Một số kiến nghị
Cần sớm phê chuẩn Công ước 159
nhưng để quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật được bảo đảm bền vững,
cần phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về lao động và việc
làm, thực hiện đồng bộ các biện pháp, trong
đó nên chú trọng những vấn đề sau:
- Bảo đảm sự bình đẳng trong tiếp cận
quyền lao động và việc làm cho mọi công
dân, không phân biệt đối xử vì lý do khuyết
tật, bảo đảm điều kiện lao động có tính phổ
cập cho cả người khuyết tật và người không
khuyết tật.
- Cụ thể hoá quy định về lao động là
người khuyết tật trong Bộ luật Lao động,
hoàn thiện các quy định về chống phân biệt
đối xử với người khuyết tật; tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật,
áp dụng nghiêm các chế tài; quy định hợp
lý để thực sự khuyến khích người SDLĐ
trong việc SDLĐ là người khuyết tật; đề cao
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, người
SDLĐ nói chung trong việc bảo đảm việc
làm đối với người khuyết tật.
- Cùng với sự tôn trọng các quy luật
của thị trường lao động, Nhà nước cần kiến
tạo được chính sách trợ giúp có hiệu quả
để phục hồi chức năng lao động cho người
khuyết tật giúp họ tiếp cận, thực hiện được
quyền lao động và việc làm của mình một
cách bình đẳng, để họ có thể khẳng định
được vai trò của mình và hoà nhập vào cộng
đồng xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả chính sách xã hội hoá việc bảo đảm
quyền lao động và việc làm đối với người
khuyết tật, tạo điều kiện thuận lợi để các
thành phần kinh tế, các đơn vị, tổ chức, cá
nhân phát huy tiềm năng, sáng kiến, tạo ra
nhiều việc làm cho NLĐ nói chung và người
khuyết tật nói riêng.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam và việc gia nhập công ước 159 của ILO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thái Dương*
* TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Tóm tắt:
Bài viết phân tích khái niệm về quyền lao động và việc làm,
bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật;
chính sách và việc thực hiện chính sách bảo đảm quyền lao
động và việc làm của người khuyết tật; việc gia nhập Công ước
159 (Công ước về Phục hồi chức năng lao động và Việc làm
của người khuyết tật) của Tổ chức Lao động quốc tế; nêu một
số ý kiến đề xuất, kiến nghị bảo đảm quyền lao động và việc
làm của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
Abstract:
This article provides the analysis of the concept of the
right to work and employment, the assurance of rights
to work and employment of disabled persons; the policy
and implementation of policies to ensure the right to
work and employment of disabled persons; accession to
the Convention of the International Labor Organization’s
Convention No. 159 (the Vocational Rehabilitation and
Employment (Disabled Persons) Convention); some
suggestions and recommendations to ensure the right
to work and employment of people with disabilities in
Vietnam today.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: bảo đảm quyền; ILO, lao động việc
làm; người khuyết tật; Công ước 159
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/12/2017
Biên tập: 20/12/2017
Duyệt bài: 25/12/2017
Article Infomation:
Keywords: right assurance; ILO,
employment; disabled persons; Convention
No. 159
Article History:
Received: 03 Dec. 2017
Edited: 20 Dec. 2017
Appproved: 25 Dec. 2017
BẢO ĐẢM QUYỀN LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
VÀ VIỆC GIA NHẬP CÔNG ƯỚC 159 CỦA ILO
1. Khái niệm quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật, bảo đảm quyền lao
động và việc làm của người khuyết tật
Lao động là hoạt động sáng tạo nên
các giá trị vật chất và tinh thần để thoả mãn
các nhu cầu của con người. Lao động cũng
tạo nên các giá trị, phẩm giá cho con người.
Lao động gắn chặt với việc làm, được thực
hiện thông qua việc làm - công việc theo
ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn nhất định
và có tính ổn định lâu dài. Do vậy, lao động
và việc làm đã trở thành nhu cầu tất yếu, có
tính thống nhất và có ý nghĩa quyết định đối
với cuộc sống, địa vị xã hội của tất cả mọi
người. Về mặt thuật ngữ và định nghĩa khái
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 02(354) T01/2018
niệm, hiện chưa có tài liệu nào đề cập khái
niệm quyền lao động và việc làm. Có những
tác giả gọi quyền này là “quyền lao động”,
“quyền được làm việc” hoặc “quyền có việc
làm”1. Chúng tôi cho rằng, nên gọi đây là
“quyền lao động và việc làm” (cũng có thể
gọi là quyền lao động việc làm) thì mới
thể hiện được đầy đủ, trọn vẹn nội dung, ý
nghĩa, vai trò của quyền như đã phân tích
trên. Quyền lao động và việc làm là quyền
thiêng liêng, cao quý của con người, đã
được cộng đồng quốc tế và các quốc gia
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Đối với người khuyết tật, quyền lao động
và việc làm lại càng có ý nghĩa quan trọng
hơn, bởi lẽ nếu quyền này được tôn trọng
và bảo đảm thì mới tạo ra cơ hội thực tế để
người khuyết tật có thể tiếp cận, hoà nhập,
bình đẳng với mọi người trong cộng đồng
xã hội. Việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật phải được thực hiện theo
nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt đối xử, đồng thời
có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý đối với người
khuyết tật.
Quyền lao động và việc làm là tổ hợp
các quyền được được ghi nhận trong pháp
luật quốc tế về quyền con người, đặc biệt
1 Vũ Hương Liên, Quyền lao động trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Luận văn ThS, Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội, 2007. Nguồn: https://sachviet.edu.vn/threads/quyen-lao-dong-trong-phap-luat-quoc-te-va-phap-luat-
viet-nam.41317; truy cập 28/11/2017.
Trần Thị Tuyết Nhung, Quyền có việc làm của NLĐ - tiếp cận dưới góc độ quyền con người, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật. Nguồn: truy cập 28/11/2017.
Nguyễn Thị Quế, Quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam, Luận văn ThS, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội, 2015. pdf. Nguồn: repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/2302/1/00050004789.pdf, truy cập 28/11/2017.
2 “Quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp” (khoản 1 Điều 23 Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm
1948), “quyền làm việc” (khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966). Quyền
làm việc cũng được khẳng định, nhấn mạnh tại mục 27 (1) trong Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN năm 2012.
3 Điều 27 Công ước về Quyền của người khuyết tật ghi nhận, nhấn mạnh quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực “lao
động và việc làm”. Chính vì vậy có thể gọi đây là quyền lao động và việc làm của người khuyết tật.
4 Hiến pháp năm 1959 ghi nhận công dân có “quyền làm việc” (Điều 30). Theo Hiến pháp năm 1980, lao động là quyền,
nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân, công dân có “quyền có việc làm” (Điều 58). Hiến pháp năm 1992 quy
định lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân, Nhà nước và xã hội có kế hoach tạo ngày càng nhiều việc làm cho
NLĐ (Điều 55). Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi
làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế
độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”
(Điều 35). Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước trong việc ban hành và thực thi
chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật (khoản 2 Điều 59).
là Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền
năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 của
Liên hiệp quốc và một số công ước của Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO)2. Quyền lao
động và việc làm của người khuyết tật cũng
tiếp tục được nhấn mạnh trong Công ước về
Quyền của người khuyết tật năm 2006 (Điều
27)3. Ở Việt Nam, quyền lao động và việc
làm của công dân đều được các bản Hiến
pháp ghi nhận4 . Đồng thời, trên nguyên
tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử, để
cụ thể hoá Hiến pháp, bên cạnh quyền lao
động và việc làm của mọi công dân, Bộ luật
Lao động có những quy định thể hiện sự tôn
trọng, bảo đảm quyền lao động và việc làm
đối với người khuyết tật - nhóm lớn nhất
trong số các nhóm dễ bị tổn thương.
Bảo đảm quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật là việc thực hiện trách
nhiệm của Nhà nước, xã hội nhằm tạo ra các
điều kiện phù hợp để người khuyết tật có
cơ hội tiếp cận, hưởng thụ quyền lao động
và việc làm của mình một cách bình đẳng,
không bị phân biệt đối xử. Với ý nghĩa như
vậy, bảo đảm quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật bao hàm sự bảo đảm
cả về mặt thể chế (xây dựng, ban hành chính
sách, pháp luật - bảo đảm pháp lý) và bảo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 02(354) T01/2018
đảm về mặt thực tế (thực hiện chính sách,
pháp luật).
2. Chính sách và việc thực hiện chính sách
bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Cùng với Luật Người khuyết tật, Bộ
luật Lao động, Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như
Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Việc làm,
Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường
bộ, Luật Bảo hiểm y tế, Luật An toàn, vệ
sinh lao động... ghi nhận, bảo đảm quyền
lao động và việc làm của người khuyết tật.
Nhà nước cũng đã triển khai những đề án,
kế hoạch nhằm trợ giúp người khuyết tật
trong tiếp cận việc làm. Có thể kể đến một
số văn bản quan trọng như Đề án đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020
(được phê duyệt theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009; Đề án trợ giúp người khuyết
tật giai đoạn 2012 - 2020 (được phê duyệt
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
số 1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012); Chỉ thị
của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số
3930/BLĐTBXH-TCDN ngày 21/10/2014
về nâng cao hiệu quả và chất lượng trong
thực hiện mục tiêu dạy nghề và tạo việc làm
cho người khuyết tật v.v..
Trên cơ sở sự ghi nhận của pháp luật
về quyền lao động và việc làm của người
khuyết tật, Nhà nước bảo trợ quyền lao
động, tự tạo việc làm của người khuyết tật,
khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao
động (SDLĐ) tạo ra việc làm và nhận người
lao động (NLĐ) khuyết tật vào làm việc.
Giải quyết việc làm cho người khuyết tật
không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà
là của toàn xã hội. Pháp luật quy định các
cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân không được từ chối tuyển dụng người
khuyết tật có đủ điều kiện vào làm việc hoặc
5 Điều 10 Nghị định của Chính phủ số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Người khuyết tật.
hạn chế cơ hội làm việc của họ bằng cách đặt
ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái pháp luật. Cơ
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
SDLĐ là người khuyết tật có trách nhiệm bố
trí, sắp xếp công việc, đảm bảo môi trường
và điều kiện làm việc phù hợp đối với người
khuyết tật. Người SDLĐ phải tham khảo ý
kiến lao động là người khuyết tật khi quyết
định những vấn đề liên quan đến quyền và
lợi ích của họ. Tổ chức giới thiệu việc làm có
trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm cho
người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản
xuất kinh doanh sử dụng từ 30% trở lên tổng
số lao động là người khuyết tật được hỗ trợ
cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù
hợp, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp,
được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án
phát triển sản xuất, kinh doanh; được ưu tiên
cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn,
giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục
vụ sản xuất kinh doanh theo tỷ lệ lao động
là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của
NLĐ và quy mô doanh nghiệp. Quỹ việc làm
cho người khuyết tật được thành lập để cấp
hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh
nhận người khuyết tật làm việc, điều kiện
vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi
suất vay thực hiện theo quy định hiện hành
áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc
làm. Pháp luật còn quy định doanh nghiệp
có sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc
ổn định sẽ được hưởng ưu đãi về cải tạo điều
kiện, môi trường làm việc; ưu đãi về vay vốn
ưu đãi theo dự án phát triển kinh doanh từ
ngân hàng chính sách xã hội. Các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ
10 người khuyết tật làm việc ổn định được
hưởng chính sách về cải tạo điều kiện, môi
trường làm việc5.
Khi tham gia vào quan hệ lao động,
người khuyết tật cũng có các quyền, nghĩa
vụ như mọi người trong tất cả các lĩnh vực.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 02(354) T01/2018
Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất đặc thù của
lao động là người khuyết tật, pháp luật quy
định NLĐ là người khuyết tật có đủ 12 tháng
làm việc cho một người SDLĐ thì được nghỉ
14 ngày làm việc (12 ngày làm việc đối với
lao động không khuyết tật)6. Họ không phải
làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh
mục công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội quy định. Người khuyết tật bị suy giảm
khả năng lao động từ 51% trở lên không phải
làm thêm giờ, làm việc ban đêm. Ngoài ra,
hàng năm người SDLĐ phải tổ chức khám
sức khỏe định kỳ cho NLĐ là người khuyết
tật ít nhất 6 tháng một lần.
Trên thực tế hiện nay, việc bảo đảm
quyền lao động và việc làm của người
khuyết tật tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng
do những nguyên nhân khác nhau mà tình
trạng người khuyết tật không có việc làm
vẫn còn phổ biến7, phân biệt đối xử với
lao động là người khuyết tật vẫn còn diễn
ra ở nhiều nơi. Phần lớn công việc của lao
động là người khuyết tật đang đảm nhiệm
là những vị trí không thuộc diện chính thức
của thị trường lao động, không đòi hỏi trình
độ chuyên môn, tay nghề cao, có thu nhập
thấp, khó đảm bảo cuộc sống, ít hoặc không
có cơ hội thăng tiến. Chính sách pháp luật
bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật vẫn còn những điểm chưa
thực sự hợp lý. Chẳng hạn, đơn vị sử dụng
ổn định từ 10 lao động là người khuyết tật
trở lên được hỗ trợ, còn đơn vị SDLĐ là
người khuyết tật làm việc ổn định dưới con
số đó lại không được hưởng bất kỳ sự ưu
đãi nào. Khoảng cách giữa 10 lao động là
6 Khoản 1 Điều 111 Bộ luật Lao động năm 2012.
7 Nguyễn Quốc Anh, Thực trạng người khuyết tật và kết quả chăm sóc người khuyết tật,
nguồn: truy cập
26/11/2017.
8 Trần Thuý Lâm, Việc làm đối với người khuyết tật – từ pháp luật đến thực tiễn thực hiện, Đặc san “Pháp luật người
khuyết tật” của Tạp chí Luật học, tháng 10/2013, tr.68.
9 Xuân Bách (2009), Dự án Luật người khuyết tật mang đậm tính nhân văn, Báo Nhân dân điện tử. Nguồn:
nhandan.com.vn/chinhtri/item/18199302-.html truy cập 3/12/2017.
người khuyết tật và 30% tổng số lao động là
người khuyết tật quá xa trong một số trường
hợp. Có doanh nghiệp sử dụng số lượng lớn
lao động là người khuyết tật nhưng chưa đạt
tỷ lệ 30% không được hưởng chính sách ưu
đãi, trong khi đó có doanh nghiệp SDLĐ là
người khuyết tật ít hơn nhưng do tổng số lao
động trong doanh nghiệp ít nên vẫn chiểm tỷ
lệ 30% thì lại được hưởng chính sách ưu đãi.
Điều này sẽ thiếu công bằng đối với các cơ
sở, doanh nghiệp, đơn vị và không khuyến
khích được người SDLĐ trong việc SDLĐ
là người khuyết tật. Một số quy định mang
tính hỗ trợ, ưu đãi đối với người khuyết tật
có thể gây phản tác dụng, tạo nên rào cản đối
với chính người khuyết tật. Những quy định
riêng biệt đối với lao động là người khuyết
tật làm cho người SDLĐ có xu hướng tâm lý
né tránh SDLĐ là người khuyết tật8.
Theo khảo sát của cơ quan chức năng
về tình trạng người khuyết tật, tính ở thời
điểm năm 2009 - 2010, khi Việt Nam đang
xây dựng, ban hành Luật Người khuyết tật
và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật Người khuyết tật, có tới
79,13% số người khuyết tật ở độ tuổi lao
động không có khả năng tham gia lao động
và phải sống dựa vào gia đình, người thân;
88,94% số người khuyết tật từ 16 tuổi trở
lên chưa được đào tạo nghề; 34,4% số người
khuyết tật trên 6 tuổi chưa biết chữ; 21,24%
chưa tốt nghiệp tiểu học9. Năm 2011, theo
báo cáo nghiên cứu khảo sát của ILO về đào
tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật ở
Việt Nam thì các con số tương ứng còn cao
hơn, cụ thể: tỷ lệ người khuyết tật không có
trình độ chuyên môn là 93,4%; tỷ lệ người
khuyết tật trên 6 tuổi mù chữ là 41%. Trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 02(354) T01/2018
khi đó, tỷ lệ người khuyết tật có chứng chỉ
đào tạo nghề là 6,5%; tỷ lệ gia đình người
khuyết tật được hưởng lợi từ các dịch vụ
phục hồi chức năng lao động do Chính phủ
cung cấp là 4,6%10. Tuy chưa phản ánh đầy
đủ thực trạng thực hiện quyền lao động và
việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam
thời gian qua nhưng những con số đó cũng
phần nào thể hiện tình trạng “có vấn đề”
cần được giải quyết về trách nhiệm của Nhà
nước và xã hội trong bảo đảm khả năng
tiếp cận quyền lao động và việc làm đối với
người khuyết tật.
3. Gia nhập Công ước 159 của ILO về
phục hồi chức năng lao động và việc làm
của người khuyết tật
3.1 Công ước 159 của ILO
Công ước 159 của ILO là Công ước
về phục hồi chức năng lao động và việc làm
của người khuyết tật, được ILO thông qua
ngày 20/6/1983 (Công ước 159). Công ước
đưa ra các yêu cầu về phục hồi khả năng lao
động và việc làm cho người khuyết tật, quy
định về việc điều chỉnh và đánh giá các tài
liệu hướng dẫn nghề nghiệp, dạy nghề, bố trí
việc làm và dịch vụ thất nghiệp cho người
khuyết tật. Như vậy, đối với người khuyết
tật, bên cạnh việc phục hồi chức năng y tế,
sức khoẻ thì phục hồi chức năng lao động và
việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng, điều
này thậm chí có tính quyết định cho việc hoà
nhập bình đẳng vào cộng đồng xã hội. Bởi
lẽ, chức năng lao động và việc làm chỉ có
thể được phục hồi trên cơ sở chức năng y tế,
sức khoẻ đồng thời người khuyết tật được
trang bị kỹ năng lao động theo nghề nghiệp,
có khả năng tìm kiếm, duy trì được việc làm
và thăng tiến với nó. Nếu được phục hồi về
chức năng y tế, sức khoẻ mà người khuyết tật
không có khả năng tìm kiếm và duy trì việc
làm thì việc hoà nhập hoặc tái hoà nhập với
10 Văn phòng ILO tại Hà Nội, Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam, PDF.
Nguồn: truy cập 28/11/2017.
11 truy cập 3/12/2017.
xã hội của họ khó có thể được bảo đảm bền
vững và thực chất. Đây cũng chính là tinh
thần, ý nghĩa nhân văn của Công ước 159.
Theo thống kê, tính đến tháng 10/2017, trên
thế giới đã có 83/187 quốc gia thành viên
ILO11 đã phê chuẩn Công ước 159. Công
ước có 17 điều luật, được kết cấu thành 3
phần với nội dung chính sau:
- Định nghĩa và phạm vi áp dụng
(Phần I, Điều 1)
Công ước định nghĩa người khuyết tật
là cá nhân mà khả năng có việc làm phù hợp,
trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với
nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một
khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được
công nhận. Mục đích của phục hồi chức
năng lao động là tạo cho người khuyết tật
có khả năng tìm được một việc làm phù hợp,
trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với
nó và nhờ đó thúc đẩy việc hoà nhập hoặc tái
hoà nhập của cá nhân đó vào xã hội. Không
phân biệt thành các dạng tật khác nhau, các
quy định của Công ước đều được áp dụng
đối với tất cả các dạng khuyết tật.
- Nguyên tắc trong chính sách phục
hồi chức năng lao động và việc làm của
người khuyết tật (Phần II, Điều 2 - Điều 5)
+ Theo điều kiện, tập quán và khả
năng của đất nước mình, Công ước đặt trách
nhiệm của quốc gia thành viên là phải xây
dựng, thực hiện và định kỳ xem xét lại chính
sách quốc gia trong lĩnh vực phục hồi chức
năng lao động và việc làm cho người khuyết
tật (Điều 2).
+ Chính sách quốc gia về phục hồi chức
năng lao động và việc làm cho người khuyết
tật cần phải nhằm bảo đảm việc ban hành các
biện pháp tạo việc làm thích hợp cho người
khuyết tật thuộc mọi dạng tật và nhằm thúc
đẩy cơ hội việc làm cho người khuyết tật trên
thị trường lao động mở (Điều 3).
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 02(354) T01/2018
+ Chính sách quốc gia về phục hồi
chức năng lao động và việc làm cho người
khuyết tật phải dựa trên nguyên tắc bình
đẳng về cơ hội giữa NLĐ có khuyết tật và
NLĐ nói chung; sự bình đẳng về cơ hội và
đối xử giữa NLĐ nam giới có khuyết tật với
NLĐ nữ giới có khuyết tật. Những biện pháp
tích cực, đặc biệt nhằm bảo đảm bình đẳng
thực sự về cơ hội và về đối xử giữa NLĐ
có khuyết tật với NLĐ khác không bị coi là
phân biệt đối xử với NLĐ khác (Điều 4).
+ Tham vấn ý kiến của các tổ chức đại
diện của NLĐ, của người SDLĐ trong việc
thực hiện chính sách, kể cả những biện pháp
được thực hiện nhằm khuyến khích sự hợp
tác và phối hợp giữa các thể chế công và tư
hoạt động trong lĩnh vực phục hồi chức năng
lao động. Các tổ chức của người khuyết tật
hoặc vì người khuyết tật cũng phải được
tham khảo ý kiến (Điều 5).
- Hành động ở cấp quốc gia để phát
triển dịch vụ phục hồi chức năng lao động
và việc làm của người khuyết tật (Phần III,
Điều 6 - Điều 9)
Theo tinh thần các quy định tại các
điều luật tương ứng trong Công ước, các
biện pháp, hành động cần thiết để thực thi
chính sách quốc gia về phục hồi chức năng
lao động và việc làm cho người khuyết tật
được triển khai qua hai phương diện sau:
+ Một là: Phát triển dịch vụ do Nhà
nước trực tiếp cung cấp thông qua hệ thống
mới hoặc điều chỉnh hệ thống hiện có;
+ Hai là: Đưa ra các chính sách ưu
đãi để khuyến khích sự phát triển của những
dịch vụ này. Theo đó: (a) cung cấp và đánh
giá các dịch vụ về hướng nghiệp, đào tạo
nghề, sắp xếp việc làm, tuyển dụng và các
dịch vụ khác có liên quan giúp cho người
khuyết tật tìm được và duy trì được việc làm;
12 Văn phòng Lao động quốc tế tại Geneva (2009), Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức năng lao
động và việc làm của người khuyết tật, PDF.
Nguồn: wcms_
118314. pdf, truy cập 28/11/2017.
(b) Trong trường hợp điều kiện cho phép và
xét thấy phù hợp, các dịch vụ hiện có dành
cho NLĐ nói chung nên có sự điều chỉnh
cần thiết để cung cấp dịch vụ cho cả người
khuyết tật; (c) Khuyến khích việc thành lập
và phát triển các dịch vụ phục hồi chức năng
lao động và việc làm cho người khuyết tật ở
nông thôn và các vùng sâu, vùng xa.
Công ước cũng đặt yêu cầu mọi quốc
gia thành viên phải đặt mục tiêu đảm bảo
đào tạo và đưa vào sử dụng đội ngũ hướng
dẫn viên về phục hồi chức năng lao động
và nhân viên có tay nghề phù hợp để đảm
đương công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề,
sắp xếp việc làm và tuyển dụng lao động là
người khuyết tật (Điều 9).
- Điều khoản cuối cùng (Phần IV, Điều
10 - Điều 17):
Trong phần này, Công ước quy định:
việc phê chuẩn Công ước phải được thông
báo tới Tổng giám đốc Văn phòng Lao động
quốc tế để đăng ký (Điều 10); Công ước chỉ
mang tính ràng buộc với những quốc gia
thành viên ILO đã đăng ký phê chuẩn và sẽ
phát sinh hiệu lực chính thức đối với quốc
gia thành viên 12 tháng sau khi quốc gia đó
đã đăng ký phê chuẩn với Tổng giám đốc
Văn phòng Lao động quốc tế (Điều 11). Các
điều khoản còn lại trong Công ước quy định
các vấn đề về thủ tục đăng ký phê chuẩn
hoặc bãi bỏ phê chuẩn; sửa đổi Công ước;
ngôn ngữ thể hiện của Công ước.
Song song với Công ước 159 nêu trên,
ngày 20/6/1983, ILO cũng đã ban hành bản
Khuyến nghị 168 về phục hồi chức năng
lao động và việc làm của người khuyết tật12.
Khuyến nghị 168 được coi là văn bản hỗ trợ
quan trọng cho Công ước 159 trong nỗ lực
tạo nền tảng pháp lý quốc tế nhằm đạt tới
mục tiêu của phục hồi chức năng lao động
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 02(354) T01/2018
và việc làm của người khuyết tật trên phạm
vi toàn thế giới.
3.2 Việc gia nhập Công ước 159 của
ILO
Là thành viên của ILO13, Việt Nam
có nghĩa vụ thường xuyên xem xét và gia
nhập các công ước ILO đã thông qua trên
cơ sở phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam. Ở phạm vi có tính phổ quát, trước
đây, trên lĩnh vực lao động và việc làm nói
chung, nhằm kiến tạo, hình thành thị trường
lao động, Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công
ước số 122 của ILO về chính sách việc làm,
Công ước số 187 về khung chính sách thúc
đẩy an toàn vệ sinh lao động14. Hiện nay, bên
cạnh việc chuẩn bị điều kiện gia nhập Công
ước 159, Việt Nam cũng đang trong quá
trình nghiên cứu đề xuất gia nhập Công ước
88 về dịch vụ việc làm15 và Công ước 181 về
tổ chức dịch vụ việc làm tư nhân16. Điều đó
cho thấy rõ tính tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực bảo
đảm quyền lao động và việc làm cho người
khuyết tật. Mặt khác, qua đây cũng thể hiện
rõ quan điểm đặt việc bảo đảm quyền lao
động và việc làm của người khuyết tật ở
Việt Nam trong một tổng thể các chính sách
đồng bộ nhằm tạo lập điều kiện phát triển
thị trường lao động, chứ không phải là một
chính sách đơn lẻ, có tính ưu tiên, chiếu cố
13 Việt Nam gia nhập ILO năm 1980, năm 1982 thì rút khỏi ILO vì lý do kỹ thuật. Đến năm 1993, Việt Nam tái gia nhập
ILO.
14 Năm 2014, Việt Nam tham gia Công ước số 187 của ILO. Đây là công ước thứ 21/187 công ước của ILO mà Việt Nam
đã tham gia.
15 Văn phòng ILO tại Hà Nội, Chương trình hợp tác quốc gia ILO – Việt Nam về việc làm bền vững 2012 – 2016, PDF.
Nguồn: documents /genericdocument/
wcms_434273.pdf. Truy cập 28/11/2017.
16 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 về việc phê duyệt kế hoạch thực hiện và đề
xuất gia nhập các công ước của Liên hiệp quốc và của Tổ chức Lao động quốc tế trong lĩnh vực lao động - xã hội giai
đoạn 2016 – 2020.
17 Việc nghiên cứu, rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam, chuẩn bị đề xuất gia nhập Công ước số 159 của ILO
cũng đã được triển khai từ những năm trước đây (giai đoạn năm 2010 – 2015), ngay sau khi Luật Người khuyết tật mới
được Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, hoạt động này tiếp tục được đưa vào kế hoạch thực
hiện ở giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2015. Xem thêm:
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Rà soát pháp luật Việt Nam để tiến tới phê chuẩn Công ước số 159 về phục hồi
chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật. Nguồn:
Truy cập 28/11/2017.
đến người khuyết tật theo tư duy bảo trợ
thuần tuý.
Thật ra, tinh thần và nội dung các quy
định của Công ước 159 về phục hồi chức
năng lao động và việc làm của người khuyết
tật sau đó cũng đã được thể hiện và nâng cấp
trong Công ước về quyền của người khuyết
tật được Liên hiệp quốc thông qua năm
2006. Việt Nam đã ký tham gia Công ước
này từ năm 2008, đã ban hành Luật Người
khuyết tật năm 2010, đã phê chuẩn và trở
thành thành viên chính thức của Công ước
về Quyền của người khuyết tật năm 2014.
Như vậy, về cơ bản có thể khẳng định tinh
thần, nội dung Công ước 159 đã được tiếp
nhận hoà quyện trong thể chế pháp lý và
thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam. Tuy
nhiên, việc gia nhập Công ước 159 vẫn là
điều hết sức cần thiết hiện nay, bởi lẽ việc
gia nhập Công ước này góp phần thực hiện
định hướng chiến lược của Việt Nam trong
việc hoàn thiện thể chế thị trường lao động,
theo đó dành sự quan tâm trước hết với một
trong những nhóm dễ bị tổn thương có tính
đặc thù là cộng đồng người khuyết tật17. Mặt
khác, so với Công ước 159 thì quy định của
Công ước về Quyền của người khuyết tật của
Liên hiệp quốc, Luật Người khuyết tật và
Bộ luật Lao động về quyền lao động và việc
làm của người khuyết tật chỉ có tính khái
quát, không được chi tiết, cụ thể bằng vì đây
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 02(354) T01/2018
là điều ước quốc tế và những văn bản quy
phạm pháp luật có tính bao quát cao, điều
chỉnh nhiều quan hệ xã hội xung quanh vấn
đề quyền của người khuyết tật hay quyền lao
động và việc làm của người khuyết tật. Vì
thế, đây cũng là cơ hội để Việt Nam nhìn
lại toàn bộ hệ thống chính sách và việc thực
hiện chính sách đối với người khuyết tật,
thúc đẩy chính sách phục hồi chức năng
lao động, dạy nghề, tư vấn, giới thiệu việc
làm cho người khuyết tật. Rõ ràng, bên cạnh
thực hiện trách nhiệm của thành viên ILO,
việc gia nhập Công ước 159 về phục hồi
chức năng lao động và việc làm của người
khuyết tật cũng là việc làm có ý nghĩa thiết
thực nhằm thực hiện nghĩa vụ quốc gia của
Việt Nam đối với Công ước của Liên hiệp
quốc về quyền của người khuyết tật, thực
hiện có hiệu quả hơn các quy định của Luật
Người khuyết tật và Bộ luật Lao động cũng
như các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan về quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật. Việc gia nhập Công ước
159 của Việt Nam ở thời điểm hiện nay tuy
không còn sớm nhưng vẫn mang ý nghĩa, tác
động lớn về nhiều mặt như chính trị, ngoại
giao, nhất là về mặt kinh tế - xã hội. Việc gia
nhập Công ước 159 cũng cho thấy sự quan
tâm của Việt Nam đối với người khuyết tật,
nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu
vực và quốc tế, thể hiện đúng truyền thống
nhân đạo và tương thân tương ái của người
Việt Nam. Đồng thời điều này cũng thể hiện
sự cam kết mạnh mẽ và thay đổi cách nhìn
với tình trạng khuyết tật là một vấn đề xã
hội chứ không phải vấn đề y tế, xác lập sự
dịch chuyển từ phương thức tiếp cận vấn đề
khuyết tật từ hướng nhân đạo sang hướng
nhân quyền18.
Qua khảo sát, đánh giá của các cơ quan
chức năng, có thể khẳng định nội dung các
quy định và tinh thần chung của Công ước
18 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo đánh giá tác động chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế-xã hội và tác
động khác của Công ước số 159.
159 không trái với Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam. Việc gia nhập Công ước không
những không xung đột, mâu thuẫn với lợi
ích quốc gia, dân tộc, với đường lối, chính
sách đối ngoại của Nhà nước cũng như việc
thực thi trách nhiệm của Việt Nam theo các
điều ước quốc tế khác mà trái lại, việc gia
nhập Công ước có ý nghĩa quan trọng trong
việc thể hiện cam kết thực thi các chính
sách cải thiện chất lượng cuộc sống của
người khuyết tật, từng bước tạo điều kiện
cho người khuyết tật hoà nhập bình đẳng
vào các hoạt động xã hội, xây dựng môi
trường xã hội ngày càng bảo đảm tốt hơn
cho quyền của người khuyết tật. Việc gia
nhập Công ước 159 cũng cho thấy sự quan
tâm của Nhà nước Việt Nam đối với cộng
đồng người khuyết tật, nâng cao uy tín, hình
ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo
quy định tại các Điều 28, 29 Luật Điều ước
quốc tế năm 2016, việc ký quyết định phê
chuẩn gia nhập Công ước này là nhân danh
Nhà nước và thuộc thẩm quyền của Chủ tịch
nước. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
trình Chính phủ để Chính phủ trình Chủ tịch
nước về việc phê chuẩn Công ước sau khi
lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại giao,
Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan
(theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật
Điều ước quốc tế năm 2016).
Tuy vậy, xét trên một số khía cạnh cụ
thể có thể thấy pháp luật hiện hành của Việt
Nam cũng còn những điểm chưa phù hợp
với nội dung và tinh thần Công ước 159.
Chẳng hạn, pháp luật mới quy định chung
về điều kiện đối với các cơ sở dạy nghề mà
chưa có quy định về đánh giá mức độ khuyết
tật theo khả năng lao động, mới có quy định
đánh giá dạng tật theo y tế, chưa có quy định
đánh giá khả năng lao động còn lại. Chính vì
vậy, việc dạy nghề cho người khuyết tật khó
có thể phù hợp với khả năng lao động của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 02(354) T01/2018
họ và yêu cầu của nghề nghiệp tương lai,
khi người khuyết tật đã được học nghề. Nếu
nhìn từ khía cạnh bảo đảm quyền lao động
và việc làm của người khuyết tật thì các quy
định tại Điều 177 và Điều 178 Bộ luật Lao
động năm 2012 vô hình trung hạn chế quyền
lựa chọn công việc và nghề nghiệp của người
khuyết tật. Pháp luật Việt Nam cũng chưa
có quy định cụ thể về bình đẳng cơ hội và
đối xử giữa NLĐ nam giới có khuyết tật với
lao động nữ giới có khuyết tật mà quy định
về lao động là người khuyết tật nói chung
và quy định về bình đẳng giữa nam và nữ
nói chung, mang tính trung tính, không phân
biệt nam giới, nữ giới có khuyết tật và nam
giới, nữ giới không có khuyết tật. Theo đánh
giá của Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội, về cơ bản, tuy chính sách, pháp luật về
phục hồi chức năng lao động và việc làm
cho người khuyết tật, các biện pháp thực thi
chính sách, pháp luật tương thích với các
quy định của Công ước 159 nhưng hiện nay
pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức
quy định chung về cơ sở dạy nghề, cơ sở
sản xuất kinh doanh dành riêng cho người
khuyết tật và nơi có SDLĐ là người khuyết
tật mà chưa có quy định cụ thể để thực hiện
việc giám sát đối với các cơ sở này. Pháp
luật có quy định ưu đãi nhưng lại thiếu cơ
chế giám sát thực thi và thiếu chế tài xử phạt
cụ thể v.v..19. Tất cả những điểm chưa tương
thích đó sẽ được khắc phục theo tiến trình
xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp
luật về lao động, việc làm của Việt Nam khi
chúng ta chính thức gia nhập Công ước 159.
Cùng với những thuận lợi, cơ hội tốt
cho quốc gia trong tiếp cận các chương trình
hợp tác, hỗ trợ kỹ thuật của ILO và các tổ
chức trong và ngoài nước khi triển khai thực
thi các tiêu chuẩn theo yêu cầu của Công
ước, rõ ràng đối tượng được thụ hưởng thành
quả của việc gia nhập Công ước này chính là
19 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo đánh giá sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các quy định của
Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật.
cộng đồng người khuyết tật Việt Nam. Bên
cạnh đó, sau khi gia nhập, với tư cách thành
viên Công ước, Việt Nam sẽ phải triển khai
thực hiện Công ước, phát triển hệ thống dịch
vụ phục hồi chức năng lao động, hệ thống
giáo dục nghề nghiệp, hệ thống dịch vụ việc
làm theo yêu cầu của Công ước; phải tăng
cường cơ chế thi hành và giám sát thi hành
pháp luật về tổ chức dịch vụ phục hồi chức
năng lao động cho người khuyết tật, hướng
nghiệp, đào tạo nghề, sắp xếp việc làm và
tuyển dụng lao động là người khuyết tật,
chú trọng tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác
dịch vụ phục hồi chức năng lao động. Việt
Nam cũng có nghĩa vụ tuân thủ quy định về
việc báo cáo định kỳ hoặc báo cáo đột xuất
về các biện pháp đã tiến hành thực hiện các
điều khoản của Công ước.
4. Một số kiến nghị
Cần sớm phê chuẩn Công ước 159
nhưng để quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật được bảo đảm bền vững,
cần phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về lao động và việc
làm, thực hiện đồng bộ các biện pháp, trong
đó nên chú trọng những vấn đề sau:
- Bảo đảm sự bình đẳng trong tiếp cận
quyền lao động và việc làm cho mọi công
dân, không phân biệt đối xử vì lý do khuyết
tật, bảo đảm điều kiện lao động có tính phổ
cập cho cả người khuyết tật và người không
khuyết tật.
- Cụ thể hoá quy định về lao động là
người khuyết tật trong Bộ luật Lao động,
hoàn thiện các quy định về chống phân biệt
đối xử với người khuyết tật; tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật,
áp dụng nghiêm các chế tài; quy định hợp
lý để thực sự khuyến khích người SDLĐ
trong việc SDLĐ là người khuyết tật; đề cao
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, người
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 02(354) T01/2018
SDLĐ nói chung trong việc bảo đảm việc
làm đối với người khuyết tật.
- Cùng với sự tôn trọng các quy luật
của thị trường lao động, Nhà nước cần kiến
tạo được chính sách trợ giúp có hiệu quả
để phục hồi chức năng lao động cho người
khuyết tật giúp họ tiếp cận, thực hiện được
quyền lao động và việc làm của mình một
cách bình đẳng, để họ có thể khẳng định
được vai trò của mình và hoà nhập vào cộng
đồng xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả chính sách xã hội hoá việc bảo đảm
quyền lao động và việc làm đối với người
khuyết tật, tạo điều kiện thuận lợi để các
thành phần kinh tế, các đơn vị, tổ chức, cá
nhân phát huy tiềm năng, sáng kiến, tạo ra
nhiều việc làm cho NLĐ nói chung và người
khuyết tật nói riêng.
Mở rộng các hình thức giáo dục, tuyên
tuyền nhằm nâng cao nhận thức của cả xã
hội và của chính những người khuyết tật về
quyền lao động và việc làm của mọi công
dân trong đó có quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật, về tinh thần, nội dung
Công ước 159 và trách nhiệm của Việt Nam
với tư cách là thành viên của ILO và thành
viên Công ước
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Anh, Thực trạng người khuyết tật và kết quả chăm sóc người khuyết tật, nguồn:
gopfp.gov.vn
2. Xuân Bách, Dự án Luật người khuyết tật mang đậm tính nhân văn, Báo Nhân dân điện tử. Nguồn: http://
www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/18199302-.html.
3. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Báo cáo đánh giá tác động chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế-xã
hội và tác động khác của Công ước số 159 .
4. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Báo cáo đánh giá sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các
quy định của Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật.
5. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Rà soát pháp luật Việt Nam để tiến tới phê chuẩn Công ước số 159 về
phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật.
Nguồn:
6. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Tờ trình về việc gia nhập Công ước số 159 của Tổ chức lao động quốc
tế về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật (Dự thảo), Hà Nội, 11/2017.
7. Trần Thuý Lâm, Việc làm đối với người khuyết tật – từ pháp luật đến thực tiễn thực hiện, Đặc san “Pháp luật
người khuyết tật” của Tạp chí Luật học, tháng 10/2013.
8. Vũ Hương Liên, Quyền lao động trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Luận văn ThS, Khoa Luật
Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
Nguồn: https://sachviet.edu.vn/threads/quyen-lao-dong-trong-phap-luat-quoc-te-va-phap-luat-viet-nam.41317.
9. Trần Thị Tuyết Nhung, Quyền có việc làm của NLĐ – tiếp cận dưới góc độ quyền con người, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật. Nguồn:
10. Nguyễn Thị Quế, Quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam, Luận văn ThS, Khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội, 2015.pdf.
Nguồn: repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/2302/1/00050004789.pdf.
11. Văn phòng ILO tại Hà Nội, Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam.pdf.
Nguồn:
12. Văn phòng lao động quốc tế tại Geneva (2009), Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức
năng lao động và việc làm của người khuyết tật, pdf.
Nguồn: normativeinstrument/
wcms_118314.pdf.
13. Văn phòng ILO tại Hà Nội, Chương trình hợp tác quốc gia ILO – Việt Nam về việc làm bền vững 2012 –
2016, pdf.
Nguồn:
genericdocument/wcms_434273.pdf.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 02(354) T01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_lao_dong_va_viec_lam_cua_nguoi_khuyet_tat_o_vi.pdf