Báo cáo tổng hợp tại Viện khoa học Lao động và Xã hội

Vấn đề không kém phần quan trọng trong đổi mới phương thức hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện là phải xây dựng cho mình một hệ thống phương pháp luận nghiên cứu, tiếp cận tiên tiến, phù hợp với đặc điểm đặc thù của lĩnh vực lao động và xã hội. Đặc biệt, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống thuộc khoa học xã hội, cần phải tăng cường sử dụng các phương pháp mới có hiệu quả như phương pháp nghiên cứu tình huống, phương pháp nhân học (Anthropology), phương pháp cùng tham gia, phương pháp mô hình hoá. Các phương pháp nghiên cứu hiện đại phải được hỗ trợ tích cực bởi các công cụ toán học, thống kê, kinh tế lượng, tin học, internet và máy tính, giúp cho việc thu nhận và xử lý khối lượng lớn các thông tin, dự báo và lựa chọn phương án, giải quát tối ưu. Điều này đòi hỏi toàn Viện, mỗi nghiên cứu viên phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiên cứu để làm chủ quá trình nghiên cứu. Phát huy thành tích đã đạt được trong 25 năm qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ, sự phối hợp và hợp tác có hiệu quả của các đơn vị trong và ngoài Bộ, sự hợp tác quốc tế và cộng tác tích cực của các nhà quản lý, chuyên gia trong và ngoài nước, Viện KHLĐ&XH nhất định sẽ ngày càng phát triển, xứng đáng là Viện nghiên cứu khoa học đầu ngành thuộc lĩnh vực lao động và xã hội trong thời kỳ mới.

doc20 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo tổng hợp tại Viện khoa học Lao động và Xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tổng hợp I. Quá trình hình thành và phát triển của Viện khoa học Lao động và Xã hội và những thành tựu qua 25 năm hoạt động. Viện Khoa học lao động thành lập vào ngày 14 tháng 4 năm 1978 tại quyết định số 79/CP của Hội đồng Chính phủ. Đến tháng 3 năm 1987, Viện được đổi tên thành Viện Khoa học Lao động và các vấn đề Xã hội (VKHLĐ&CVĐXH). Viện Khoa Học Lao động và Xã hội là đơn vị sự nghiệp khoa học trực thuộc Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, trong hệ thống Viện quốc gia, có biên chế sự nghiệp nghiên cứu khoa học do Bộ phân bổ hàng năm; có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản ( kể cả tài khoản ngoại tệ ); được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên và đầu tư phát triển. 25 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Viện đã không ngừng phát triển, trưởng thành và đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống các Viện nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta. Các công trình nghiên cứu của Viện ngày càng gắn nhiều hơn với nhiệm vụ quản lý nhà nước của ngành, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện chính sách thuộc lĩnh vực Lao động- Thương binh- Xã hội trong các thời kỳ, nhất là thời kỳ đổi mới vừa qua Thời kỳ trước đổi mới (1978-1986). Thời kỳ này, Viện tập trung vào nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thuộc lĩnh vực ngành quản lý phù hợp với phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nghiên cứu luận cứ phụ vụ hoạch định chính sách, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và phục vụ cho quản lý vi mô, nhất là trong các doanh nghiệp nhà nước là nét đặc trưng chủ yếu trong thời kỳ này. Một số kết quả nghiên cứu xây dựng 11 tập định mức thi công thống nhất trong xây dựng cơ bản; tiêu chuẩn thời gian chung để tính định mức cho các công việc gia công cơ khí; phương pháp xây dựng tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật thống nhất các nghề công nhân và hướng dẫn xây dựng các danh mục nghề công nhân; phương pháp phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất lao động ở đơn vị kinh tế cơ sở; nghiên cứu các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả, dự báo dân số và phân bố lao động đến năm 2000. Các công trình nghiên cứu đó đã giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp tổ chức sản xuất 1 cách có khoa học hơn. Thời kỳ này, còn là giai đoạn đầu khi mà hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học bắt đầu được mở ra, chủ yếu là với các nước thuộc hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Thời kỳ sau đổi mới Những năm 1986-1996, đây là thời kỳ nhiều vấn đề trong lĩnh vực lao động- thương binh và xã hội, nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Viện được đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề trong việc nghiên cứu hình thành cơ sở lý luận, phương pháp luận mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành trong lĩnh vực lao động, người có công, lĩnh vực xã hội; đồng thời tham gia nghiên cứu giải quyết những vấn đề bức xúc trong thực tiễn như giải quyết lao động dôi dư trong sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước; vấn đề việc làm cho lao động xã hội, cải cách chính sách BHXH, Bảo trợ xã hội… Vào đầu thập kỷ 90, khởi đầu là khi Viện được Nhà nước giao cho thực hiện đồng thời hai đề tài khoa học cấp nhà nước về đổi mới chính sách tiền lương và đổi mới chính sách BHXH cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Góp phần tích cực xây dựng đề án trình Chính phủ về cải cách tiền lương và BHXH năm 1993. + Đề tài về tiền lương đã giải quyết căn bản các vấn đề liên quan đến lý luận về tiền lương nói chung, phương pháp xác định mức lương tối thiểu, vấn đề thang bảng lương, phụ cấp và vấn đề quản lý nhà nước về tiền lương. + Đề tài BHXH đã đưa ra các căn cứ khoa học cho việc hình thành quĩ BHXH trên cơ sở xác định các mức đóng và hưởng, nguồn quỹ này được hình thành và dần dần đi vào hạch toán độc lập và tách khỏi ngân sách nhà nước, xây dựng các chế độ BHXH bắt buộc, đề ra phương án thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Trong thời kỳ này, Viện cũng được Bộ giao nghiên cứu một số lĩnh vực quan trọng khác như lao động nữ và giới, điều kiện lao động và môi trường lao động; tệ nạn xã hội…Trong lĩnh vực lao động xã hội, các đề tài đã tập trung nghiên cứu phục vụ cho việc đề ra các chính sách đối với các đối tượng có công với cách mạng, bảo đảm cho các đối tượng này có được mức sống bằng hoặc trên mức trung bình của nhân dân địa phương nơi cư trú, thực hiện một số nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc đề ra các chính sách bảo trợ xã hội cho các đối tượng, nghiên cứu xoá đói giảm nghèo, phòng chống tện nạn xã hội.. theo hướng xã hội hoá. Viện đã xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu quan trọng về doanh nghiệp, về thực trạng lao động, việc làm của người lao động, đời sống các đối tượng xã hội thông qua kết quả điều tra hộ gia đình ở các vùng trong cả nước. Thời kỳ 1997-2002 tình hình kinh tế xã hội nước ta diễn biến phức tạp, đặc biệt tăng trưởng kinh tế trong các năm 1998-2000 có chiều hướng giảm sút, thiên tai xảy ra liên tiếp. Trong thời kỳ này Viện thực hiện 32 đề tài nghiên cứu khoa học, 14 dự án nghiên cứu và 28 công trình nghiên cứu hợp tác với nước ngoài, nhiều công trình phối hợp nghiên cứu với các Bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu trong nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các luận cứ khoa học quan trọng phục vụ cho việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, luật pháp và triển khai trên nhiều lĩnh vực trọng điểm của ngành. Từ 1997 đến nay là Viện đã tập trung nghiên cứu tham gia vào các dự thảo báo cáo và nghị quyết TW khoá VIII và IX, dự thảo báo cáo của Chính phủ, xây dựng các chiến lược và đề án lớn của ngành. Đặc biệt là Viện chủ trì xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tham gia xây dựng Chương trình làm việc quốc gia thời kỳ 1998-2000, cả 2 chương trình này đã được Chính phủ phê chuẩn và triển khai thực hiện. Tiếp đó Viện được giao chủ trì xây dựng chiến lược Việc làm và chiến lược xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2010, đồng thời tích cực tham gia xây dựng chiến lược xuất khẩu lao động, chiến lược dạy nghề,....v…v…. Năm 1998 Viện chủ trì nghiên cứu xây dựng báo cáo quốc gia của Chính phủ về sáng kiến 20/20: “ Nghiên cứu dịch vụ xã hội cơ bản của Việt Nam” phục vụ cho Hội nghị quốc tế OSLO II tại Hà nội và Hội nghị các nhà tài trợ tổ chức tại Hà Nội tháng 12/1999. Năm 2000, Viện chủ trì nghiên cứu xây dựng báo cáo quốc gia của Chính phủ về kiểm điểm tình hình thực hiện cam kết tại Hội nghị định thượng đỉnh thế giới Copenhaghen về phát triển xã hội ở Việt Nam phục vụ cho khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển xã hội tại Giơnevơ tháng 6 năm 2000. Viện được giao chủ trì soạn thảo chuyên đề 7 “ Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội” đóng góp vào văn kiện Hội nghị TW 6, nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến ngành đóng góp vào xây dựng văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Giai đoạn 2001-2005 Viện nghiên cứu đón đầu vấn đề đổi mới kế hoạch hoá lao động, việc làm trong nền kinh tế thị trường; đào tạo nguồn nhân lực theo định hướng cầu lao động trên thị trường lao động; các chính sách khuyến khích đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao và ngành kinh tế mũi nhọn; xu hướng hội nhập lao động Việt Nam với lao động khu vực trong những năm tới, nghiên cứu khả năng cạnh tranh của lao động nữ trong ngành dệt may trong bối cảnh tự do hoá thương mại, vấn đề bình đẳng giới trong công việc; vấn đề lao động trẻ em.. Với kết quả và thành tích đáng ghi nhận như thế, liên tục trong nhiều năm Viện đã được tặng cờ thi đua xuất sắc và bằng khen cảu Bộ; năm 1997, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập, Viện đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba vào năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 25 năm, Viện được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai. II.Chức năng và nhiệm vụ của Viện ( Theo quyết định 1445/2002/QĐ-BLĐTBXH) 1. Nghiên cứu khoa học về lĩnh vực Lao động- Thương binh và Xã hội, bao gồm: Dự báo xu hướng phát triển và định hướng chiến lược về lĩnh vực Lao động- Thương binh và Xã hội: tham gia xây dựng chiến lược thuộc lĩnh vực Lao động- Thương binh và Xã hội. Phát triển nguồn lao động; di dân, dịch chuyển lao động; đào tạo nghề nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm và đáp ứng thị trường lao động. Việc làm, thất nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động; thị trường lao động; tác động của toàn cầu hoá…. Tiền lương, tiền công, thu nhập; tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân; định mức lao động; năng suất lao động Tiêu chuẩn, quy phạm an toàn, vệ sinh, môi trường và điều kiện lao động; Lao động nữ; các khía cạnh xã hội và vấn đề giới của lao động nữ và lao động đặc thù. Ưu đãi của người có công; xoá đói giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã hội; tệ nạn xã hội. 2. Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành; đào tạo trình độ sau đại học thuộc chuyên ngành Kinh Tế Lao động ( Thạc sỹ, tiến sỹ) theo quy định của pháp luật. 3. Điều tra cơ bản phục vụ nghiên cứu khoa học về lao động và Xã hội; thu thập và phổ biến thông tin khoa học, kết quả các công trình nghiên cứu. 4.Tư vấn và tham gia thẩm định, đánh giá các chương trình, dự án, chính sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ quản lý, gắn nghiên cứu khoa học với phục vụ quản lý Nhà nước lĩnh vực lao động- xã hội. 5.Tập trung đầu tư cơ sở vật chất và năng lực nghiên cứu cho Viện trở thành viện đầu ngành ( trụ sở làm việc, đào tạo cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin, thiết bị phục vụ cho nghiên cứu). 6.Tổ chức điều tra cơ bản, thu thập thông tin, hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu, hoạch định chính sách và quản lý của ngành. 7.Mở rộng hợp tác với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ về Lao động và Xã hội theo quy định của pháp luật, của Bộ nhằm chia sẻ thông tin và kinh nghiệm. 8.Quản lý tổ chức, cán bộ, công chức, tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và của Bộ. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của Viện theo hưóng tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện. III. Hệ thống tổ chức 1. Tổ chức của Viện Khoa học Lao động và Xã hội qua các thời kỳ. Viện Khoa học Lao động và xã hội ( tiền thân là Viện Khoa học lao động ) đã có 25 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển. Trong 25 năm qua, tổ chức bộ máy cũng như chức năng,nhiệm vụ của Viện không ngừng được hoàn thiện. Có thể khái quát quá trình này thành ba giai đoạn: 10 năm đầu tiên xây dựng và củng cố; 10 năm tiếp theo ổn định và phát triển và 5 năm gần đây đổi mới và khẳng định. Giai đoạn 1978-1988 Theo quyết định 79/CP Viện Khoa học lao động có 13 phòng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng thực tế mới chỉ có 10 cán bộ, và do số lượng cán bộ hạn chế nên tổ chức bộ máy của Viện chỉ bao gồm: Phòng định mức cơ khí Phòng định mức xây dựng Tổ nguồn lao động Tổ tiền lương Đến năm 1983, số cán bộ của Viện đã tăng lên 50 người và được bố trí thành các phòng, bao gồm: Phòng định mức lao động Phòng nguồn lao động Phòng tiền lương, mức sống Phòng điều kiện lao động Phòng thông tin khoa học Phòng tổ chức, hành chính quản trị tài vụ Phân viện Khoa học Lao động tại thành phố HCM. Năm 1985, Bộ trưởng Bộ Lao động quyết định tách Phòng nguồn lao động khỏi viện để thành lập Trung tâm nghiên cứu Dân số và nguồn Lao động; tách phòng thông tin khoa học khỏi viện để thành lập Trung tâm thông tin Khoa học và thống kê Lao động trực thuộc Bộ Lao động. Ngoài ra, Bộ còn quyết định thành lập tổ công tác tổng kết kinh nghiệm tiên tiến về tổ chức lao động, bộ phận kế hoạch phối hợp, bộ phận đối ngoại thuộc Viện Khoa học Lao động. Tháng 10 năm 1987 Tổ chức của Viện có 12 bộ phận, bao gồm: Phòng định mức lao động Phòng điều kiện lao động Phòng tổ chức lao động khoa học Phòng tiền lương mức sống Phòng năng suất lao động Phòng bảo trợ xã hội Phòng tổ chức hành chính quản trị Tổ tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân Bộ phận kế hoạch phối hợp Tổ đối ngoại thông tin Tổ kế toán tài vụ Phân viện thành phố Hồ Chí Minh. Giai đoạn 1988-1998 Ngày 18/8/1988, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH ra quyết định 307/LĐTBXH-QĐ về việc chuyển Trung tâm Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động về thuộc Viện khoa học Lao động và các vấn đề Xã hội. Tuy nhiên ngày 19/10/1992 Bộ Trưởng Bộ LĐTBXH lại ban hành Quyết định số 445/LĐTBXH-QĐ về việc chuyển trung tâm Dân số và Nguồn lao động về thuộc Bộ. Ngày 14/2/1992, Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Lao động thuộc Viện được thành lập theo quyết định số 58/LĐTBXH-QĐ của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH. Do yêu cầu của công tác nghiên cứu phục vụ xây dựng chính sách và quản lý, ngày 14/3/1994 Bộ trưởng Bộ LĐTBXH đã ban hành quyết định số 262/LĐTBXH-QĐ quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn tổ chức bộ máy của Viện Khoa Học Lao động và Các vấn đề Xã hội. Cũng trong thời gian này, Bộ trưởng Bộ LĐ cũng có quyết định số 263/LĐTBXH-QĐ về việc thành lập Trung tâm nghiên cứu Lao động Nữ trực thuộc Viện Khoa học Lao động và các vấn đề Xã hội. Ngày 3/6/1995, Tổ nghiên cứu chiến lược được thành lập theo quyết định số 815/LĐTBXH-QĐ của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Các phòng ban của Viện duy trì đến năm 1998 như sau: Phòng tổ chức- hành chính-tài vụ 2) Phòng kế hoạch tổng hợp 3) Phòng bảo hiểm và ưu đãi xã hội 4) Phòng bảo trợ và tệ nạn xã hội 5) Phòng tiền lương tiền công mức sống 6) Phòng việc làm 7) Trung tâm môi trường lao động 8) Trung tâm nghiên cứu lao động nữ 9) Phân viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội 10) Tổ nghiên cứu chiến lược Giai đoạn 1998 -2003 Ngày 6/7/1998, Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH có quyết định 669/QĐ- LĐTBXH điều động và bổ nhiệm TS. Nguyễn Hữu Dũng, Vụ trưởng đồng giám đốc chương trình EC quốc tế trợ giúp người hồi hương Việt Nam, làm viện trưởng Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội. Năm 1999, trung tâm nghiên cứu DS và nguồn lao động chuyển về trực thuộc Viện Khoa học Lao động và các vấn đề Xã hội theo quyết định 363/1999/QĐ- LĐTBXH của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và xã hội. Ngày 18/11/2002, Bộ trưởng Bộ lao động- Thương binh và Xã hội ra quyết định số 1445/2002/QĐ- LĐTBXH về việc đổi tên Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội thành Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và qui định chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy. Lúc này các đơn vị chức năng của Viện bao gồm 4 phòng và 3 trung tâm như sau: 1)Phòng Tổ chức- Hành chính- Tài vụ. 2)Phòng Kế hoạch- Tổng hợp- Đối ngoại. 3) Phòng nghiên cứu quan hệ lao động. 4) Phòng Nghiên cứu chính sách ưu đãi và xã hội. 5) Trung tâm nghiên cứu dân số, lao động, việc làm. 6) Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ và giới. 7) Trung tâm nghiên cứu môi trường và điều kiện lao động. Viện có Hội đồng khoa học tư vấn cho Viện trưởng về công tác nghiên cứu khoa học 2. Tổ chức hiện nay của Viện. a) Sơ đồ tổ chức HỘI ĐỒNG KHOA HỌC LÃNH ĐẠO VIỆN PHÒNG KẾ HOẠCH-TỔNG HƠP- ĐỐI NGOẠI PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TÀI VỤ PHÒNG NGHIÊN CỨU QHLĐ T.TÂM NGHIÊN CỨU DS, LĐ, VL T.TÂM NGHIÊN CỨU MT & ĐKLĐ T.TÂM NGHIÊN CỨU LĐ NỮ VÀ GIỚI PHÒNG NGHIÊN CỨU CS ƯU ĐÃI & XH b) Chức năng nhiệm vụ của các phòng và trung tâm trong Viện 1) Lãnh đạo Viện 1 viện trưởng, 3 viện phó. -Viện trưởng có trách nhiệm phân công, giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc, xây dựng, trình Bộ quy chế hoạt động, mối quan hệ công tác (bao gồm cả cơ chế đổi mới hoạt động tài chính) đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Các viện phó đóng vai trò giúp việc cho viện trưởng 2) Ba trung tâm ( Dân số, LĐ nữ và giới, Môi trường và điều kiện lao động ) thuộc khối nghiên cứu mang tính độc lập với Viện - Trung tâm Dân số- lao động- việc làm: Dự báo các vấn đề về dân số, tình trạng thất nghiệp và có việc làm, dạy nghề..v…v… - Trung tâm LĐ nữ và giới: nghiên cứu bình đẳng giới, việc làm về giới…v…v… - Trung tâm môi trường và điều kiện lao động: nghiên cứu điều kiện làm việc, an toàn vệ sinh, bảo hộ lao động của người lao động…v….v… 3)Hai phòng tham mưu giúp việc phục vụ công tác quản lý ( phòng kế hoạch tổng hợp đối ngoại, phòng tổ chức-hành chính-tài vụ) - Phòng kế hoạch tổng hợp đối ngoại + Nhiệm vụ tham mưu hoạt động khoa học của Viện + Lập các kế hoạch, thực hiện các đề tài, dự án chương trình nghiên cứu, giám sát kế hoạch, khai thác đấu thầu đề tài dự án. + Theo dõi giám sát tiến độ chất lượng nghiên cứu + Viết các báo cáo tổng kết nhiệm vụ hàng tháng, quý, năm. + Biên dịch, phiên dịch. + Hành chính đối ngoại +…….. - Phòng tổ chức hành chính tài vụ + Thi đua, khen thưởng, kỷ luật. + Sắp xếp nhân sự, điều hành nhân sự + Nâng lương, đào tạo, đề bạt, tư tưởng cán bộ + Hành chính ( mua sắm, sữa chữa, dọn dẹp, văn thư, thanh lý tài sản,quản lý quỹ tài chính….) + BHXH, BHYT….. +…….. 4) Hai phòng nghiên cứu quan hệ lao động và nghiên cứu chính sách ưu đãi xã hội thuộc khối quản lý hành chính - Phòng nghiên cứu chính sách ưu đãi XH: bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, xây dựng chuẩn nghèo, nghiên cứu về người nghèo, trẻ em, đối tượng yếu thế trong xã hội..v..v… - Phòng nghiên cứu quan hệ lao động: nghiên cứu vè tiền lương, định mức lao động, các tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, quan hệ lao động trong doanh nghiệp…v…v… 3. Đội ngũ cán bộ trong Viện a) Số lượng Tổng số cán bộ, nghiên cứu viên của Viện là 71 người, trong đó 34 nam, 37 nữ (Theo điều tra thống kê của Viện đến 15/11/2006). b) Chất lượng lao động: TT Loại lao động Tổng số Tiến sỹ Cao học Đại học Trung cấp Không có trình độ I Theo cán bộ trong biên chế và ngoài biên chế 1) Biên chế 39 4 8 23 4 0 2) HĐLĐ xác định thời hạn (trong quỹ lương) 25 0 4 21 0 0 3) HĐLĐ xác định thời hạn (ngoài quỹ lương) 2 1 1 4) HĐLĐ có thời hạn dưới 12 tháng 1 2 II Theo ngạch viên chức 1) Nghiên cứu viên cao cấp 2) Nghiên cứu viên chính 5 1 2 2 0 0 3) Nghiên cứu viên 54 2 11 41 0 0 4) Khác 11 0 0 3 5 3 Tổng 71 4 13 46 5 3 Trình độ đào tạo của cán bộ trong Viện: Tiến sỹ chiếm 5,63% tổng số cán bộ Thạc sỹ 18,3% tổng số cán bộ Cử nhân 64,78% tổng số cán bộ Trung cấp chiếm 7,04% tổng số cán bộ Không có trình độ chiếm 4,25% tổng số cán bộ. Khả năng đáp ứng yêu cầu nghiên cứu hiện nay của đội ngũ cán bộ Về cơ bản đáp ứng nhiệm vụ nghiên cứu. Thiếu cán bộ đầu đàn, chuyên gia để thực hiện những nhiệm vụ mang tính chiến lược. Trong nghiên cứu lý luận, nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực lao động và xã hội mới dừng lại ở những nhận thức, khái quát chung, còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra trong thực tiễn chưa có lời giải đáp, hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Còn quá ít công trình nghiên cứu đón đầu, có tính chất dự báo dài hạn về các vấn đề lớn cảu ngành như phát triển nguồn nhân lực và dạy nghề, nhất là dạy nghề trình độ cao; chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp; các tiêu chuẩn lao động trong kinh tế thị trường; đổi mới hệ thống an sinh xã hội,.v..v.. một số đề tài dự án triển khai chậm so với kế hoạch. Về khả năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn: 1 cán bộ đã làm chủ nhiệm đề taì cấp nhà nước, các đề án lớn, 3 cán bộ làm chủ nhiệm các dự án nghiên cứu tầm trung, 8 cán bộ đã làm chủ nhiệm đề tài cấp Bộ, 11 cán bộ đã làm thư ký, trợ lý, điều phối các đề tài, dự án của Viện, 22 cán bộ đã tham gia viết báo cáo nhánh, báo cáo tổng hợp đề tài dự án,9 cán bộ hiện nay chỉ mới đảm nhiệm các công việc điều tra khảo sát. Chất lượng một số đề tài/dự án còn hạn chế nhất là trong các khuyến nghị phục vụ xây dựng và sửa đổi chính sách của ngành; tính chủ động của một số đơn vị trong khai thác các đề tài/dự án cũng như trong triển khai nghiên cứu các đề tài Viện giao còn chưa cao. Về tin học: 12 cán bộ có khả năng sử dụng các phần mềm phân tích xử lý số liệu. Về ngoại ngữ: 17 cán bộ có khả năng giao tiếp và độc lập đi công tác nước ngoài. Đang mất cân đối theo tuổi trong đội ngũ cán bộ (4 nghiên cứu viên từ 55 tuổi trở lên, 15 nghiên cứu viên từ 45 đến 54 tuổi, 10 nghiên cứu viên từ 35 đến 44 tuổi, 31 nghiên cứu viên dưới 35 tuổi). Thiếu cán bộ lãnh đạo ở các đơn vị thuộc Viện; hiện nay 2 đơn vị chưa có trưởng phòng, 1 đơn vị lãnh đạo Viện phải kiêm giám đốc trung tâm. Hiện nay Viện đang tổ chức các lớp Tiếng Anh, các chương trình đào tạo cao học, tiến sỹ, lớp tin học để bồi dưỡng thêm cho đội ngũ cán bộ trong Viện. Viện đã tổ chức cho 17 người ra nước ngoài tham quan, học hỏi kinh nghiệm, 30 người đào tạo trong nước ( tham gia hội thảo,..). Hỗ trợ nghiên cứu và dời sống cán bộ. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu đã được cải thiện hơn nhiều so với những năm trước nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Trong năm 2006, Viện đã hoàn tất việc sửa sang, nâng cấp trụ sở Viện. Viện đã trang bị bổ sung nhiều thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu cho cán bộ như máy in, máy vi tính, tủ tài liệu,v..v..Tuy nhiên vẫn còn một số nghiên cứu viên phải sử dụng máy vi tính đã quá cũ, tốc độ chậm hoặc phải sử dụng máy tính sách tay cá nhân. Tuy công tác thông tin khoa học đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn hạn chế. Đời sống cán bộ đã được cải thiện, quỹ Công đoàn hỗ trợ đời sống cho cán bộ cũng phát triển hơn những năm trước đây, tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập, chất lượng nghiên cứu được đặt lên hàng đầu nên một số nghiên cứu viên không bắt nhịp kịp với bối cảnh mới nên hiển nhiên mức thu nhập của họ bị giảm tương đối so với các cán bộ khác. Đây sẽ là vấn đề thách thức với bản thân những người nghiên cứu viên này cũng như với lãnh đạo Viện và Công đoàn Viện trong thời gian tới. IV. Phương hướng phát triển và nhiệm vụ của Viện Khoa học lao động và xã hội trong giai đoạn 2007-2010. 1. Định hướng nghiên cứu Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ IX, nghị quyết Hội nghị TW 6 ( khoá IX) đặt ra nhiệm vụ cho khoa học và công nghệ từ nay đến 2010 là tập trung giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn do cuộc sống đặt ra. Cung cấp các luận cứ khoa học cho các chủ trương chính sách nhằm tiếp tục giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 BCH TW khoá IX về tiếp tục thực hiện nghị quyết TW 2 khoá VII, phương hướng phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ từ nay đến năm 2005 và 2010 cũng xác định phải “đẩy mạnh nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong thời gian tới, Viện phải là lực lượng nòng cốt trong công tác nghiên cứu Khoa học Lao động và Xã hội, thực hiện và tiếp tục làm rõ những vấn đề mang tính quy luật để từ đó phát triển hệ thống lý luận và phương pháp luận các vấn đề lao động, việc làm và các vấn đề xã hội trong lao động, trong thị trường lao động và trong phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội khi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Viện phải tập trung giải đáp những vấn đề có tính thời sự đặt ra, nhất là những vấn đề thuộc về phát triển thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế; các giải pháp đột phá để tiếp tục giải phóng sức lao động và tạo việc làm mới cho lao động xã hội; nghiên cứu các tiêu chuẩn về đào tạo, tiêu chuẩn về lao động quốc gia để từng bước nâng cao các tiêu chuẩn trong nước. Nhiệm vụ đặt ra những yêu cầu rất cao đối với sự nghiệp nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực Lao động và Xã hội, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả nghiên cứu trong tình hình mới. Mục tiêu tổng quát là xây dựng Viện đầu ngành hoạt động phù hợp với đổi mới cơ chế quản lý nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có tiềm lực nghiên cứu đủ mạnh, có khả năng giải đáp kịp thời các vấn đề lý luận và thực tiễn do cuộc sống đặt ra thuộc lĩnh vực Lao động và xã hội. Đặc biệt, trong nghiên cứu phải tạo ra bước chuyển biến rõ rệt trong việc cung cấp các luận cứ khoa học nhằm phục vụ công tác quản lý của ngành phù hợp với yêu cầu đổi mới; nhanh chóng hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện; đổi mới quản lý nghiên cứu khoa học lao động và xã hội phù hợp với chủ trương, đổi mới quản lý khoa học và công nghệ của Nhà nước, đảm bảo thật sự có hiệu quả; nâng cao một bước chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu ( cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và tin học), xây dựng cơ cấu cán bộ nghiên cứu viên hợp lý theo các cấp trình độ và hoạt động mang tính chuyên nghiệp; đổi mới phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận mới, ứng dụng rộng rãi các công cụ hiện đại và công nghệ tin học; tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu tương ứng với nhiệm vụ được giao, đổi mới cơ chế, chính sách ưu đãi người có công thể hiện đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”, chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần cho người có công hơn, các chính sách giải pháp cơ chế thoát nghèo bền vững, khuyến khích các hộ, xã, phường làm giàu, nghiên cứu hình thành hệ thống an sinh xã hội theo hướng xã hội hoá, cơ chế giải pháp có hiệu quả phòng chống tệ nạn xã hội bằng sự kết hợp các biện pháp kinh tế, xã hội và hành chính. Nghiên cứu dự báo, đón đầu và nghiên cứu ứng dụng các vấn đề về lao động và xã hội làm cơ sở hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật về lao động và xã hội. 2. Dự kiến một số nghiên cứu triển khai trong năm 2007 - Nghiên cứu đề tài nhánh: “Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và thực tiễn chính sách xã hội nhằm đảm bảo hài hoà quan hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế ” (thuộc chương trình trọng điểm cấp Bộ ). - Nghiên cứu đề tài nhánh: “ Bản chất tiền lương- tiền công trong kinh tế thị trường” ( thuộc chương trình trọng điểm cấp Bộ ). - Nghiên cứu xây dựng đề án: “ Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020” - Nghiên cứu xây dựng đề án “Đánh giá, dự báo những tác động đến đối với lao động, việc làm, thu nhập, đời sống người lao động khi Việt Nam là thành viên của WTO, gồm: + Đánh giá, dự báo lao động, việc làm, thu nhập, đời sống đối với lao động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ và đề xuất các giải pháp. + Đánh giá, dự báo những tác động đến việc làm, thu nhập, đời sống,..v..v.. của lao động tàn tật và đề xuất các giải pháp. + Đánh giá, dự báo những tác động đến việc làm, thu nhập, đời sống đối với lao động nữ và đề xuất các giải pháp. + Đánh giá dự báo di chuyển lao động vào khu công nghiệp, đô thị; những tác động đến việc làm, thu nhập, đời sống, v..v.. đối với người lao động di chuyển và đề xuất các giải pháp. 3. Kế hoạch nguồn nhân lực đến 2010 3.1 Số lượng, chất lượng: TT Loại lao động Tổng số Tiến sỹ Cao học Đại Học Trung cấp Không có trình độ I Theo loại HĐLĐ 1 HĐLĐ không xác định thời hạn 35 5 10 17 3 0 2 HĐLĐ xác định thời hạn 35 5 13 17 0 0 II Theo ngạch viên chức 1 Nghiên cứu viên cao cấp 2 2 0 0 0 0 2 Nghiên cứu viên chính 10 5 4 1 0 0 3 Nghiên cứu viên 51 3 19 29 0 0 4 Khác 7 0 0 4 3 0 III) Theo đơn vị chức năng 70 10 23 34 3 0 1 Lãnh đạo Viện 4 4 0 0 0 0 2 Phòng Tổ chức-Hành chính-Tài vụ 8 0 2 3 3 0 3 Phòng Kế hoạch-Tổng hợp-Đối ngoại-Phân tích, dự báo 12 1 5 6 0 0 4 Phòng nghiên cứu Quan hệ lao động 10 1 4 5 0 0 5 Phòng nghiên cứu chính sách ưu đãi và xã hội 10 2 3 5 0 0 6 Trung tâm nghiên cứu môi trường và ĐKLĐ 8 0 2 6 0 0 7) Trung tâm nghiên cứu lao động nữ và giới 8 1 2 5 0 0 8) Trung tâm nghiên cứu dân số, LĐ, việc làm 10 1 5 4 0 0 Tổng 70 10 23 34 3 0 3.2. Hình thức quản lý: quản lý theo chế độ HĐLĐ Theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Theo đó Viện khoa học lao động và xã hội cũng là một tổ chức khoa học công nghệ. Thủ trưởng tổ chức KH&CN thực hiện ký hợp đồng làm việc với viên chức trong đơn vị, quy trình, thủ tục và mẫu hợp đồng làm việc thực hiện theo quy định của pháp luật về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà Nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Đối với cán bộ, viên chức đã được tuyển dụng vào biên chế của các tổ chức hành chính sự nghiệp Nhà nước trước ngày 1 tháng 7 năm 2003 hiện đang làm việc tại tổ chức KH&CN thì thủ trưởng tổ chức KH&CN thực hiện ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, xong trước ngày 31/12/2006. Thủ trưởng cơ quan chủ quản ký hợp đồng làm việc với thủ trưởng và cấp phó của của tổ chức KH&CN. Các tổ chức KH&CN có các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ KH&CN, thủ trưởng tổ chức KH&CN ký hợp đồng lao động với người lao động làm việc tại các đơn vị sản xuất, kinh doanh và dịch vụ KH&CN theo quy định của Luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thủ trưởng tổ chức KH&CN thực hiện ký hợp đồng thuê khoán công việc đối với những công việc không cần thiết phải bố trí biên chế thường xuyên. Những người có thời gian làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc không xác định thời hạn liên tục từ 3 năm trở lên ( tại tổ chức KH&CN đang làm việc, hoặc trước đó tại các cơ quan hành chính, tổ chức sự nghiệp của Nhà nước) và có đủ các tiêu chuẩn khác theo quy định, có thể được xem xét để bổ nhiệm và các chức vụ lãnh đạo tổ chức KH&CN. 4. Mục tiêu Nghiên cứu các luận cứ khoa học và thực tiễn làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình trọng điểm của ngành. Nghiên cứu tổng kết mô hình thực hiện, các nhân tố mới, vấn đề mới phát sinh nhằm rút ra bài học kinh nghiệm tốt, quy trình hợp lý và đề xuất giải pháp nhân rộng hoặc xử lý kịp thời. Hợp tác và nghiên cứu những kinh nghiệm tiên tiến của các nước ứng vào cá lĩnh vực của ngành, nhất là các lĩnh vực liên quan đến hội nhập. 5. Nhiệm vụ chủ yếu của Viện Khoa học lao động và xã hội giai đoạn 2007-2010 a)Nghiên cứu khoa học về lĩnh vực Lao động- Thương binh và Xã hội, bao gồm: Dự báo xu hướng phát triển và định hướng chiến lược về lĩnh vực Lao động- Thương binh và Xã hội; tham gia xây dựng chiến lược thuộc lĩnh vực Lao động- Thương binh và xã hội. Phát triển nguồn lao động; di dân, dịch chuyển lao động; đào tạo nghề nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động; tạo việc làm và đáp ứng thị trường lao động. Việc làm, thất nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động; thị trường lao động; tác động của toàn cầu hoá… Tiền lương, tiền công, thu nhập, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân; định mức lao động; năng suất lao động xã hội. Tiêu chuẩn, quy phạm an toàn, vệ sinh môi trường và điều kiện lao động. Lao động nữ, các khía cạnh xã hội và vấn đề giới của lao động nữ và lao động đặc thù. Ưu đãi người có công; xoá đói giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã hội; tệ nạn xã hội. b) Tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành, đào tạo trình độ sau đại học chuyên ngành Kinh Tế Lao Động ( thạc sỹ, tiến sỹ ) theo quy định của pháp luật. c) Điều tra cơ bản phục vụ nghiên cứu khoa học về Lao động và xã hội; thu thập và phổ biết thông tin khoa học, kết quả các công trình nghiên cứu; d) Tư vấn và tham gia thẩm định, đánh giá các chưong trình, dự án, chính sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ quản lý. e) Mở rộng hợp tác với các tổ chức , cơ quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ về Lao động và Xã hội theo quy định của pháp luật, của Bộ. g) Quản lý tổ chức cán bộ, công chức, tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và của Bộ. Để thực hiện nhiệm vụ trên, cơ cấu tổ chức và bộ máy của Viện đang được đổi mới và hoàn thiện theo hướng hình thành các đơn vị nghiên cứu tương đối tổng hợp theo các lĩnh vực dân số, lao động, việc làm, quan hệ lao động, môi trường và điều kiện lao động, lao động nữ và giới, chính sách ưu đãi và xã hội. Vấn đề không kém phần quan trọng trong đổi mới phương thức hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện là phải xây dựng cho mình một hệ thống phương pháp luận nghiên cứu, tiếp cận tiên tiến, phù hợp với đặc điểm đặc thù của lĩnh vực lao động và xã hội. Đặc biệt, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống thuộc khoa học xã hội, cần phải tăng cường sử dụng các phương pháp mới có hiệu quả như phương pháp nghiên cứu tình huống, phương pháp nhân học (Anthropology), phương pháp cùng tham gia, phương pháp mô hình hoá. Các phương pháp nghiên cứu hiện đại phải được hỗ trợ tích cực bởi các công cụ toán học, thống kê, kinh tế lượng, tin học, internet và máy tính, giúp cho việc thu nhận và xử lý khối lượng lớn các thông tin, dự báo và lựa chọn phương án, giải quát tối ưu.. Điều này đòi hỏi toàn Viện, mỗi nghiên cứu viên phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiên cứu để làm chủ quá trình nghiên cứu. Phát huy thành tích đã đạt được trong 25 năm qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ, sự phối hợp và hợp tác có hiệu quả của các đơn vị trong và ngoài Bộ, sự hợp tác quốc tế và cộng tác tích cực của các nhà quản lý, chuyên gia trong và ngoài nước, Viện KHLĐ&XH nhất định sẽ ngày càng phát triển, xứng đáng là Viện nghiên cứu khoa học đầu ngành thuộc lĩnh vực lao động và xã hội trong thời kỳ mới. MỤC LUC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC857.doc
Tài liệu liên quan