, giá cả... hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Thậm chí còn phải quan tâm đến thái độ của các nhà cung cấp đối với doanh nghiệp mình và các đối thủ cạnh tranh. Nguồn lực khan hiếm, giá cả tăng có thể làm xấu đi cơ hội thị trường cho việc kinh doanh những hàng hóa dịch vụ nhất định, tồi hơn có thể làm cho doanh nghiệp phải ngừng hoạt động. Hiện nay, doanh nghiệp kinh doanh ngành quảng cáo ngày một nhiều, số lượng đài truyền hình, báo chí… thì có hạn, doanh nghiệp nào cũng muốn được quảng cáo ở những đài truyền hình và báo chí có số lượng khán giả, độc giả là lớn, do vậy đã khiến cho các doanh nghiệp quảng cáo phải cạnh tranh trong việc thuê phương tiện truyền thông là rất lớn. Doanh nghiệp phải xem xét thái độ của các chủ phương tiện này đối với doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh như thế nào để có chiến lược hoạt đông cho phù hợp. *Khách hàng: Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, qui mô khách hàng tạo nên qui mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu và nhu cầu bản thân nó lại thường xuyên thay đổi. Nhu cầu và sự biến đổi của nhu cầu lại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi khách hàng và tiên liệu những nhu cầu của họ để có những thay đổi phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp phải nhờ vào những mối quan hệ tốt với khách hàng cũ để có thể kí được những hợp đồng mới. Một doanh nghiệp khi kinh doanh mà không có khách hàng thì cũng đồng nghĩa với việc không có doanh thu, không có doanh thu thì doanh nghiệp không có gì để chi trả lương cho công nhân viên và các chi phí khác của doanh nghiệp và khi đó doanh nghiệp phải đóng cửa là điều không thể tránh khỏi. Doanh nghiệp phải luôn luôn tạo ấn tượng tốt với khách hàng hiện tại và ra sức tìm kiếm khách hàng tương lai để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp. *Đối thủ cạnh tranh Hiện nay trên thị trường Việt Nam ngành quảng cáo và truyền thông phát triển rất mạnh mẽ và đang là cơ hội cho những doanh nghiệp quảng cáo và truyền thông trong và ngoài nước. Tính đến đầu năm 2006 cả nước ta đã có trên 3000 doanh nghiệp lớn, nhỏ và một số cửa hàng kinh doanh bảng biển quảng cáo, trong khi đó những năm cuối của thế kỉ qua chỉ có hơn 500 doanh nghiệp. Vậy trong vòng 10 năm số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành đã tăng xấp xỉ 2500 doanh nghiệp và cửa hàng tương đương với múc tăng trưởng là 500%. Trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ tính đến hiện tại chưa có doanh nghiệp nào là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mà đó chỉ là doanh nghiệp liên doanh hoặc văn phòng đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài. Trong số đó chỉ có trên 100 công ty thực sự là công ty quảng cáo, trên 50 công ty và văn phòng đại diện nước ngoài số còn lại chủ yếu là các công ty in ấn và làm bảng biển. Khi ngành quảng cáo mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam chỉ có trên 30 công ty. Khi mới xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 90 của thế kỉ 20 các công ty quảng cáo chỉ làm những công việc nhỏ lẻ, đơn giản và thô sơ. Các sản phẩm còn trong thời kì sơ khai nên rất đơn giản, không có sự cầu kì tỉ mỉ và chưa có sự nghiên cứu thị trường của khách hàng một cách căn kẽ và chính xác. Nhưng tính đến nay các công ty quảng cáo của nước ta đã có thể làm tất cả các công đoạn của một chương trình quảng cáo, các sản phẩm hoàn thành đẹp, công phu và có sự nghiên cứu thị trường một cách tỉ mỉ và sâu sắc. Còn một tình trạng đang tồn tại là hầu hết các quảng cáo của các doanh nghiệp lớn đều được làm tại nước ngoài và sau đó đem về Việt Nam để phát sóng hoặc đăng báo. Các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ được làm một số công đoạn cuối của một chương trình quảng cáo và truyền thông nên doanh số thu được là rất ít. Các doanh nghiệp nước ngoài chiếm đa số các khâu quan trọng của quá trình truyền thông mà chi phí của chương trình quảng cáo, marketing lại nằm ở phần này do vậy phần lớn doanh thu của một dự án quảng cáo truyền thông đều nằm ở các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam thu được là không đáng kể. Việt Nam hiện nay ngành quảng cáo và truyền thông đang trên đà phát triển rất mạnh mẽ và nó cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên, đây đang là “con mồi béo bở” cho các nhà tư bản nước ngoài. Cũng giống như các loại hàng hoá khác khi những nhà cung cấp trên thị trường là quá nhiều thì người tiêu dùng sẽ phải chọn những hàng hoá gọi là “của độc” có nghĩa là các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối ưu hơn đối thủ cạnh tranh của mình. Muốn kinh doanh được thì doanh nghiệp phải có những sản phảm mang tính sáng tạo, độc đáo không giống với những gì đối thủ của mình làm. Trong giai đoạn tới khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ có nhiều thay đổi trong kinh doanh nói chung và ngành quảng cáo nói riêng do vậy các công ty quảng cáo của Việt Nam phải có sự thay đổi cho phù hợp với tiến trình chung của thế giới. Kinh tế Việt Nam đang trong thời gian mở cửa, quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, trong thời gian tới nhà nước ta sẽ cho phép mở doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do đó ngành kinh doanh dịch vụ quảng cáo của Việt Nam sẽ càng trở nên khó khăn hơn trước rất nhiều. Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài họ có rất nhiều thuận lợi như vốn họ có lớn, kinh nghiệm thì nhiều do ngành quảng cáo ở các nước phát triển đã xuất hiện từ rất lâu nên họ đã trải qua rất nhiều vấn đề hơn các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác đội ngũ nhân viên của họ được đào tạo chính qui chuyên ngành quảng cáo nên họ rất am hiểu về ngành quảng cáo. Các nước tư bản đi trước chúng ta rất nhiều nên các chương trình quảng cáo của họ làm rất độc đáo, hấp dẫn mà chúng ta rất lâu sau nữa mới có thể đuổi kịp họ. * Công chúng trực tiếp Đó là bất kì một nhóm, một tổ chức nào đó có mối quan tâm thực sự hoặc thực sự có thể sẽ quan tâm hay ảnh hưởng tới khả năng đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Các giới công chúng sẽ ủng hộ hoặc chống lại các quyết định Marketing của doanh nghiệp, do đó có thể tạo thuận lợi hay gây cản trở khó khăn cho doanh nghiệp. Để thành công doanh nghiệp phải phân loại và thiết lập mối quan hệ đúng mức với từng nhóm công chúng trực tiếp. Đối với nhóm công chúng thuộc loại giới tài chính đó là hệ thống các ngân hàng, các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng... Các tổ chức này ảnh hưởng lớn đến khả năng đảm bảo nguồn vốn cho doanh nghiệp. Trong kinh doanh ai cũng muốn dùng tiền của người khác để làm lợi cho mình do đó với giới công chúng này chúng ta cần phải tạo mối quan hệ để họ có sự tin tưởng lớn vào doanh nghiệp từ đó doanh nghiệp có thể đặt vấn đề vay vốn để kinh doanh. Đối với các tổ chức phương tiện thông tin đại chúng: đó là báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình. Đây là ngững tổ chức liên quan đến việc đưa thông tin về doanh nghiệp tới tất cả mọi người. Doanh nghiệp phải quan hệ tốt với các tổ chức này bởi vì chúng ta không thể kiểm soát được những thông tin mà họ đưa về doanh nghiệp lên các phương tiện thông tin đại chúng đó ra sao. Họ có thể đưa ra các thông tin tốt hoặc xấu về doanh nghiệp, các nguồn thông tin đó ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp nó có thể làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hoặc có thể làm cho doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề thậm chí có thể dẫn đến việc doanh nghiệp phải đóng cửa. Các cơ quan chính quyền: Các tổ chức này thông qua hệ thống luật, qui chế, qui định ... để ràng buộc các hoạt động của doanh nghiệp Quần chúng đông đảo: Lực lượng này không hình thành tổ chức nhưng hình ảnh của doanh nghiệp đối với họ sẽ thu hút được thái độ khác nhau của họ đối với doanh nghiệp. Cán bộ, nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp: Thái độ của họ đối với doanh nghiệp dù sớm hay muộn cũng truyền đến khách hàng của doanh nghiệp thông qua thái độ phục vụ khách hàng. Một doanh nghiệp muốn thành công không thể không quan tâm đến họ bởi vì họ là người quyết định tới sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có các quyết định Marketing thì cầc phải tính toán cẩn thận, chuẩn bị thật chu đáo để nó không thể chỉ nhằm vào các khách hàng mục tiêu mà còn phải hướng tới những khách hàng tiềm năng và công chúng nói chung. Các hoạt động mang tính chất cộng đồng sẽ gây ra những tác động tích cực từ phía công chúng và nó thu hút được sự chú ý, mối quan tâm của xã hội, nâng cao được uy tín hình ảnh và địcvị tồn tại của doanh nghiệp trong con mắt đông đảo quần chúng nhân dân. 2.1.2 Môi trường Marketing vĩ mô * Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường. Môi trường kinh tế cũng bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, có sức mua lớn, đó là thị trường hấp dẫn để kinh doanh khi đó sẽ có rất nhiều nhà tư bản lớn “nhảy vào”, hàng hoá ngày một nhiều chủng loại và mẫu mã, người tiêu dùng khó mà có thể nhận biết đâu là sản phẩm có thương hiệu mạnh, chất lượng sản phẩm là đáng tin cậy. Khi đó nhu cầu về quảng cáo và truyền thông sẽ ngày một được chú ý và phát triển. Kinh tế phát triển mạnh, doanh nghiệp bán được nhiều hàng, doanh thu lớn thì họ mới có chi phí dành cho truyền thông.Tất cả các nhu cầu về quảng cáo và truyền thông sẽ mở ra một thị trường đầy hấp dẫn cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng rất nhiều đến nhóm khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Cũng giống như người tiêu dùng khi doanh nghiệp kiếm được nhiều tiền thì họ mới dám chi tiêu nhiều. Nhu cầu luôn luôn là biến đổi và nó cũng phụ thuộc lớn đến cái gọi là nhu cầu có khả năng thanh toán. Khi nhu cầu phát sinh nhưng không có khả năng thanh toán thì cũng bằng không. Khi nền kinh tế phát triển thì cơ hội và thách thức của doanh nghiệp ngày một nhiều bởi vì kinh tế phát triển có nghĩa là GDP tăng, GNP tăng, thu nhập bình quân đầu người tăng, và sức mua tăng…Hàng tiêu dùng ngày một nhiều loại hơn, trong khi đó sự nhận biết chú ý về một sản phẩm của người tiêu dùng ngày một bị giảm đi do sự tràn ứ của các quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên các biển quảng cáo lớn. Một vấn đề đang được các nhà kinh doanh sản phẩm tiêu dùng quan tâm là làm thế nào để khách hàng có thể nhận biết được sản phẩm của mình và lúc này đang mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp quảng cáo. Nhưng mặt khác, Việt Nam đang là thị trường hấp dẫn cho nhiều nhà tư bản giàu có về vốn và kinh nghiệm nên khi họ vào Việt Nam sẽ có khả năng thu hút khách hàng hơn các doanh nghiệp trong nước. Do đó nó lại là một thách thức lớn cho doanh nghiệp. * Môi trường công nghệ kĩ thuật Môi trường kĩ thuật bao gồm các nhân tố tác động ảnh hưởng đến công nghệ mới, sáng tạo sản phẩm mới và cơ hội thị trường mới. Kĩ thuật công nghệ bắt nguồn từ thành quả của việc nghiên cứu khoa học, đem lại những phát minh và sáng tạo làm thay đổi bộ mặt của thế giới và là một nhân tố quan trọng nhất quyết định vận mệnh của nhân loại. Những phát minh mới bao giờ cũng kèm theo nó là sản phẩm mới được ra đời. Khi sản phẩm chuẩn bị được tung ra thị trường thì quảng cáo và truyền thông đang là vấn đề cấp thiết của doanh nghiệp và lúc này nó lại mở ra cơ hội cho các nhà quảng cáo và truyền thông. Do đó các công ty quảng cáo và truyền thông phải thường xuyên quan tâm đến nó để có thể đưa ra các kế hoạch quảng cáo và truyền thông độc đáo nhất cho sản phẩm. Và khi nghiên cứu, lên kế hoạch cho một quyết định Marketing người làm Marketing nói chung và quảng cáo nói riêng phải thực sự hiểu về sản phẩm mà mình đang nghiên cứu. Có hiểu được sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thể đưa ra phương pháp quảng cáo truyền thông tối ưu nhất và có thể lựa chọn phương tiện phù hợp nhất cho sản phẩm. Mặt khác, khi công nghệ và kĩ thuật phát triển sẽ cho ra đời những công nghệ mới cho ngành quảng cáo. Nhờ vào những công nghệ mới này doanh nghiệp có thể sản xuất ra những sản phẩm đẹp hơn, tinh vi hơn những sản phẩm làm theo công nghệ cũ. Chính vì điều này mà sự phát triển của khoa học công nghệ có phần quyết định không nhỏ tới sự phát triển của doanh nghiệp. * Môi trường chính trị luật pháp Môi trường chính trị là một trong những yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới các quyết định của doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp quảng cáo truyền thông nói riêng. Môi trường chính trị bao gồm hệ thống các văn bản dưới luật, các công cụ chính sách của nhà nước, tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành ccủa chính phủ và các tổ chức chính trị-xã hội. Thông qua hệ thống luật pháp nhà nước quản lí các doanh nghiệp. Nhà nước đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh và nghị định... như: Hiến pháp, Luật dân sự, Luật công ty, Luật doanh nghiệp... và pháp lệnh về quảng cáo. Tính đến thời điểm hiện nay ở nước ta chưa có luật chính thức về quảng cáo mà chỉ có pháp lệnh về quảng cáo. Doanh nghiệp phải hiểu rõ pháp lệnh về quảng cáo để hiểu rõ khi quảng cáo cho sản phẩm này thì doanh nghiệp được phép quảng cáo những gì? không được quảng cáo gì? Bên cạnh pháp lệnh về quảng cáo thì doanh nghiệp cũng phải hoạt động theo luật doanh nghiệp và các công cụ chính sách khác có liên quan như: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập... Các cơ chế điều hành của chính phủ tác động không nhỏ tới hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Nếu một chính phủ mạnh điều hành chuẩn mực và tốt sẽ khuyến khích kinh doanh chính đáng và ngược lại nếu chính phủ điều hành không tốt sẽ làm cho các quyết định Marketing của doanh nghiệp đi chệch hướng. Những quyết định Marketing của doanh nghiệp sản xuất sẽ tác động ngược trở lại các công ty quảng cáo và truyền thông bởi vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô của thị trường ngành quảng cáo. * Môi trường văn hoá Văn hoá được định nghĩa là một hệ thống giá trị, quan niệm, niềm tin, truyền thống chuẩn mực hành vi đơn nhất với một nhóm người cụ thể nào đó được chia sẻ một cách tập thể. Văn hóa được hình thành trong những điều kiện nhất định về: vật chất, môi trường tự nhiên, khí hậu, kinh nghiệm, lịch sử..Văn hoá là vấn đề khó nhận ra và hiểu thấu đáo, mặc dù đã tồn tại ở khắp nơi và tác động thường xuyên tới các doanh nghiệp sản xuất và do vậy nó cũng gián tiếp ảnh hưởng tới doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo. Đôi khi văn hoá là cản trở cho kinh doanh phát triển Các công ty quảng cáo muốn thành công thì phải đưa ra được những quảng cáo mà công chúng nói chung và khách hàng mục tiêu của sản phẩm đang được quảng cáo ở thị trường đó hiểu được chấp nhận chúng. Các quảng cáo không phải là để cho doanh nghiệp chiêm ngưỡng nó mà quảng cáo phải được người xem nó chấp nhận nó. Những quảng cáo không phù hợp với giá trị văn hoá sẽ bị công chúng tẩy chay và coi như nó đã thất bại, thậm chí sẽ gây ra tác động xấu đến công ty có sản phẩm đó. Do vậy, không chỉ có người kinh doanh sản phẩm trực tiếp sản phẩm cho người tiêu dùng mới cần hiểu về giá trị văn hoá nơi mình kinh doanh mà các doanh nghiệp làm quảng cáo cho họ cũng phải hiểu được công chúng ở đó họ chấp nhận cái gi? và không chấp nhận cái gi? cái gì họ cho là đẹp là đúng với luân thường đạo lí. Doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam có lợi hơn các đối thủ nước ngoài là họ rất am hiểu về nền văn hoá Việt, họ biết người Việt Nam họ cần gì? họ muốn gi? Và họ sẽ chấp nhận gì ở một mẫu quảng cáo. Do đó doanh nghiệp cần khai thác kĩ vấn đề này. Trình độ hiểu biết của người dân cũng ảnh hưởng rất nhiều đến doanh nghiệp. Một quảng cáo đưa ra mà mọi người xem không hiểu nó đang quảng cáo cho sản phẩm gì? ý tưởng quảng cáo là gì thì coi như quảng cáo cũng bằng không. Một quảng cáo được coi là thành công thì đồng nghĩa với việc người xem nó hiểu nó muốn nói gì, có hiểu được thì con người mới nhớ được, khi nhớ được quảng cáo thì người ta cũng nhớ đó là quảng cáo của sản phẩm nào. 2.2 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.2.1 Phương châm của doanh nghiệp * Danh tiếng của khách hàng là số một Doanh nghiệp đặt danh tiếng khách hàng của mình lên hàng đầu, doanh nghiệp rất am hiểu qui luật của thị trường nên kinh doanh không vì lợi ích của mình mà quên đi lợi ích của khách hàng. Danh tiếng của khách hàng cũng là danh tiếng của doanh nghiệp, giữ danh tiếng cho khách hàng cũng là cơ sở để tạo uy tín cho doanh nghiệp trong ngành quảng cáo. Cũng như những mặt hàng khác khi doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối ưu hơn đối thủ cạnh tranh của mình thì họ sẽ là người chiến thắng. Dù chỉ một lần chúng ta làm cho khách hàng không hài lòng thì có thể vĩnh viễn họ không tìm đến doanh nghiệp.Do đó doanh nghiệp phải luôn luôn có gắng hết sức mình để có thể làm cho cả hai bên doanh nghiệp và khách hàng đều có lợi. Cả hai cùng có gắng hết mình để mang lại lợi ích tối ưu nhất cho bên kia. * Đưa ra những ý tưởng độc đáo nhất Doanh nghiệp cam kết với khách hàng là sẽ đưa ra những ý tưởng độc đáo, đem lại sức cạnh tranh trên thị trường lớn nhất cho khách hàng. Doanh nghiệp sẽ không dựa theo những ý tưởng đã có trước đấy để làm cơ sở cho ý tưởng của mình. Khi khách hàng đến với doanh nghiệp họ sẽ luôn luôn khám phá ra sự mới mẻ ở trong ý tưởng quảng cáo của mình . * Lắng nghe người tiêu dùng phản hồi Sau mỗi quảng cáo của khách hàng được xuất hiện trước công chúng doanh nghiệp sẽ lắng nghe ý kiến của người tiêu dùng nói riêng và công chúng nói chung về mẩu quảng cáo đó. Doanh nghiệp xem xét những ý kiến đánh giá của mọi người để xem mức độ thành công của quảng cáo đến đâu, từ đó có thể kịp thời sửa sai và tổng kết đúc rút kinh nghiệm lần sau. * Chú ý tới tưng chi tiết là chìa khoá của sự thành công. *Tiên phong thực hiện bao giờ cũng tốt hơn sự lặp lại. 2.2.2 Khách hàng và hoạt động truyền thông của doanh nghiệp với khách hàng 2.2.2.1 Khách hàng chính của doanh nghiệp Khách hàng chính của doanh nghiệp có thể nói là đa dạng và phong phú, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nó bao gồm nhà cung cấp mạng điện thoại di động Mobi Fone, trong lĩnh vực ngân hàng có ngân hàng ngoài quốc doanh VPBank, ngành thời trang có đại diện là hãng quần áo Thái Tuấn, hãng kinh doanh điện thoại di động nổi tiếng nhất Ấn Độ là NOKIA, hãng sữa Fami, hãng điện tử điện lạnh PICENZA, tổng công ty dầu khí Việt Nam PETROLIMEX...Tuy kinh nghiệm có trong ngành quảng cáo và truyền thông là không nhiều nhưng có thể nói công ty xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế SMART CAMPAIGN đã có nhiều thành công, thu hút được nhiều doanh nghiệp nổi tiếng, chi phí giành cho truyền thông của họ là lớn. Doanh nghiệp đã làm các chương trình trực tiếp cho Mobi fone như: Lễ hội Đền Hùng vào năm 2005, và phát tài phát lộc cùng Mobi fone vào năm 2006… Doanh nghiệp cùng với các doanh nghiệp khác được giải thưởng sao vàng đất Việt tổ chức cuộc thi chạy quanh hồ Hoàn Kiếm để quyên góp tiền ủng hộ người nghèo… 2.2.2.2 Hoạt động truyền thông của doanh nghiệp với khách hàng Hoạt động của doanh nghiệp để khuếch trương hình ảnh với khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm ẩn của doanh nghiệp là không nhiều. Tuy kinh doanh trong ngành quảng cáo và truyền thông nhưng doanh nghiệp chưa có một chiến lược Marketing hợp lí nào để truyền thông, quảng bá hình ảnh của mình với khách hàng mục tiêu cũng như công chúng trực tiếp. Doanh nghiệp có tổ chức các cuộc họp báo, tổ chức mời những người có liên quan đến doanh nghiệp như khách hàng, báo chí, cơ quan chính quyền, người cung ứng cho doanh nghiệp, giới truyền thông,... đến tham dự để nghe báo cáo về những gì đã làm được đã làm được và đang tồn đọng của doanh nghiệp. Hoặc tham dự một lễ ra mắt sản phẩm mới của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng thường xuyên thăm hỏi, tạo mối quan hệ thân mật với những người có liên quan. Doanh nghiệp luôn luôn cố gắng hoàn thành sản phẩm của khách hàng trước thời hạn được giao để xem có gì sai sót cần sửa chữa ngay, tránh sai lầm đáng tiếc có thể sảy ra. Doanh nghiệp chủ động trong mọi tình huống không để khách hàng phải khó chịu, thất vọng. Khách hàng của doanh nghiệp thường là các công ty nên sự uy tín của doanh nghiệp cũng như uy tín của bản thân người lãnh đạo cũng ảnh hưởng rất lớn đến các mối quan hệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giao cho phòng khách hàng lập hồ sơ của từng khách hàng trong đó có ghi rõ: tên khách hàng, địa chỉ, sản phẩm khách hàng kinh doanh…Phòng này có nhiệm vụ quản lí hồ sơ của các khách hàng và thường xuyên gọi điện thăm hỏi để tạo quan hệ tốt với họ, xem xét các hoạt động của họ từ đó có thể kí được những hợp đồng mới cho doanh nghiệp. Thông qua báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng Internet…doanh nghiệp thường xuyên theo dõi về khả năng tài chính, mức độ quảng cáo truyền thông của các doanh nghịêp.. để từ đó có thể lựa chọn, xác định được nhóm khách hàng tương lai của doanh nghiệp. Sau khi đã tìm hiểu về khách hàng thì phòng khách hàng lập hồ sơ của những khách hàng đó và giao cho mỗi người trong phòng phụ trách quan hệ với một nhóm nhất định và mối quan hệ đó có thành công hay không là phụ thuộc vào khả năng của mỗi người. Hạn chế ở đây là phòng khách hàng có số lượng ít, khả năng của mọi người bị hạn chế do đó ảnh hưởng tới việc quan hệ với khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới. Một vấn đề khác đang tồn đọng là doanh nghiệp chưa có trang Web riêng để quảng cáo cho chính mình, do đó ai quan tâm tới doanh nghịêp không thể truy cập để có thể có những thông tin mới mẻ nhất về doanh nghiệp. Bên cạnh hoạt động Marketing cho khách hàng và công chúng trực tiếp, doanh nghiệp còn rất quan tâm đến nhân viên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp hàng năm vẫn tổ chức cho nhân viên đi du lịch vào mùa hè, thăm hỏi động viên họ kịp thời khi họ hoặc bố mẹ, con cái bị ốm đau. Tại nơi làm việc có phòng nghỉ trưa cho nhân viên. Khen thưởng kịp thời cho những cá nhân, phòng ban hoàn thành suất sắc công viêc được giao. Tất cả các nhân viên chính thức của doanh nghiệp đều được đóng bảo hiểm, riêng đối với chị em phụ nữ có chế độ thai sản theo đúng qui định của nhà nước. Cuối năm âm lịch doanh nghiệp thưởng cho nhân viên rất cao để có thể về ăn tết vui vẻ. 2.2.3 Các dịch vụ cung cấp chính của doanh nghiệp 2.2.3.1 Marketing trực tiếp Doanh nghiệp nhận thực hiện hoặc có thể cùng ban quản trị của khách hàng lập chiến lược và kế hoạch Marketing cho khách hàng. Lập chiến lược và kế hoạch Marketing bao gồm hai công đoạn là xây dựng chiến lược kinh doanh theo quan điểm Marketing và lập kế hoạch Marketing. Chiến lược Marketing có thể lập trong dài hạn và cũng có thể là trong ngắn hạn, nó tuỳ thuộc vào mục tiêu của khách hàng trong thời gian đó. Khi lập chiến lược, kế hoạch cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải dựa trên vị thế cạnh tranh của khách hàng trên thị trường, tìm hiểu những yếu tố bên ngoài, xem xét khả năng nguồn lực về nhân sự cũng như về tài chính của khách hàng... Đối với khách hàng là tổng công ty, việc lập kế hoach phải dựa trên trước hết là quan điểm Marketing ở phạm vi toàn công ty, sau đó là lập kế hoạch cho các đơn vị thành viên. Chiến lược phát triển của khách hàng Kế hoạch phát triển ở các lĩnh vực Đề ra nhiệm vụ thiết yếu nhất Xem xét thị trường của khách hàng Xác định mục tiêu của khách hàng Quá trình lập kế hoạch, chiến lược Marketing của doanh nghiệp Doanh nghiệp có thể đưa thông tin lên mạng Internet, hoặc thông qua thư gửi trực tiếp cho khách hàng, phát vấn tại nhà, phỏng vấn qua điện thoại... 2.2.3.2 Hoạt động tư vấn xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp SMART CAMPAIGN cung cấp dịch vụ xây dựng thương hiệu toàn diện dựa trên chiến lược và kế hoạch truyền thông của khách hàng. Doanh nghiệp có thể nhận lập kế hoạch, triển khai cho chiến lược xây dựng thương hiệu mới, định vị thương hiệu trên thị trường và các hoạt động hỗ trợ truyền thông. Doanh nghiệp xây dựng thương hiệu mới cho khách hàng từ thiết kế logo, tên, hình ảnh, màu sắc, xây dựng chiến lược CI, xây dựng đặctính thương hiệu cho sản phẩm .... Tiến trình xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp gồm 6 bước * Bước 1: Nghiên cứu thị trường -Nghiên cứu thực tế của thị trường, sức ép của thị trường -Với góc độ khách hàng: nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, nền văn hoá của họ, các yếu tố cá nhân như nghề nghiệp, tuổi, giới tính, trình độ, địa vị xã hội... * Bước 2: Xem xét các thương hiệu cạnh tranh hiện có trên thị trường * Bước 3: Xác định mục tiêu của thương hiệu * Bước 4: Xây dựng chiến lược thương hiệu phù hợp * Bước 5: Thử nghiệm trên thị trường thông qua hoạt động tryền thông là chủ yếu * Bước 6: Đáng giá và triển khai 2.2.3.3 Lập kế hoạch quảng cáo Doanh nghiệp thực hiện triển khai công việc nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch truyền thông, lập ngân sách quảng cáo, lựa chon các phương tiện truyền thông, xây dựng thông điệp quảng cáo.... Qui trình lập kế hoạch quảng cáo của doanh nghiệp * Bước 1: Nghiên cứu thị trường * Bước 2: Lập ngân sách quảng cáo * Bước 3: Xây dựng thông điệp quảng cáo * Bước 4: Lựa chọn phương tiện truyền thông * Bước 5: Thử nghiệm trên thị trường nhỏ * Bước 6: Thực hiện trên toàn thị trường * Bước 7: Đánh giá 2.2.3.4 Làm bảng biển quảng cáo Doanh nghiệp làm bảng biển trên mọi chất liệu như: Biển Hiflex Biển Lightbox Biển quảng cáo 3 mặt Biển quảng cáo công nghệ mới Biển quảng cáo Scrolling Sign Biển quảng cáo sân vận động Đèn cho biển quảng cáo 2.2.3.5 Tổ chức sự kiện Doanh nghiệp nhận tư vấn hoặc triển khai thực hiện cho khách hàng từ khâu lên kế hoạch, lập ngân sách, thiết kế giấy mời, gửi giấy mời, thuê địa điểm, tổ chức tiệc, chuẩn bị quà cho khách mời..... III Kết luận Tuy mới thành lập được 6 năm nhưng công ty cổ phần xúc tiến thương mại và truyền thông quốc tế SMART CAMPAIGN đã có nhiều thành công lớn. Kinh nghiệm thị trường có, đội ngũ nhân viên được đào tạo chính về chuyên môn nghiệp vụ lại có lòng nhiệt tình say mê công việc nên công việc được hoàn thành nhanh. Với phương châm danh tiếng của khách hàng là số một doanh nghiệp đã tạo được lòng tin, uy tín của mình trên thị trường. Doanh nghiệp có qui mô nhỏ, vốn ít, khách hàng trả nợ thì chậm nên đã để mất nhiều cơ hội trong kinh doanh Doanh nghiệp cần có đội ngũ tiếp cận với thị trường một cách tốt hơn nữa. Có những chính sách Marketing với khách hàng ưu đãi hơn, thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp một cách tối ưu hơn đối thủ cạnh tranh để họ trung thành hơn với doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo I. Tài liệu, ấn phẩm của doanh nghiệp 1. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp năm 2004, 2005, 2006 2. Hồ sơ của doanh nghiệp 3. Báo cáo tổng kết năm 2004, 2005, 2006 4. Báo cáo nghiên cứu thị trường ngành quảng cáo 2006 II. Sách 1. Marketing căn bản - chủ biên GS TS Trần Minh Đạo – nhà xuất bản giáo dục năm 2002 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35235.DOC
Tài liệu liên quan