Một số kiến nghị
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi
cho rằng, để bảo vệ, bảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền công dân trong trình trạng
khẩn cấp thì cần thực hiện một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp
của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần ban hành Luật Tình trạng
khẩn cấp thay thế cho Pháp lệnh Tình trạng
khẩn cấp để bảo đảm tính hợp hiến của
những hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong tình trạng khẩn cấp. Luật Tình
trạng khẩn cấp cần quy định đầy đủ các vấn
đề liên quan, nhất là việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân hoặc hạn chế quyền
con người, quyền công dân khi cần thiết
trong tình trạng khẩn cấp phù hợp với yêu
cầu của Hến pháp năm 2013.
Thứ hai, cần bổ sung quy định về các
biện pháp khẩn cấp trong Luật Ngân sách
nhà nước năm 2015, Luật Dự trữ quốc gia
năm 2012, bổ sung thẩm quyền của các cơ
quan hữu quan trong việc huy động nguồn
lực từ ngân sách nhà nước, từ quỹ dự trữ
quốc gia để thực hiện các biện pháp áp dụng
trong tình trạng khẩn cấp.
Thứ ba, sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương, bổ
sung quy định về thẩm quyền của Chính phủ,
chính quyền địa phương trong tình trạng
khẩn cấp làm cơ sở bảo đảm sự thống nhất
chung cho những quy định về thẩm quyền
của Chính phủ, chính quyền địa phương
trong các văn bản luật chuyên ngành
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tình trạng
khẩn cấp theo quy định của pháp luật Việt nam1
Vũ Hồng Anh*
Nguyễn Thị Thủy**
* PGS.TS. Tap Chí Nghiên cứu lập pháp.
**TS. Học viện Chính trị Quốc gia Khu vực II.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tình trạng khẩn cấp; bảo đảm
quyền con người, quyền công dân.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 02/5/2020
Biên tập : 17/5/2020
Duyệt bài : 19/5/2020
Article Infomation:
Keywords: Emergency; assurance of
the human rights and citizens’ rights
Article History:
Received : 02 May. 2020
Edited : 17 May. 2020
Approved : 19 May. 2020
Tóm tắt:
Tình trạng khẩn cấp là tình huống xảy ra khi thảm họa lớn do thiên
nhiên, con người gây ra, khi dịch bệnh lây lan trên diện rộng vượt
quá khả năng ứng phó của chính quyền, đe dọa nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của Nhà nước và
của tổ chức khác. Khi áp dụng tình trạng khẩn cấp tất yếu sẽ dẫn
đến việc hạn chế quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân, trong nhiều
trường hợp còn dẫn đến việc hạn chế quyền trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế-xã hội. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi phân tích
thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp và đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Abstract:
An emergency is a situation caused by major disasters by nature
or human, by an epidemic spreading out beyond a state’s coping
capacity, seriously threatening human health, life and property of
individuals, property of the state and of other entities. Emergency
situations may occur in one or more localities or nationwide.
Declaration of an emergency will inevitably lead to the restriction
of right of democratic freedom and personal freedom, in several
cases declaration of an emergency also leads to the restriction of
rights in politics and in socio-economics. We, under this article,
provide analysis of the current legal provisions of Vietnamese laws
on assurance of the human rights and citizens’ rights in emergency
and also the proposed recommendations for further improvements.
1 Bài viết này có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2019-2020: “Quyền
con người, quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do GS.TS. Phan
Trung Lý làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu lập pháp là cơ quan chủ trì.
Số 10 (410) - T5/20204
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về
bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong tình trạng khẩn cấp
Tình trạng khẩn cấp là tình huống xảy ra
khi thảm họa lớn do thiên nhiên, con người
gây ra, khi dịch bệnh lây lan trên diện rộng
vượt quá khả năng ứng phó của chính quyền,
đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của nhà
nước và của tổ chức khác. Tình trạng khẩn
cấp có thể diễn ra trên một hoặc nhiều địa
phương hay trên phạm vi cả nước. Khi áp
dụng tình trạng khẩn cấp tất yếu sẽ dẫn đến
việc hạn chế quyền tự do dân chủ, tự do cá
nhân, trong nhiều trường hợp còn dẫn đến
việc hạn chế quyền trong lĩnh vực chính trị,
kinh tế-xã hội.
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của
Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định:
“Trong khi thực hiện những quyền tự do của
mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do
luật pháp đặt ra để những quyền tự do của
người khác cũng được thừa nhận và tôn
trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý,
trật tự công cộng và an toàn chung trong một
xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”
(Điều 29).
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng”.
Như vậy, bên cạnh việc khẳng định công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, Hiến pháp cũng trù
liệu khả năng hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong một số trường hợp
nhất định liên quan đến quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng.
Nguyên tắc hạn chế quyền đã được cụ
thể hóa bằng các quy định của pháp luật về
tình trạng khẩn cấp, Luật An ninh quốc gia
năm 2004, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007,
Luật Thú y năm 2015, Luật Trưng mua,
trựng dụng tài sản năm 2008 và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Có thể chia các quy định liên quan đến
quyền con người, quyền công dân trong tình
trạng khẩn cấp thành 3 nhóm sau: nhóm quy
định về điều kiện ban bố tình trạng khẩn cấp;
nhóm quy định về các quyền con người,
quyền công dân bị hạn chế trong tình trạng
khẩn cấp; nhóm quy định các biện pháp bảo
đảm quyền con người, quyền công dân trong
tình trạng khẩn cấp.
- Nhóm quy phạm quy định về điều kiện
ban bố tình trạng khẩn cấp
Theo quy định của Điều 1 Pháp lệnh
Tình trạng khẩn cấp năm 2000, tình trạng
khẩn cấp được ban bố khi trong cả nước, một
hoặc nhiều địa phương có thảm họa lớn do
thiên nhiên hoặc con người gây ra, có dịch
bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô rộng, đe
dọa nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước
và của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, tài sản
của Nhân dân hoặc có tình hình đe dọa
nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội, thì Ủy ban thường vụ Quốc
hội hoặc Chủ tịch nước ban bố tình trạng
khẩn cấp để áp dụng các biện pháp đặc biệt
nhằm kịp thời ngăn chặn, hạn chế và khắc
phục hậu quả xảy ra, nhanh chóng ổn định
tình hình.
Các văn bản luật chuyên ngành xác định
cụ thể những điều kiện ban bố tình trạng
khẩn cấp đều viện dẫn pháp luật về tình
trạng khẩn cấp, cụ thể: Luật Quốc phòng xác
định điều kiện khi có nguy cơ trực tiếp bị
xâm lược hoặc đã xảy ra hành vi xâm lược
hoặc bạo loạn có vũ trang nhưng chưa đến
mức tuyên bố tình trạng chiến tranh (khoản
10 Điều 2); Luật Phòng, chống dịch bệnh
truyền nhiễm xác định điều kiện khi dịch lây
lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và
kinh tế - xã hội của đất nước thì phải ban bố
tình trạng khẩn cấp (khoản 1 Điều 42); Luật
Thú y xác định điều kiện trường hợp dịch
bệnh động vật lây lan nhanh trên diện rộng,
đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe con người hoặc gây thiệt hại nghiêm
trọng về kinh tế - xã hội (khoản 6 Điều 28)
- Nhóm quy phạm quy định quyền con
người, quyền công dân bị hạn chế trong tình
trạng khẩn cấp
Điều 6, Điều 7, Điều 8 Pháp lệnh Tình
trạng khẩn cấp năm 2000 quy định những
biện pháp hạn chế quyền con người, quyền
công dân sau đây:
+ Cấm người, phương tiện ra, vào trên
địa bàn, khu vực nhất định;
+ Cấm người, phương tiện hoạt động
trong thời gian nhất định;
+ Trưng dụng phương tiện, tài sản của
tổ chức, cá nhân;
+ Đóng cửa nhà hát, rạp chiếu bóng và
các nơi sinh hoạt công cộng khác;
+ Cấm bãi công, bãi khóa, bãi thị;
+ Cấm, giải tán các cuộc biểu tình, các
cuộc tụ tập đông người và những hoạt động
của cá nhân, tổ chức;
+ Đình chỉ hoạt động giao thông đường
bộ, đường không, đường sắt, đường thủy;
+ Hạn chế xuất, nhập cảnh, quá cảnh;
tạm dừng việc xuất cảnh, nhập cảnh đối với
một số trường hợp đã được cấp thị thực;
+ Kiểm soát phương tiện thông tin đại
chúng; kiểm duyệt xuất bản; đình chỉ việc
xuất bản;
+ Áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt
đối với việc sử dụng các phương tiện liên
lạc.
Bên cạnh đó, các văn bản luật chuyên
ngành quy định bổ sung một số biện pháp
hạn chế quyền con người, quyền công dân
khác trong tình trạng khẩn cấp, cụ thể, Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiềm quy định
biện pháp sau:
+ Cách ly y tế (Điều 43);
+ Tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch
vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây
truyền bệnh dịch tại vùng có dịch (điểm a
khoản 1 Điều 52);
+ Cấm kinh doanh, sử dụng loại thực
phẩm được cơ quan y tế có thẩm quyền xác
định là trung gian truyền bệnh dịch (điểm b
khoản 1 Điều 52);
+ Cấm đưa ra khỏi vùng có dịch những
vật phẩm, động vật, thực vật, thực phẩm và
hàng hóa khác có khả năng lây truyền bệnh
dịch (điểm b khoản 1 Điều 53);
+ Tiêu hủy động vật, thực phẩm và các
vật khác có nguy cơ làm lây lan bệnh dịch
sang người (điểm g khoản 2 Điều 54).
Luật Thú y quy định biện pháp tiêu hủy,
giết mổ bắt buộc đối với động vật nhiễm
bệnh (khoản 1 Điều 30).
Ngoài ra, Nghị định số 71/2002/NĐ-CP
ngày 23/7/2002 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Tình
trạng khẩn cấp trong trường hợp có thẩm họa
lớn, dịch bệnh nguy hiểm cũng quy định bổ
sung một số hạn chế quyền con người, quyền
công dân so với Pháp lệnh. Cụ thể:
+ Tạm đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ khi cần thiết (điểm đ
khoản 1 Điều 14).
5Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Nhóm quy phạm quy định các biện
pháp bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong tình trạng khẩn cấp
Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm
2000 quy định những biện pháp bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong tình
trạng khẩn cấp sau đây:
+ Người bị bắt hoặc bị tạm giữ theo quy
định của pháp luật phải được xử lý theo thủ
tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục xử lý vi
phạm hành chính (khoản 1 Điều 14);
+ Người bị bắt và bị xử phạt hành chính
do vi phạm quy định về cấm đi lại, nếu có
giấy tờ tùy thân hợp lệ thì được trả tự do
ngay sau khi hết thời gian cấm đi lại; trong
trường hợp người bị bắt không có giấy tờ tùy
thân thì bị tạm giữ cho đến khi xác minh
được về nhân thân của người đó nhưng
không quá bảy mươi hai giờ (điểm c khoản
2 Điều 14);
+ Người bị bắt, giam, giữ trái pháp luật
hoặc bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật
khác của người có thẩm quyền gây ra được
khôi phục danh dự, quyền lợi và được bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
(khoản 1 Điều 19);
+ Cơ quan đã trưng dụng phương tiện,
tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
trả ngay phương tiện, tài sản đó cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý, sử dụng hợp pháp.
Trong trường hợp phương tiện, tài sản bị mất
mát hoặc hư hỏng thì cơ quan đã trưng dụng
có trách nhiệm bồi thường theo quy định của
pháp luật (khoản 2 Điều 19).
Luật Thú y cũng quy định Nhà nước hỗ
trợ việc tiêu hủy, giết mổ bắt buộc động vật
mắc bệnh, có dấu hiệu mắc bệnh và sản
phẩm động vật mang mầm bệnh thuộc Danh
mục bệnh động vật phải công bố dịch,
(khoản 3 Điều 30).
2. Nhận xét về quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp
Qua nghiên cứu quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp có
thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, có thể nói rằng, toàn bộ hệ
thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp là
nhằm trù liệu các biện pháp bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong tình
trạng khi ở một hay nhiều địa phương hoặc
trên cả nước diễn ra thảm họa do thiên nhiên
hoặc con người gây ra hoặc do dịch bệnh lây
lan trên diện rộng đe dọa đến tính mạng, sức
khỏe, tài sản của cá nhân.
Thứ hai, để bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, pháp luật về tình trạng khẩn
cấp hiện hành trù liệu một số hạn chế quyền
con người, quyền công dân. Các hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong trình
trạng khẩn cấp liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau:
- Lĩnh vực tự do dân chủ, tự do cá nhân:
bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do
đi lại, quyền được ra nước ngoài và từ nước
ngoài trở về; quyền tự do cư trú; quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí; quyền hội họp, lập
hội, biểu tình.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội: quyền hưởng
thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia
vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn
hóa.
- Lĩnh vực kinh tế: quyền làm việc,
quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu.
Thứ ba, bên cạnh quy định hạn chế quyền
con người, quyền công dân, pháp luật về tình
trạng khẩn cấp thiết lập các biện pháp bảo
đảm quyền con người, quyền công dân. Các
biện pháp thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Số 10 (410) - T5/20206
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Một là, pháp luật về tình trạng khẩn cấp
xác định cụ thể điều kiện ban bố tình trạng
khẩn cấp. Các điều kiện này bảo đảm phù
hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013
về nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân.
Hai là, pháp luật về tình trạng khẩn cấp
quy định một số biện pháp bảo đảm, khôi
phục quyền con người, quyền công dân
trong và sau thời gian diễn ra tình trạng khẩn
cấp. Đó là quy định về quyền của người bị
bắt giữ, tạm giữ theo quy định của pháp luật
trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp
phải được xử lý theo thủ tục tố tụng hình sự
hoặc thủ tục xử lý vi phạm hành chính;
quyền của người bị bắt, giam, giữ trái pháp
luật hoặc bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật
khác của người có thẩm quyền gây ra được
khôi phục danh dự, quyền lợi và được bồi
thường thiệt hại; quyền của người bị trưng
dụng phương tiện, tài sản được hoàn trả
phương tiện, tài sản, trong trường hợp
phương tiện, tài sản bị mất mát hoặc hư hỏng
thì cơ quan đã trưng dụng có trách nhiệm bồi
thường theo quy định của pháp luật; quyền
của chủ sở hữu động vật mắc bệnh hoặc có
dấu hiệu mắc bệnh và sản phẩm động vật
mang mầm bệnh bị bắt buộc tiêu hủy, giết
mổ được Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Ba là, pháp luật về tình trạng khẩn cấp
quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, tổ chức, đơn vị trong thi hành nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc
lệnh của Chủ tịch nước về ban bố tình trạng
khẩn cấp; quy định trách nhiệm của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội trong giám sát việc
tuân theo pháp luật trong việc thi hành nghị
quyết hoặc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Những biện pháp nêu trên chính là
những bảo đảm quan trọng đối với quyền
con người, quyền công dân trong thời gian
diễn ra tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, pháp luật về tình trạng khẩn cấp của
Việt Nam hiện nay còn bộc lộ một số hạn
chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp
năm 2000 được ban hành trên cơ sở Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001); khi đó, Hiến pháp chưa xác định
nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế bằng quy định
của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng. Việc Hiến pháp năm 2013 bổ sung
nguyên tắc này đòi hỏi cần ban hành Luật
Tình trạng khẩn cấp thay thế cho Pháp lệnh
Tình trạng khẩn cấp để bảo đảm các quy
định về vấn đề này phù hợp với yêu cầu của
Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, trong pháp luật tình trạng khẩn
cấp, nội dung quy định các hạn chế quyền
con người, quyền công dân chưa thật đầy
đủ. Thực tế cho thấy, trong thời gian diễn ra
tình trạng khẩn cấp, một số quyền con
người, quyền công dân có thể bị hạn chế
nhưng chưa được pháp luật về tình trạng
khẩn cấp trù liệu. Đó là các quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền bầu cử, ứng cử;
quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân; quyền bảo đảm an sinh xã
hội; quyền học tập.
Trong đợt bùng phát đại dịch Covid 19,
hầu như tất cả các nước trên thế giới, trong
đó có Việt Nam đều áp dụng biện pháp giãn
cách xã hội ở các mức độ khác nhau, trong
đó có các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
7Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hóa, xã hội gần như bị đóng băng. Các biện
pháp giãn cách được đưa ra là: các nhà máy,
công xưởng, trường học, nhà thờ, nhà chùa,
các khu du lịch, danh lam thắng cảnh, khu
vui chơi giải trí tạm ngừng hoạt động; các
hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch tạm đình
chỉ; các sự kiện tập trung đồng người, các
cuộc hội họp, hội thảo tạm hoãn tổ chức
(hoặc thay đổi hình thức từ trực tiếp sang
trực tuyến); hoạt động giao thông công cộng,
hoạt động xuất, nhập cảnh bị hạn chế tối đa.
Các biện pháp này ảnh hưởng đến toàn
bộ đời sống kinh tế-xã hội của đất nước, làm
cho một bộ phận không nhỏ người lao động
mất việc làm và dĩ nhiên tác động mạnh mẽ
đến việc bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực. Tuy
nhiên, đây là những biện pháp tối cần thiết.
Với việc tổ chức thực hiện kịp thời các biện
pháp này dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn, quyết liệt của Đảng, Chỉnh phủ, với sự
ủng hộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các cấp, các ngành, chúng ta đã vững vàng
vượt qua đại dịch Covid-19.
Thứ ba, do pháp luật về tình trạng khẩn
cấp chưa trù liệu được hết phạm vi quyền
con người, quyền công dân có thể hoặc cần
bị hạn chế trong thời gian diễn ra tình trạng
khẩn cấp nên các biện pháp bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong tình
trạng khẩn cấp chưa được pháp luật xác định
đầy đủ, đặc biệt là các biện pháp về kinh tế,
an sinh xã hội. Ngoài các biện pháp bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo
đảm quyền sở hữu như đã nêu ở trên, khoản
1 Điều 10 Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp
quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp tại địa
bàn có tình trạng khẩn cấp và các cơ quan
nhà nước có liên quan khác có trách nhiệm
áp dụng các biện pháp cần thiết để giúp đỡ
nhân dân nhanh chóng ổn định đời sống,
phục hồi sản xuất”. Nhưng, đó là những biện
pháp gì? Phạm vi và mức độ đến đâu thì
chưa được quy định cụ thể. Đó cũng chính
là một trong những nguyên nhân dẫn đến
lúng túng trong một số trường hợp trong
hoạt động phòng, chống đại dịch vừa qua.
3. Một số kiến nghị
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi
cho rằng, để bảo vệ, bảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền công dân trong trình trạng
khẩn cấp thì cần thực hiện một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp
của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần ban hành Luật Tình trạng
khẩn cấp thay thế cho Pháp lệnh Tình trạng
khẩn cấp để bảo đảm tính hợp hiến của
những hạn chế quyền con người, quyền công
dân trong tình trạng khẩn cấp. Luật Tình
trạng khẩn cấp cần quy định đầy đủ các vấn
đề liên quan, nhất là việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân hoặc hạn chế quyền
con người, quyền công dân khi cần thiết
trong tình trạng khẩn cấp phù hợp với yêu
cầu của Hến pháp năm 2013.
Thứ hai, cần bổ sung quy định về các
biện pháp khẩn cấp trong Luật Ngân sách
nhà nước năm 2015, Luật Dự trữ quốc gia
năm 2012, bổ sung thẩm quyền của các cơ
quan hữu quan trong việc huy động nguồn
lực từ ngân sách nhà nước, từ quỹ dự trữ
quốc gia để thực hiện các biện pháp áp dụng
trong tình trạng khẩn cấp.
Thứ ba, sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương, bổ
sung quy định về thẩm quyền của Chính phủ,
chính quyền địa phương trong tình trạng
khẩn cấp làm cơ sở bảo đảm sự thống nhất
chung cho những quy định về thẩm quyền
của Chính phủ, chính quyền địa phương
trong các văn bản luật chuyên ngành n
Số 10 (410) - T5/20208
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_con_nguoi_quyen_cong_dan_trong_tinh_trang_khan.pdf