Bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp

Trong tương lai, cần nghiên cứu ban hành đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên, bởi vì, các quy định của pháp luật về tư pháp đối với tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật đã có nhưng lại nằm rải rác tại nhiều đạo luật như Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2016, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Luật trẻ em năm 2016 . Các đạo luật này do các cơ quan soạn thảo khác nhau nên không tránh khỏi có những quy định chưa thống nhất. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần xây dựng mô hình hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên, + Nghiên cứu ban hành quy định pháp luật về nghề công tác xã hội trong đó quy định rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cán bộ xã hội; tiêu chuẩn thực hành nghề công tác xã hội; quy định theo dõi giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội; đưa các quy định về chức năng nhiệm vụ của cán bộ xã hội trong các lĩnh vực cụ thể, đặc biệt trong việc bảo vệ, hỗ trợ trẻ em bị lạm dụng, xâm hại, bóc lột, trẻ em tiếp xúc với hệ thống tư pháp vào các văn bản pháp luật liên quan. + Nghiên cứu ban hành quy định pháp luật về quản lý và sử dụng internet , trong đó quy định cụ thể việc quản lý các trang web, các trò chơi trực tuyến (game online), giúp việc khai thác hiệu quả các thành tựu công nghệ thông tin, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của giới trẻ, đồng thời hạn chế những tiêu cực của loại hình thông tin, giải trí này.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI 6 BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN LẬP PHÁP Đỗ Thị Thu Hằng1 Trần Văn Duy2 Tóm tắt: Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (Convention on the Rights of the child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 44/25 ngày 20/11/1989 (sau đây gọi tắt là công ước CRC) quy định các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) là phù hợp với xu thế và bản chất của Nhà nước Việt Nam. Để triển khai tận tâm những cam kết quốc tế đó, Quốc hội Việt Nam là hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Thông qua hoạt động lập pháp của mình, đường lối, chính sách nhất quán về bảo vệ quyền trẻ em được thể chế hóa ngày càng hoàn thiện, đầy đủ. Bài viết này tổng kết những thành tựu và hạn chế trong công tác lập pháp ở Việt Nam về bảo đảm thực hiện quyền trẻ em khi Việt Nam tham gia công ước CRC, tìm kiếm những biện pháp của mình để thực hiện các quyền chung của tất cả trẻ em. Từ khóa: Quyền trẻ em, cơ quan lập pháp, tiếp cận quyền con người, quyền công dân Nhận bài: 08/9/2017; Hoàn thành biên tập: 27/9/2017; Duyệt đăng: 28/11/2017. Abstract: Convention on the Rights of the child is passed by the United Nations General Assembly under Resolution No. 44/25 dated November 2,1989 (CRC in short) regulating civil, political, economic, social, cultural rights of the child. Vietnam is the first country in ASIA and the second country in the world ratifying this Convention on February 20,1990. Vietnam joined the CRC that is suitable with the trend and nature of Vietnam country. To wholeheartedly implement those commitments, Vietnam’s National Assembly is the highest representative agency of the people. Through its legislative activity, consistent guideline, policy on children protection are institutionalized more comprehensively. This article summarizes results and limitations in legislative activity in Vietnam on ensuring implementation of children rights when Vietnam joins CRC, finding its measures to implement general rights of all children. Keywords: children rights, legislative agency, accessing human rights, citizen rights. Date of receipt: 08/9/2017; Date of revision: 27/9/2017; Date of approval: 28/11/2017. 1. Thành công cơ bản trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp Thứ nhất, hoạt động xây dựng pháp luật ngày càng hoàn thiện nhằm bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Trong những năm qua, nhằm thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và thực hiện Công ước CRC đã ký kết từ năm 1990, Quốc hội đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều đạo luật quan trọng, như: Luật Trẻ em năm 2016; Luật Giáo dục năm 2005; Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011; Bộ Luật Hình sự năm 2015; Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 và một số luật, pháp lệnh khác quy định nhiều nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp về việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em khỏi bị bạo lực, xâm hại. Trên cơ sở đó, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các nội dung này3. Các văn bản này là cơ sở pháp lý, căn cứ quan trọng để các bộ, ngành, cơ quan hữu quan và ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo triển khai và tổ chức các hoạt động phòng ngừa, bảo vệ, trợ giúp trẻ em khỏi bị bạo lực, xâm hại. 1 Thạc sỹ, Học viện Tư pháp 2 Tiến sỹ, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 7 Trên cơ sở các văn bản của Trung ương, một số địa phương trong cả nước đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em nói riêng; lồng ghép các mục tiêu về trẻ em, trong đó có mục tiêu về phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền và nghĩa vụ học tập; quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe trẻ em,... đều được cụ thể hóa trong các luật như: Luật trẻ em năm 2016; Luật giáo dục năm 2005; Luật phòng, chống mua bán người năm 2011; Bộ luật hình sự năm 2015; Bộ luật dân sự năm 2015; Bộ luật lao động năm 2012; Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007. Các quyền liên quan đến phụ nữ và trẻ em, đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng vào những thành tựu về bảo đảm và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em. Luật Bình đẳng giới cùng với các quy định về quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chế độ đối với lao động liên quan trẻ em, đặc biệt trẻ em gái,... đã tạo điều kiện để trẻ em thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động; đồng thời, góp phần phòng, chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em. Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập, được phát triển; quyền được vui chơi, giải trí;... đều được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật. Các quyền nhân thân và đảm bảo quyền nhân thân, Quốc hội đã quy định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật. Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự do cá nhân của trẻ em đặc biệt quan trọng, được các bản Hiến pháp nước ta quy định. Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm trẻ em. Ðể bảo đảm thực thi những quy định đó, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân của trẻ em. Thứ hai, cơ quan lập pháp đã ký kết, tham gia, thông qua nhiều văn bản pháp luật - đảm bảo tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Quan điểm của Việt Nam khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người là coi việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi nhân quyền là quyền và nghĩa vụ quan trọng nhất của tất cả các quốc gia. Mọi quốc gia đều phải chịu trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương của Liên Hợp quốc, có tính đến tình hình của từng nước cụ thể, để bảo đảm rằng người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Đến nay, Việt Nam đã tham gia Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và đã ký, phê chuẩn 7 trong số 9 công ước cơ bản về quyền con người. Việt Nam cũng đã ký và phê chuẩn 2 Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em là Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em vào xung đột vũ trang (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001) và Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em, về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001). Nội dung của các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về quyền con người. Cụ thể là trong từng đạo luật đều có quy định có tính nguyên tắc, trường hợp các quy định của luật trái với các quy định của điều ước quốc tế thì ưu tiên thực hiện điều ước quốc tế. Đồng thời, Quốc hội cũng tuân thủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là các quy định của nội luật không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 3 Chính phủ ban hành 06 Nghị định, 01 Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ ban hành 03 Chỉ thị, 12 Quyết định; Bộ Lao động - Thương binh Xã hội ban hành 03 Thông tư; Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành 02 Chỉ thị, 01 Quyết định; Bộ Tư pháp ban hành 01 Quyết định; Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch ban hành 02 Thông tư, 04 Quyết định; các bộ, ngành phối hợp ban hành 06 Thông tư liên tịch và 01 Nghị quyết liên tịch về các vấn đề liên quan đến phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 8 Về cơ bản, các đạo luật của Quốc hội ban hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới,... được người dân ghi nhận, bạn bè quốc tế khẳng định. Thứ ba, thành lập Tòa án Gia đình và người chưa thành niên ở tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện nhằm thiết lập một thiết chế chuyên trách về tư pháp người chưa thành niên. Quốc hội là cơ quan có vai trò then chốt trong việc đảm bảo quyền của trẻ em, nhất là hoạch định khuôn khổ pháp lý, đồng thời là cơ quan giám sát thúc đẩy chính phủ trong việc thực thi chính sách pháp luật đã ban hành và đại diện kết nối với người dân, lắng nghe ý kiến phản hồi của người dân về những chính sách được triển khai: Trong lĩnh vực đảm bảo quyền của trẻ em, Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật bảo vệ và chăm sóc và giáo dục trẻ em, cam kết tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, lồng ghép quyền trẻ em vào các vấn đề liên quan đến trẻ em trong quá trình xây dựng pháp luật và giám sát thực hiện chính sách bảo vệ thúc đẩy quyền của trẻ em. Trong năm 2014, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 cùng với sửa đổi đồng bộ các quy định về tố tụng trong các bộ luật như: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015 tạo hành lang pháp lý thiết lập một thiết chế chuyên trách về tư pháp người chưa thành niên. Việc thành lập Tòa án gia đình và người chưa thành niên ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện hướng tới bảo đảm quyền trẻ em ngày một tốt hơn. Thứ tư, thiết lập cơ chế giám sát quyền trẻ em độc lập. Là quốc gia đang phát triển, phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, Việt Nam nhận thức rằng cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để trẻ em Việt Nam có được thêm cơ hội thụ hưởng các quyền chính đáng và vốn có của mình một cách bình đẳng; được chăm sóc, bảo vệ toàn diện về mọi mặt. Việt Nam được ghi nhận là nước đi tiên phong phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em và tích cực thực hiện các quyền trẻ em, Việt Nam đang từng bước xây dựng được một cơ chế giám sát thực hiện quyền trẻ em độc lập. Đây cũng là trách nhiệm của các quốc gia thành viên khi ký công ước nhằm đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và để thúc đẩy việc thực hiện phổ quát các quyền của trẻ em. Do đặc điểm dễ bị tổn thương của trẻ nhỏ hơn so với người lớn và cần bảo vệ các em khỏi bạo lực, bóc lột, phân biệt đối xử và xao nhãng, vì vậy một cơ quan chuyên trách về trẻ em sẽ giúp tăng nhận thức về quyền trẻ em và tăng cường ưu tiên xã hội và chính trị. Kể từ năm 1990 đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện luật pháp và chính sách để thúc đẩy việc thực hiện Công ước quyền trẻ em. Các nguyên tắc về quyền trẻ em đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013, văn bản pháp luật cao nhất và các văn bản pháp luật khác và trên cơ sở đó nhiều chính sách và chương trình đã được xây dựng và triển khai nhằm thực hiện các quyền của trẻ em. Những cải cách trong xây dựng chính sách, pháp luật trong thời gian qua, đặc biệt là cải cách Luật Trẻ em năm 2016, sẽ mang lại cơ hội lớn để Việt Nam tiếp tục đà phát triển này và quan trọng hơn là biến những cam kết của mình thành những hành động thực tiễn nhằm bảo vệ quyền trẻ em. 2. Những điểm còn tồn tại trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định. Thứ nhất, về nhận thức của cán bộ, công chức, đại biểu dân cử Thực tế cho thấy, hiểu biết về bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp ở nước ta hiện nay còn hạn chế, dẫn đến có những hành động vô ý vi phạm các quyền hợp pháp, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền chưa thường xuyên. Thứ hai, sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền và Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 9 đấu tranh chống vi phạm nhân quyền còn mờ nhạt. Thứ ba, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp; chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền. Thứ tư, sự thiếu hụt các nguồn vật chất. Mặc dù đòi hỏi ở mức độ khác nhau, song việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp nào cũng không thể tách rời các điều kiện vật chất. Những khó khăn về kinh tế là một trong những rào cản để bảo đảm các điều kiện để thực thi về quyền trẻ em của cơ quan lập pháp. Thứ năm, Việt Nam chưa có một cơ chế giám sát quyền trẻ em độc lập, vấn đề này, đã được Ủy ban của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em liên tục đề cập trong hai phiên họp đánh giá tính hình thực hiện Công ước quyền Trẻ em tại Geneva lần lượt vào năm 2003 và 2012. Một cơ chế độc lập sẽ giúp giám sát hiệu quả hơn các cam kết cũng như việc thực hiện quyền trẻ em của các cơ quan nhà nước khác nhau. Cơ chế này cũng hỗ trợ trẻ em tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan trọng. 3. Một số giải pháp tiếp tục thực hiện, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp. Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp cần được cụ thể và rõ ràng hơn trong các luật chuyên ngành, đảm bảo đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Thứ ba, xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước. Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 10 Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ”. Thứ tư, tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với thực thi quyền trẻ em, cụ thể: + Chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện Luật trẻ em năm 2016. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và Công ước CRC, Luật trẻ em năm 2016 quy định 25 nhóm quyền của trẻ em. Việc tăng số quyền của trẻ em thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với thế hệ tương lai của đất nước và cũng là phù hợp với Công ước CRC. Luật trẻ em năm 2016 chú trọng những quy định về độ tuổi trẻ em; xây dựng định nghĩa về các hình thức bạo lực, xâm hại trẻ em; quy định trách nhiệm và sự phối hợp của cơ quan quản lý Nhà nước với các bộ, ngành hữu quan và chính quyền các địa phương; ban hành chính sách, pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng cho mọi trẻ em (ưu tiên nhóm trẻ em yếu thế trên cơ sở tiếp cận quyền trẻ em)... + Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018 sẽ là công cụ để nghiêm trị những hành vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm cũng như các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Nếu như, theo BLHS năm 1999, mặc dù có ghi nhận các tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) và tội dâm ô với trẻ em (Điều 116), song trong điều luật cũng không ghi nhận hết những hành vi xâm phạm đến trẻ em, nhất là tội dâm ô với trẻ em. Do vậy việc xử lý loại tội phạm này còn nhiều bất cập và còn bỏ lọt tội phạm. Tại điều 142 Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sư năm 2015, đã sửa đổi chính sách hình sự đối với hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi. Khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành sẽ là công cụ để nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật đưa trẻ tham gia vào những hành vi có mục đích khiêu dâm, xâm hại tình dục đối với trẻ em và góp phần bảo vệ quyền con người, quyền của trẻ em.... + Tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan phúc lợi xã hội thông qua việc quy định vai trò của cán bộ xã hội trong việc hỗ trợ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng trong quá trình tố tụng và trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các biện pháp xử lý chuyển hướng và việc thi hành các chế tài giáo dục tại cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội; triển khai thực hiện các quy định trong Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 để thành lập hệ thống tòa án chuyên trách về trẻ em/người chưa thành niên. Trong tương lai, cần nghiên cứu ban hành đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên, bởi vì, các quy định của pháp luật về tư pháp đối với tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật đã có nhưng lại nằm rải rác tại nhiều đạo luật như Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2016, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Luật trẻ em năm 2016. Các đạo luật này do các cơ quan soạn thảo khác nhau nên không tránh khỏi có những quy định chưa thống nhất. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần xây dựng mô hình hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên, + Nghiên cứu ban hành quy định pháp luật về nghề công tác xã hội trong đó quy định rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cán bộ xã hội; tiêu chuẩn thực hành nghề công tác xã hội; quy định theo dõi giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội; đưa các quy định về chức năng nhiệm vụ của cán bộ xã hội trong các lĩnh vực cụ thể, đặc biệt trong việc bảo vệ, hỗ trợ trẻ em bị lạm dụng, xâm hại, bóc lột, trẻ em tiếp xúc với hệ thống tư phápvào các văn bản pháp luật liên quan. + Nghiên cứu ban hành quy định pháp luật về quản lý và sử dụng internet , trong đó quy định cụ thể việc quản lý các trang web, các trò chơi trực tuyến (game online), giúp việc khai thác hiệu quả các thành tựu công nghệ thông tin, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của giới trẻ, đồng thời hạn chế những tiêu cực của loại hình thông tin, giải trí này. (Xem tiếp trang 17)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_dam_thuc_hien_quyen_tre_em_thong_qua_hoat_dong_cua_co_qu.pdf