Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp trong tố tụng dân sự Việt Nam

- Cần sửa đổi, bổ sung Điều 21 Bộ luật TTDS 2015. Mặc dù vai trò của VKS trong TTDS là không thể phủ nhận, song cần phải nhận thức rất rõ nguyên tắc bảo đảm sự độc lập xét xử của Tòa án. Để Tòa án được độc lập xét xử thì cần phải hạn chế sự tham gia của VKS tại phiên tòa xét xử, đặc biệt là phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Hiện Điều 21 Bộ luật TTDS 2015 quy định VKS tham gia các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tại khoản 2, khoản 3 và như vậy VKS tham gia khá nhiều vào hoạt động xét xử của Tòa án. Sẽ là phù hợp hơn khi Bộ luật TTDS 2015 hạn chế hơn việc tham gia phiên tòa, phiên họp của VKS, cụ thể là khoản 2 Điều 21 Bộ luật TTDS 2015 chỉ nên quy định “VKS tham gia các phiên tòa sơ thẩm do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTDS 2015”. - Bộ luật TTDS 2015 cần bổ sung quy định về các biện pháp mà VKS được tiến hành để thu thập chứng cứ. Hạn chế sự kiểm sát của VKS tại phiên tòa xét xử, tăng cường sự kiểm sát của VKS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là giải pháp phù hợp để đảm bảo quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS. Bởi trong TTDS, hoạt động chứng minh là quan trọng nhất nên để hỗ trợ cho đương sự trong việc chứng minh, cũng như Tòa án, VKS có thể hỗ trợ đương sự bình đẳng với nhau bằng cách thu thập chứng cứ tại giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 đã quy định rõ Tòa án có thể thu thập chứng cứ bằng các biện pháp cụ thể nhưng chưa có quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ mà VKS được tiến hành. VKS cũng là một cơ quan tiến hành TTDS như tòa án nên sẽ là phù hợp nếu Bộ luật TTDS 2015 bổ sung quy định: “Trong trường hợp cần thiết, VKS thu thập tài liệu, chứng cứ bằng các biện pháp được quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015”.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp trong tố tụng dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinionTạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 74 (12/2020) 59-67 BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA ĐƯƠNG SỰ NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ENSURING EQUAL RIGHTS OF THE LITIGANTS TO PROMOTE JUDICIAL REFORM IN VIETNAM CIVIL PROCEDURE Đinh Thị Hằng *, Bùi Duy Tùng† Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/6/2020 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/12/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/12/2020 Tóm tắt: Bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không chỉ đơn thuần là việc ghi nhận các quyền đó mà còn cần phải tạo nên các thiết chế nhằm bảo đảm các quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện trên thực tế. Một trong các thiết chế đó là đương sự có thể tìm đến Tòa án nhân dân, yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc giải quyết này của Tòa án phải tuân theo một quy trình tố tụng dân sự nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng và bình đẳng giữa các đương sự đã được pháp luật quy định. Từ khóa: Quyền bình đẳng, đương sự; quyền con người; tố tụng dân sự; cải cách tư pháp. Abstract: Protection of human and legitimate rights as well as interests of citizens is not merely the recognition of those rights but also the creation of institutions to ensure that those rights and obligations are fulfi lled in reality. One of those institutions is that the involved parties can go to the People’s Court and request to protect their legitimate rights and interests. This resolution of the Court must follow a civil procedure to ensure objectivity, fairness and equality among the involved parties in accordance with the law. Keywords: Equal rights, litigants; human rights; Civil Procedure; judicial reform * Trường Đại học Mở Hà Nội † Trường đào tạo Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Quảng Ninh ‡ Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 38. § Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nhà xuất bản Trường Thi Sài Gòn, trang 42. 1. Khái quát về bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự Theo từ điển tiếng Việt thì thuật ngữ “bảo đảm” thường được giải thích là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”‡. Từ điển Hán Việt, thuật ngữ bảo đảm được giải thích là “giữ gìn - chăm sóc - gánh vác một việc gì đó”§. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất thì BĐQBĐ của đương sự là việc làm cho chắc chắn quyền bình 60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion đẳng của đương sự được giữ gìn, được thực hiện, được có đầy đủ những gì cần thiết để được thực hiện. Dưới phương diện pháp luật, BĐQBĐ của đương sự trong TTDS được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về bình đẳng quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đương sự, về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tòa án, viện kiểm sát và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc giúp đỡ đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong suốt quá trình tố tụng dân sự. Với thực tế “tại nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển, luật pháp được coi là phương tiện để đạt được những kết quả công bằng”¶ và phương tiện này “có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu”** thì giải pháp đầu tiên là pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) cần phải ghi nhận cụ thể các đương sự trong TTDS bình đẳng với nhau về các quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý, sau đó là các quy định về vai trò, trách nhiệm của tòa án, viện kiểm sát trong việc tạo điều kiện, bảo đảm cho đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước tòa án. BĐQBĐ của đương sự trong TTDS có những đặc trưng như: - Là biện pháp bảo đảm được áp dụng cho tất cả các đương sự trong TTDS để giúp các đương sự có vị thế bằng nhau, ngang nhau trong việc hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại tòa án nhân dân, đồng thời đều ¶ đoi.aspx?ItemID=1762#_ftn5 ** Nguyễn Quang Hiền (2004), “Pháp luật – phương tiện quan trọng bảo vệ quyền con người”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2004. phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau về hành vi và quyết định của mình. - Gắn liền và phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của tòa án bởi trong mối quan hệ với tòa án thì tòa án có vị thế cao hơn nên nếu tòa án không tôn trọng, không tạo điều kiện thuận lợi để đương sự thực hiện thì quyền nào của đương sự cũng không thể được thực hiện trong thực tế. - Viện kiểm sát và những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cũng góp phần BĐQBĐ của đương sự trong TTDS do Viện kiểm sát (VKS) có thẩm quyền đặc biệt là quyền giám sát các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, còn các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan hỗ trợ tòa án giải quyết vụ việc dân sự. BĐQBĐ của đương sự trong TTDS có ý nghĩa rất quan trọng bởi về phương diện chính trị, xã hội, BĐQBĐ của đương sự thể hiện sự đáp ứng của PLTTDS trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, của nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của PLTTDS về BĐQBĐ của đương sự trong TTDS sẽ hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân, thể hiện một nhà nước thượng tôn pháp luật. BĐQBĐ của đương sự trong TTDS còn thể hiện sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp, một nhà nước dân chủ, công bằng, theo đúng sự lãnh đạo của Đảng “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực 61Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion của công cuộc đổi mới”††. Về phía đương sự, BĐQBĐ giúp đương sự có quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự , xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật của đương sự, xây dựng và củng cố sự tin tưởng của đương sự vào hoạt động xét xử của tòa án. Cơ sở của việc quy định về bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS xuất phát từ những lý do như từ yêu cầu xây dựng một nhà nước dân chủ, pháp quyền; từ nhu cầu cần phải có sự tương thích giữa pháp luật quốc tế với pháp luật quốc gia, giữa Hiến pháp với luật chuyên ngành, giữa luật nôi dung và luật hình thức, từ nhu cầu cần được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS. 2. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về BĐQBĐ của đương sự 2.1. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã ghi nhận đương sự có địa vị pháp lý như nhau, có quyền và nghĩa vụ tố tụng ngang nhau trong quá trình tố tụng dân sự - Các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc tiếp cận tòa án, yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Quyền này của đương sự được thể hiện qua Điều 4, Điều 8 và nhiều quy định khác của BLTTDS 2015 như đương sự có quyền ngang nhau trong việc đưa ra yêu cầu: nguyên đơn có quyền khởi kiện (Điều 71, Điều 186) thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố (Điều 72, †† Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Điều 200) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập (Điều 73, Điều 201). Ở cấp phúc thẩm, các đương sự đều có quyền kháng cáo như nhau (Điều 271), với thời hạn như nhau (Điều 273) - Các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình trước tòa án. Quyền này được khẳng định qua Điều 6, Điều 91 BLTTDS 2015 với nội dung đương sự có yêu cầu hay đương sự phản đối yêu cầu đều có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình và tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể này sẽ là quyền của chủ thể kia và ngược lại. Tại phiên họp cung cấp chứng cứ trước phiên tòa sơ thẩm các đương sự bình đẳng tiếp cận, công khai chứng cứ. Tại phiên tòa sơ thẩm quyền bình đẳng của đương sự được thể hiện qua Điều 248, Điều 254. Ở thủ tục phúc thẩm, đương sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình qua quy định tại khoản 8 Điều 272, Điều 287 - Các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc tranh tụng tại phiên tòa. Quyền bình đẳng này của đương sự thể hiện qua các quy định tại các Điều 24, Điều 227, Điều 239, Điều 243... Các đương sự đều có quyền bình đẳng tranh tụng trước hoặc tại phiên tòa. Quyền bình đẳng tranh tụng tại tòa án cấp phúc thẩm của đương sự cũng được BLTTDS 2015 quy định khá rõ 62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion qua Điều 294, Điều 299 - Các đương sự có quyền bình đẳng với nhau trong việc thỏa thuận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Quyền này được khẳng định tại Điều 5, Điều 10, Điều 70 BLTTDS 2015, Điều 208, Điều 210 BLTTDS năm 2015. Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc được tham gia phiên hòa giải, trong việc trình bày ý kiến của mình tại phiên hòa giải 2.2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm của tòa án trong việc BĐQBĐ của đương sự - Thứ nhất, BLTTDS 2015 đã quy định tòa án phải có trách nhiệm BĐQBĐ của đương sự trong việc tiếp cận tòa án, yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Điều 4 BLTTDS 2015 đã quy định nguyên tắc tòa án không được từ chối nhận đơn của đương sự tại, sau đó có những quy định khá cụ thể về việc các tòa án phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình trong việc nhận, xử lý và thụ lý đơn yêu cầu của đương sự (Điều 191). Đặc biệt trong trường hợp đơn của đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án khác thì tòa án phải bảo đảm quyền tiếp cận tòa án của đương sự bằng cách chuyển đơn của đương sự đến tòa án có thẩm quyền. Tòa án chỉ được trả lại đơn cho đương sự khi đơn của đương sự rõ ràng thuộc trường hợp bị trả lại theo quy định tại Điều 192 BLTTDS 2015. Ở thủ tục phúc thẩm. Điều 274, Điều 275, Điều 276 quy định khi có đơn kháng cáo của đương sự, tòa án phải có trách nhiệm kiểm tra đơn kháng cáo, xét kháng cáo quá hạn, thông báo cho đương sự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm - Thứ hai, tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Trách nhiệm này được BLTTDS 2015 quy định thành nguyên tắc ngay tại khoản 2 Điều 6 và được quy định cụ thể hơn tại Điều 97, Điều 198, Điều 208, Điều 210.., theo đó thẩm phán phải nêu rõ các chứng cứ cần thiết để đương sự giao nộp; tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định; cho đương sự xem, ghi chép, sao chụp tài liệu; tổ chức phiên cung cấp chứng cứ Trong phiên tòa sơ thẩm, tòa sơ thẩm phải tiệu tập người làm chứng, người giám định (nếu có yêu cầu của đương sự) đến phiên tòa sơ thẩm, công bố tài liệu, chứng cứ, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm do đương sự cung cấp. Ở thủ tục phúc thẩm, trách nhiệm của tòa án phúc thẩm thể hiện qua khoản 2 Điều 287: Tòa phúc thẩm phải đảm bảo việc giao nộp bổ sung đó được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 96 Bộ luật TTDS 2015. - Thứ ba, tòa án có trách nhiệm BĐQBĐ của đương sự trong việc tham gia phiên tòa, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa. Đương sự có quyền bình đẳng trong việc tham gia phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền đó qua quy định tại Điều 225 Điều 227 Điều 228, Điều 247Chủ tọa phiên tòa phải điều khiển tranh tụng giữa các bên đương sự, không được hạn chế thời gian tranh tụng, 63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion phải tạo điều kiện cho đương sự trình bày hết ý kiến của mình. Khi các bên đương sự tranh tụng mà nhận thấy cần phải xác minh thêm, thu thập thêm chứng cứ, tài liệu thì Hội đồng xét xử sơ thẩm phải tạm ngừng phiên tòa. Hội đồng xét xử sơ thẩm cần phải đảm bảo cả cho đương sự trình tự phát biểu khi tranh tụng, được đối đáp với đương sự khác, đặc biệt phải trở lại việc hỏi nếu nhận thấy cần thiết theo quy định tại Điều 263. Tại phiên tòa phúc thẩm, trách nhiệm của tòa án trong việc BĐQBĐ của đương sự thể hiện qua các quy định Điều 294, Điều 301, Điều 338 2.3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ vai trò của Viện kiểm sát trong việc BĐQBĐ của đương sự Vai trò giám sát của VKS nhằm BĐQBĐ của đương sự được Bộ luật TTDS 2015 quy định qua một số điều luật cụ thể như Điều 21, khoản 2 Điều 192, Điều 194, Điều 196. Không chỉ đối với việc trả lại đơn hay thụ lý vụ án mà cả đối với các quyết định tố tụng khác như tạm đình chỉ, đình chỉ hay công nhận sự thỏa thuận của đương sự , các quyết định này đều phải được gửi cho VKS để VKS thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định tại các Điều 214,217 và 212. Ở thủ tục phúc thẩm VKS, vai trò bảo đảm của VKS thể hiện qua Điều 21, Điều 232, Điều 262, Điều 294, Điều 288, 289, 292... Đặc biệt, tại phiên tòa phúc thẩm, để giám sát quyền bình đẳng của đương sự trong việc tham gia phiên tòa phúc thẩm, tranh tụng tại phiên tòa phhúc thẩm thì BLTTDS 2015 đã quy định VKS sẽ trình bày về kháng nghị (nếu có) tại Điều 302, phát biểu về những vấn đề mà người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự hay do chính đương sự đã nêu theo Điều 305, phát biểu ý kiến của VKS về việc tuân theo pháp luật trong quá trình phúc thẩm tại Điều 306 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự 3.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS 2015 để ghi nhận rõ hơn quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS. - Thứ nhất: Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 để khẳng định rõ hơn quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS. Quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS được khẳng định thành một nguyên tắc tại Điều 8 Bộ luật TTDS 2015. Cụ thể hóa quyền này, Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 đã quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Tuy nhiên, để có sự thống nhất với Điều 8 thì quy định mở đầu của Điều 70 nên giữ đúng như Điều 8 trước đó là “Khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Khi tham gia tố tụng đương sự có quyền và nghĩa sau:”. Đương sự bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh, về quyền tranh tụng trong quá trình tòa án giải quyết vụ án dân sự (VADS) nên khoản 9 Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 đã cụ thể hóa sự bình đẳng này: đương sự “có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion người đại diện của họ bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ, trừ những tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có”. Tuy nhiên, sau khi khởi kiện, đương sự khởi kiện có thể thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, vậy nên để đảm bảo hơn quyền bình đẳng của đương sự, khoản 9 Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 cần bổ sung nội dung này và như vậy khoản 9 Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 cần sửa đổi, bổ sung là “có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện của họ bản sao đơn khởi kiện, đơn thay đổi, bổ sung, đơn rút yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ, trừ những tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có”. Mặt khác, để khoản 9 Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 thể hiện rõ hơn sự BĐQBĐ của đương sự trên thực tế thì cần quy định rõ hơn về nghĩa vụ của người cung cấp, giao nộp chứng cứ, tài liệu phải gửi bản sao chứng cứ, tài liệu đó cho các đương sự khác. - Thứ hai: bổ sung điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc dân sự để đương sự trong việc dân sự bình đẳng với đương sự trong VADS. Sau quy định tại Điều 70 Bộ luật TTDS 2015 về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự thì Bộ luật TTDS 2015 có thêm các điều luật là Điều 71, 72, 73 quy định quyền và nghĩa vụ của từng tư cách đương sự trong VADS là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, tiếp theo BLTTDS 2015 lại không quy định về quyền và nghĩa vụ của từng tư cách đương sự trong việc dân sự, vì thế để đương sự trong việc dân sự bình đẳng với đương sự trong VADS thì BLTTDS cần bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của từng đương sự trong việc dân sự. - Thứ ba, bổ sung quy định tại Điều 4 BLTTDS 2015. Mặc dù Điều 4 Bộ luật TTDS 2015 khẳng định quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và tòa án không được từ chối giải quyết yêu cầu của đương sự nhưng lại chưa hề có quy định về chế tài đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cản trở, xâm phạm đến quyền yêu cầu tòa án bảo vệ của đương sự, dẫn đến không thể bảo đảm được quyền yêu cầu tòa án của đương sự như mong muốn. Để các đương sự được bảo đảm hơn quyền tiếp cận tòa án, yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, Điều 4 cần bổ sung thêm khoản 3 quy định về quyền yêu cầu của đương sự đối với những chủ thể có hành vi cản trở, xâm phạm đến quyền tiếp cận tòa án, yêu cầu tòa án bảo vệ của đương sự phải chịu chế tài, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. - Thứ tư, bổ sung quyền đưa ra yêu cầu của bị đơn tại Điều 72 BLTTDS 2015 để bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng giữa bị đơn với các đương sự khác. Khi bị khởi kiện, bị yêu cầu thì để bình đẳng với nguyên đơn, người đưa ra yêu cầu, Bộ luật TTDS 2015 ghi nhận bị đơn có quyền phản đối, phản tố yêu cầu của nguyên đơn tại tại Điều 200 và trước đó là tại Điều 72 Bộ luật TTDS 2015 có ghi nhận thêm quyền “đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án...”. Tuy 65Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nhiên, để đảm bảo cho bị đơn thực hiện được quyền đưa ra yêu cầu độc lập này, Điều 72 Bộ luật TTDS 2015 cần quy định rõ hơn về quyền này của bị đơn hoăc nếu không bổ sung tại khoản 5 Điều 72 Bộ luật TTDS thì cần có hướng dẫn của TAND tối cao về điều kiện để quyền này của bị đơn được tòa án chấp nhận như “yêu cầu độc lập này phải được giải quyết cùng với vụ án đang được giải quyết”.Mặt khác, để có sự thống nhất thì quyền phản tố, quyền yêu cầu độc lập này của bị đơn cũng phải được ghi nhận trong thủ tục phúc thẩm dân sự. 3.2. Sửa đổi, bổ sung quy định của BlTTDS 2015 về trách nhiệm của Tòa án trong việc BĐQBĐ của đương sự trong TTDS. - Thứ nhất: bổ sung nội dung tại khoản 2 Điều 8, Điều 9 để tòa án có trách nhiệm hơn nữa đối với bảo đảm hơn quyền bình đẳng của đương sự trong TTDS Trách nhiệm của tòa án trong việc BĐQBĐ của đương sự trong TTDS đã được BLTTDS 2015 quy định tại khoản 2 Điều 8. Tuy nhiên, với quy định hiện tại thì trách nhiệm của Tòa án mới được quy định một cách chung chung, chưa rõ định hướng cần phải bảo đảm bình đẳng những nội dung gì, chưa cụ thể hóa được Điều 12 Hiến pháp năm 2013. Để cụ thể hơn, trách nhiệm của tòa án tại Điều 8 cần được sửa thành: “2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm không phân biệt đối xử giữa các đương sự về dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Khi xét xử, Tòa án phải xét xử dựa trên nguyên tắc các đương sự bình đẳng với nhau trước pháp luật”. Tương tự như vậy, khoản 2 Điều 9 cũng cần được quy định cụ thể hơn thành “tòa án có trách nhiệm giải thích cho đương sự quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự tự bảo vệ hoặc cho người bảo vệ của đương sự” - Thứ hai, bổ sung quy định tại Điều 214 Bộ luật TTDS 2015 về thời hạn Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS để nâng cao trách nhiệm của Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án. Hiện Điều 214 Bộ luật TTDS 2015 mới chỉ tập trung quy định về những căn cứ để tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà chưa hề có quy định về thời hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án nên dễ dẫn đến tình trạng có những vụ án sẽ bị tạm đình chỉ rất lâu, rất nhiều lần, ảnh hưởng đến quyền lợi của một bên đương sự. Thậm chí, với quy định tại khoản 18 Điều 70 Bộ luật TTDS 2015: đương sự có quyền “Đề nghị tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này” đã dẫn đến cách hiểu cứ một bên đương sự yêu cầu tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án là tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Để khắc phục những bất cập này, Điều 214 Bộ luật TTDS 2015 cần có quy định bổ sung về thời hạn tạm đình chỉ giải quyết VADS do chính Tòa án ấn định. Có như vậy quyền bình đẳng của các bên đương sự mới được bảo đảm trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Điều 214 Bộ 66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion luật TTDS 2015 cần bổ sung quy định sau: “Tòa án có trách nhiệm ấn định thời hạn tạm đình chỉ giải quyết VADS” 3.3. Sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật TTDS 2015 về trách nhiệm của VKS trong việc BĐQBĐ của đương sự trong TTDS. - Cần sửa đổi, bổ sung Điều 21 Bộ luật TTDS 2015. Mặc dù vai trò của VKS trong TTDS là không thể phủ nhận, song cần phải nhận thức rất rõ nguyên tắc bảo đảm sự độc lập xét xử của Tòa án. Để Tòa án được độc lập xét xử thì cần phải hạn chế sự tham gia của VKS tại phiên tòa xét xử, đặc biệt là phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Hiện Điều 21 Bộ luật TTDS 2015 quy định VKS tham gia các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tại khoản 2, khoản 3 và như vậy VKS tham gia khá nhiều vào hoạt động xét xử của Tòa án. Sẽ là phù hợp hơn khi Bộ luật TTDS 2015 hạn chế hơn việc tham gia phiên tòa, phiên họp của VKS, cụ thể là khoản 2 Điều 21 Bộ luật TTDS 2015 chỉ nên quy định “VKS tham gia các phiên tòa sơ thẩm do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTDS 2015”. - Bộ luật TTDS 2015 cần bổ sung quy định về các biện pháp mà VKS được tiến hành để thu thập chứng cứ. Hạn chế sự kiểm sát của VKS tại phiên tòa xét xử, tăng cường sự kiểm sát của VKS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là giải pháp phù hợp để đảm bảo quyền bình đẳng của ‡‡ Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Sđd, tr.253. đương sự trong TTDS. Bởi trong TTDS, hoạt động chứng minh là quan trọng nhất nên để hỗ trợ cho đương sự trong việc chứng minh, cũng như Tòa án, VKS có thể hỗ trợ đương sự bình đẳng với nhau bằng cách thu thập chứng cứ tại giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 đã quy định rõ Tòa án có thể thu thập chứng cứ bằng các biện pháp cụ thể nhưng chưa có quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ mà VKS được tiến hành. VKS cũng là một cơ quan tiến hành TTDS như tòa án nên sẽ là phù hợp nếu Bộ luật TTDS 2015 bổ sung quy định: “Trong trường hợp cần thiết, VKS thu thập tài liệu, chứng cứ bằng các biện pháp được quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015”. - Bộ luật TTDS 2015 cần sửa quy định tại Điều 278 về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp. Trong TTDS đương sự có quyền tự định đoạt.Nếu tòa sơ thẩm tuyên bố bản án, quyết định mà bản án, quyết định đó không bị đương sự kháng cáo thì không có lý do gì VKS lại có quyền kháng nghị.Quy định như Điều 278 Bộ luật TTDS 2015 hiện nay là không hợp lý, “phá vỡ nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng dân sư”‡‡. Vì vậy, Bộ luật TTDS 2015 cần bỏ quy định tại Điều 278, để thống nhất với các quy định về sơ thẩm: VADS chỉ phát sinh từ khởi kiện của đương sự, VKS không được koi tố VADS. Việc lược bỏ đi quyền kháng nghị phúc thẩm dân sự 67Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế§§, bảo đảm hơn quyền bình đẳng của các bên đương sự trong VADS. DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI VIẾT: 1. BĐQBĐ - Bảo đảm quyền bình đẳng 2. PLTTDS - Pháp luật tố tụng dân sự 3. TAND - Tòa án nhân dân 4. TTDS - Tố tụng dân sự 5. VADS - Vụ án dân sự 6. VVDS - Vụ việc dân sự 7. VKS - Viện kiểm sát Tài liệu tham khảo: [1]. Bộ luật TTDS Việt Nam năm 2015 [2]. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 38. §§ Ví dụ Điều 10 Bộ luật TTDS liên quốc gia của UNIDROIT quy định “giải quyết vụ việc theo yêu cầu của các bên đương sự”. [3]. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nhà xuất bản Trường Thi Sài Gòn, trang 42. [4]. cuu-trao-đoi.aspx?ItemID=1762#_ftn5 [5]. Nguyễn Quang Hiền (2004), “Pháp luật – phương tiện quan trọng bảo vệ quyền con người”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2004. [6]. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Sđd, tr.253. [7]. Ví dụ Điều 10 Bộ luật TTDS liên quốc gia của UNIDROIT quy định “giải quyết vụ việc theo yêu cầu của các bên đương sự”. Địa chỉ tác giả: Khoa Luật, Trường ĐH Mở Hà Nội Email: hangdt@hou.edu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_dam_quyen_binh_dang_cua_duong_su_nham_tiep_tuc_day_manh.pdf
Tài liệu liên quan