Kiến nghị
1. Cần xây dựng thể chế, chính sách
nhằm hỗ trợ cho việc phát triển nông sản là
đặc sản của địa phương.
2. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
đăng ký, quản lý, sử dụng và bảo vệ CDĐL
theo hướng: cụ thể hoá các nội dung liên
quan đến quản lý, sử dụng CDĐL để đẩy
mạnh hoạt động này; Quy định rõ quyền sở
hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng
CDĐL.
3. Cần xác định rõ vai trò của các cơ
quan quản lý, cơ quan chuyên môn, chủ thể
sử dụng, tổ chức tập thể, hiệp hội trong
việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ
quyền đối với CDĐL.
4. Xây dựng mô hình chuẩn về xây
dựng, quản lý, khai thác các sản phẩm có
tiềm năng được bảo hộ CDĐL, đưa cơ chế
bảo hộ CDĐL vào một phần trong chính
sách phát triển nông nghiệp; xúc tiến việc
đăng ký bảo hộ CDĐL ra nước ngoài cho
những nông sản đã đăng ký bảo hộ trong
nước, đặc biệt ở những quốc gia có nhiều
người Việt sinh sống như Mỹ, Pháp, Đức,
Nga.
5. Các địa phương cần rà soát lại các đặc
sản để tiến hành các thủ tục đăng ký CDĐL,
đồng thời cần tăng cường công tác phòng,
chống sản xuất, buôn bán hàng hoá giả mạo
CDĐL trên địa bàn nhằm bảo vệ danh tiếng,
uy tín của các sản phẩm mang CDĐL.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo hộ chỉ dẫn địa lý: Yêu cầu của phát triển nông nghiệp bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 17 (417) - T9/202050
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Chỉ dẫn địa lý
Định nghĩa về chỉ dẫn địa lý (CDĐL) lần
đầu tiên được ghi nhận tại Điều 2 của Hiệp
ước Lisbon 1958 đã được sửa đổi năm 1967
và 1979, theo đó: “Chỉ dẫn địa lý là tên địa lý
của một nước, vùng hoặc địa phương dùng để
chỉ dẫn xuất xứ của sản phẩm, mà chất lượng
và những đặc tính của nó dựa trên các điều
kiện môi trường địa lý độc đáo, ưu việt, bao
gồm yếu tố tự nhiên và con người”1. Theo quy
định này, một CDĐL được xác định theo
Hiệp ước phải thỏa mãn 3 điều kiện:
Một là, đó phải là tên khu vực địa lý, địa
danh như tên nước, khu vực hoặc vùng, địa
phương xác định. Tên địa lý phải là tên gọi
được sử dụng chính thức trên bản đồ địa lý
để chỉ một khu vực địa lý nhất định. Do đó,
những tên gọi có tính chất quy ước, tên riêng
1 Lê Việt Tuấn (2004), Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật TP. HCM và Đại học Lund.
BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ:
YÊU CẦU CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
Bùi Thị Hằng Nga*
Nguyễn Minh Bách Tùng**
*,**KhoaLuậtKinhtế-ĐHKinhtế-Luật,ĐHQG-HCM
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chỉ dẫn địa lý, phát triển
nông nghiệp, nông nghiệp bền
vững.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 17/7/2020
Biên tập : 07/8/2020
Duyệt bài : 11/8/2020
Article Infomation:
Key words: Geographical,
Agricultural development,
Sustainable agriculture.
Article History:
Received : 17 Jul. 2020
Edited : 07 Aug. 2020
Approved : 11 Aug. 2020
Tóm tắt:
Chỉ dẫn địa lý cho nông sản Việt Nam nếu được xây dựng, phát triển
và bảo vệ sẽ đóng góp rất nhiều cho lợi ích quốc gia, nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, đặc biệt là đặc sản của các vùng, địa
phương. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích các điểm hạn
chế của pháp luật liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý và đề xuất các
giải pháp để tăng cường hiệu quả của hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lý
cho nông sản Việt Nam, góp phần phát triển nền nông nghiệp hiện
đại, bền vững.
Abstract:
It is undeniable that if well compiled and developed, geographical
indication will make a great contribution to the interests of a nation,
enhancing the competitiveness of commodities, especially in terms
of regional/local specialties. Within the scope of this report, the author
strives to analyze some reasons under the investigation of law-related
terms only. Some remedies will be subsequently suggested in order
to rectify and complete the current law systems, therefore promoting
the efficacy of registering and utilizing the geographical indication in
Vietnam, entirely benefits the national modern and sustainable
agriculture.
51Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
mà không phải là tên chính thức được sử
dụng trên bản đồ địa lý thì sẽ không được
công nhận là CDĐL.
Hai là, hàng hóa có sử dụng CDĐL phải
bắt nguồn, được sản xuất từ khu vực địa lý
mà nó chỉ dẫn.
Ba là, phải có mối liên hệ giữa chất
lượng, tính chất đặc thù của hàng hóa với
yếu tố đặc biệt của môi trường địa lý, bao
gồm yếu tố tự nhiên và yếu tố con người.
Cùng với quá trình hội nhập, khái niệm
CDĐL được pháp điển hóa thông qua các
vòng đàm phán đa phương được ghi nhận
trong Hiệp định về các khía cạnh thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs):
“Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng
hóa được bắt nguồn từ lãnh thổ của một
quốc gia thành viên hoặc từ khu vực hay địa
lý của lãnh thổ đó có chất lượng, uy tín hoặc
đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý
quyết định”2.
Hiệp định TRIPs đã xác định phạm vi
bảo hộ khá chặt chẽ đối với CDĐL. Theo đó,
điều kiện để bảo hộ CDĐL là chỉ dẫn đó phải
chỉ dẫn nguồn gốc lãnh thổ của sản phẩm từ
một quốc gia thành viên hoặc từ khu vực hay
địa phương của lãnh thổ đó, và chất lượng
uy tín hoặc đặc tính của sản phẩm phải gắn
bó chủ yếu với xuất xứ địa lý của nó.
Tại Việt Nam, trước khi Luật Sở hữu trí
tuệ được ban hành, CDĐL được quy định
dưới thuật ngữ “Tên gọi xuất xứ hàng hóa”3.
Theo Bộ luật Dân sự năm 1995, “tên gọi
xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa
phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng
từ nước, địa phương đó với điều kiện những
mặt hàng này có các tính chất, chất lượng
đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo
và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con
người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”4.
Khi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Luật
SHTT) được ban hành, CDĐL được hiểu là
“dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn
gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ
hay quốc gia cụ thể”5.
Như vậy, theo Luật SHTT, thuật ngữ
CDĐL bao gồm cả “tên gọi xuất xứ hàng
hóa”. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, quy định về đăng ký bảo hộ, sử dụng
CDĐL không có nhiều khác biệt so với các
quy định về tên gọi xuất xứ hàng hóa trước
đây. Cách tiếp cận mới này của pháp luật
Việt Nam có khác biệt so với pháp luật châu
Âu6, vì hai đối tượng này được hệ thống
pháp luật châu Âu quy định riêng biệt. Theo
quan điểm của châu Âu, các sản phẩm bảo
hộ dưới hình thức tên gọi xuất xứ là những
sản phẩm có yêu cầu cao hơn về đặc thù,
chúng được sản xuất, chế biến và chuẩn bị
trong một vùng địa lý xác định đã được quy
định và có sử dụng những bí quyết công
nghệ truyền thống đã được công nhận bởi cơ
quan chức năng; sản phẩm bảo hộ dưới hình
thức CDĐL có chất lượng hoặc danh tiếng
có thể là do môi trường địa lý với những đặc
tính vốn có hoặc sự kết hợp yếu tố con người
tạo nên. Mối quan hệ địa lý có thể chỉ xuất
2 Khoản 1 Điều 2 Hiệp định TRIPs.
3 Các quy định về chỉ dẫn địa lý tại Nghị định này cũng được áp dụng cho tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo
hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995 và Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định
chi tiết về sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001
[Khoản 2 Điều 61 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP].
4 Điều 786 Bộ luật Dân sự năm 1995.
5 Khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
6 Pháp luật châu Âu có sự phân biệt rõ ràng giữa thuật ngữ chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa cũng
như các điều kiện để được bảo hộ đối với từng loại. Thực chất điều kiện để được bảo hộ dưới dạng chỉ dẫn
địa lý theo quy định của pháp luật Việt Nam không có sự khác biệt lớn đối với điều kiện bảo hộ của tên gọi
xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật châu Âu.
Số 17 (417) - T9/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
hiện một lần trong các giai đoạn của quá
trình sản xuất, chế biến và chuẩn bị.
2. Thực tiễn bảo hộ và sử dụng chỉ dẫn địa
lý cho nông sản tại Việt Nam
Hiện nay, cả nước có khoảng 800 sản
phẩm nông - lâm - thủy sản có uy tín, phân
bố ở 720 địa phương có thể đăng ký bảo hộ
dưới dạng CDĐL hoặc nhãn hiệu tập thể cho
các đặc sản. Nhưng mới chỉ có khoảng hơn
50 CDĐL và khoảng 140 nhãn hiệu chứng
nhận, nhãn hiệu tập thể được đăng ký, được
bảo hộ7.
Tính đến 31/10/2019, Cục Sở hữu trí tuệ
đã cấp 1.311 Giấy chứng nhận đăng ký
CDĐL, nhãn hiệu chứng nhận (NHCN),
nhãn hiệu tập thể (NHTT) cho các sản phẩm
nông thôn gắn với dấu hiệu chỉ dẫn nguồn
gốc địa lý, trong đó có 70 CDĐL (5,34%),
305 NHCN (23,3%) và 936 NHTT
(71,36%); đã có 1.096 sản phẩm nông sản
(chiếm 83,6%) và 215 sản phẩm nông thôn
khác (chiếm 16,4%) được bảo hộ8.
Đa số các sản phẩm được bảo hộ là sản
phẩm tươi sống, nhiều sản phẩm được bảo
hộ dưới dạng nguyên liệu: cà phê, hạt tiêu,
hoa hồi, vỏ quế9. So với năm 2016, số CDĐL
cho các sản phẩm nông sản đã gia tăng đáng
kể10. Tuy nhiên, sự gia tăng đó vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng quốc gia, chưa
đảm bảo được mục tiêu phát triển nông
nghiệp bền vững.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện
trạng nêu trên. Một trong những nguyên
nhân là hạn chế trong các quy định của pháp
luật liên quan đến đăng ký bảo hộ CDĐL tại
Việt Nam. Cụ thể, để được cấp văn bằng bảo
hộ thì người tiến hành đăng ký CDĐL phải
làm Đơn đăng ký CDĐL. Theo đó, các yêu
cầu liên quan đến hiệu quả sử dụng CDĐL
được cấp văn bằng bảo hộ không phải là yếu
tố cần có trong hồ sơ yêu cầu. Tuy nhiên, đây
mới là nội dung quan trọng đảm bảo hiệu
quả pháp lý cũng như hiệu quả kinh tế cho
việc đăng ký và sử dụng CDĐL cho các sản
vật địa phương.
Bên cạnh đó, cách thức tiến hành xây
dựng một CDĐL cũng chưa được luật hóa11
nên mỗi địa phương phải tự mày mò cách
làm và hiệu quả đạt được không cao (trên
thực tế cứ có 30 đơn đăng ký thì chỉ có
khoảng 10 đơn được chấp nhận cấp bằng).
Mâu thuẫn trong việc khoanh vùng bảo hộ
thường xuyên xảy ra đối với những sản
phẩm mà vùng địa lý được xác định thuộc
lãnh thổ của nhiều địa phương. Ví dụ như về
việc đăng ký bảo hộ CDĐL cho sâm Ngọc
Linh cho thấy điều này. Do bản đồ địa lý xác
định, khoanh vùng cho sâm Ngọc Linh nằm
trên địa bàn của cả hai tỉnh Kon Tum và
Quảng Nam, trong khi pháp luật hiện hành
về đăng ký CDĐL không quy định về giải
quyết xung đột giữa các chủ thể có quyền
7 Nông sản Việt vẫn “gặp khó” khi đăng ký bảo hộ. Thông tin được công bố tại trang
—nong-san-viet-van-gap-kho-khi-dang-ky-bao-ho, truy
cập ngày 25/2/2020.
8 Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Xây dựng- quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn
hiệu tập thể. Xem thêm tại link: truy cập
ngày 20/5/2020.
9 Đào Đức Huấn (2016), Tài liệu hội thảo CDĐL và những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định thương mại
tự do giữa Việt Nam - Eu (Evfta), Hà Nội năm 2016.
10 Cơ cấu sản phẩm các chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ tại Việt Nam năm 2016, xem Đức Huấn (2016), tlđd
số 13.
11 Hiện tại pháp luật chỉ mới đưa ra các điều kiện làm căn cứ bảo hộ đối với một CDĐL, còn quy trình, công
việc cụ thể phải thực hiện cho mỗi công đoạn trong hoạt động đăng ký bảo hộ chưa được hướng dẫn gây
khó khăn cho các địa phương có CDĐL khi lập hồ sơ xin đăng ký bảo hộ.
53Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đăng ký CDĐL. Cho nên, việc đăng ký bảo
hộ CDĐL cho sâm Ngọc Linh hiện được tiến
hành từ những năm 2006 nhưng đến tháng
10 năm 2016 mới được cấp văn bằng bảo hộ,
điều đó gây ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của
các nhà sản xuất tại địa phương, tạo nên một
tiền lệ không tốt cho việc bảo vệ các đặc sản.
Ngoài ra, các quy định của pháp luật về
việc cấp phép quyền sử dụng CDĐL chưa
được cụ thể hóa nên nhiều địa phương sợ rơi
vào tình trạng đăng ký nhưng không thể sử
dụng. Việc đăng ký một CDĐL không dễ
dàng như đối với nhãn hiệu tập thể vì trong
đơn đăng ký phải mô tả tính chất đặc thù của
sản phẩm gắn CDĐL, bản đồ khu vực địa
lý... Vì vậy, các địa phương đã hạn chế việc
nộp đơn CDĐL và có xu hướng chuyển sang
đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng
nhận. Điển hình là trường hợp của vú sữa
Vĩnh Kim - Lò Rèn với vùng sản xuất đã
được xác định, sản phẩm được người tiêu
dùng ưa chuộng nhưng hợp tác xã (HTX)
Vĩnh Kim, ngay từ đầu, đã không tiến hành
đăng ký CDĐL mà chọn hình thức nhãn hiệu
tập thể cho sản phẩm12. Một trong những lý
do quan trọng khiến doanh nghiệp, địa
phương không đăng ký bảo hộ CDĐL là
khâu chứng minh mối liên hệ giữa chất lượng
sản phẩm với khu vực địa lý. Để chứng minh
được mối quan hệ này yêu cầu chủ thể nộp
đơn phải thực hiện rất nhiều các nghiên cứu
sinh hóa nhằm chỉ ra mối quan hệ giữa dấu
hiệu địa lý, sinh thái nông nghiệp và chất
lượng đặc thù của sản phẩm. Trong khi quy
định của Thông tư số 01/2007/TTBKHCN về
các biểu mẫu, chỉ tiêu đánh giá, tiêu chí xác
định... để chứng minh được mối quan hệ này
lại không rõ ràng.
Việc lựa chọn hình thức nhãn hiệu tập thể
để bảo vệ quyền lợi cho mình có bất cập sau:
Nhãn hiệu tập thể có thể được xác lập
quyền bởi một nhóm người, điều này dẫn
đến hiện trạng khi CDĐL là địa danh được
một nhóm người đăng ký dưới dạng nhãn
hiệu tập thể, sau khi được cấp bằng thì nhóm
người này có quyền độc quyền sử dụng và
ngăn cản những người khác sử dụng tên địa
danh này cho sản phẩm mà họ được bảo hộ.
Vì thế, số người còn lại đang tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh sản phẩm có tính
chất, chất lượng đặc thù tại khu vực có
CDĐL đã đăng ký nhãn hiệu tập thể sẽ
không được phép sử dụng tên địa danh này.
Khi đó, tài sản chung đã chuyển hóa thành
tài sản riêng của một nhóm người, dẫn đến
mâu thuẫn cần được giải quyết khi bên bị
ngăn cản sử dụng cho rằng tên địa danh là
tài sản của địa phương, người sản xuất ra sản
phẩm tại khu vực địa lý này có quyền gắn
tên địa danh tương ứng lên sản phẩm của họ.
Thực tế hiện nay đã bắt đầu xuất hiện việc
tranh chấp quyền sử dụng tên địa danh trên
các nông sản đã được bảo hộ dưới góc độ
nhãn hiệu tập thể (tỉnh Bến Tre)13.
Việc đăng ký để cấp văn bằng bảo hộ
CDĐL đã khó, nhưng việc quản lý, sử dụng
nó hiệu quả để mang lại giá trị gia tăng cho
các chủ thể liên quan còn là việc làm quan
trọng hơn. Tuy nhiên, gần 20 năm qua (từ
năm 2001 khi CDĐL đầu tiên được cấp văn
bằng bảo hộ)14, hiệu quả của việc sử dụng
CDĐL của các chủ thể có liên quan không
cao. Điển hình như CDĐL nước mắm Phú
Quốc: Ngày càng có nhiều người lấy màu
pha với nước muối, thêm “hương vị nước
mắm” rồi dán nhãn nước mắm Phú Quốc sau
12 Vú sữa lò rèn Vĩnh Kim được chọn đăng ký nhãn hiệu tập thể từ năm 2006; đến tháng 10/2014 thì mới
được cấp văn bằng bảo hộ cho chỉ dẫn địa lý.
13 Tỉnh Bến Tre đang tiến hành đăng ký CDĐL cho bưởi Năm Roi, tuy nhiên địa danh Bến Tre đã được Cục
Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu kẹo dừa Bến Tre.
14 Nước mắm Phú Quốc được cấp văn bằng bảo hộ ngày 01/6/2001.
Số 17 (417) - T9/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
15 Quang Huy (2014), 80% nước mắm Phú Quốc là hàng giả, tại link https://plo.vn/kinh-te/80-nuoc-mam-
phu-quoc-la-gia-483165.html, truy cập ngày 20/5/2020
16 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Những giải pháp để phát triển đăng ký cho các sản phẩm
đặc sản ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp.
17 Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đăk Lăk.
đó tung ra thị trường bán với giá rất rẻ15. Hay
đối với CDĐL chè Shan tuyết Mộc Châu chỉ
được sử dụng để đóng bao sản phẩm 35kg
khi chuyển đi nơi khác bán chiếm đến
90%16. Khi đến tay nhà phân phối, người ta
lại mở bao gói sản phẩm này ra để đóng
thành gói lẻ bán ra thị trường. Điều này
khiến cho sản phẩm khi đến tay người tiêu
dùng không còn nguyên vẹn bao bì như ban
đầu và việc đóng gói lẻ từ những nhà phân
phối sẽ không tránh khỏi việc sản phẩm bị
trộn lẫn với những sản phẩm chè được sản
xuất từ nơi khác. Tương tự, CDĐL cho cà
phê Buôn Mê Thuột cũng không là ngoại lệ,
việc sử dụng CDĐL hiện nay rất khó triển
khai, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của
CDĐL. Có rất nhiều sản phẩm cà phê thực
tế không được sản xuất tại các khu vực được
xác định trên bản đồ bảo hộ nhưng khi thực
hiện đóng gói tại Buôn Mê Thuột liền được
gắn với CDĐL Buôn Mê Thuột mà không bị
xử lý17.
Hoạt động sử dụng, khai thác CDĐL bị
hạn chế bởi những lý do sau:
(i) Không có quy định cụ thể cho việc
cấp phép quyền sử dụng CDĐL nên chủ thể
quyền và chủ thể có nhu cầu sử dụng CDĐL
còn lúng túng trong việc thiết lập hồ sơ xin
cấp phép cũng như cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng CDĐL.
Trên thực tế hoạt động quản lý và sử
dụng các chỉ CDĐL ở Việt Nam không
thống nhất và không hiệu quả.
Chính vì vậy, cơ chế kiểm soát đối với
chất lượng các sản phẩm được gắn liền với
CDĐL không chặt chẽ, rõ ràng.
(ii) Không có căn cứ pháp lý để các chủ
thể có nhu cầu sử dụng CDĐL xây dựng hệ
thống kiểm soát chất lượng sản phẩm, mà
nếu không có hệ thống này thì các chủ thể
không thể xin cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng CDĐL, vì thế họ gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình triển khai.
Pháp luật hiện hành không có bất kỳ quy
định nào liên quan từ cấp quyền sử dụng,
kiểm soát chất lượng hàng hóa cũng như quy
hoạch vùng địa lý bảo hộ Cơ chế sử dụng
Bảng 3. Mô hình quản lý của một số CDĐL đã được cấp văn bằng bảo hộ
55Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
địa lý do các địa phương quản lý tự quyết
định, ban hành tùy thuộc vào từng địa
phương, dẫn đến sự thiếu thống nhất, hiệu
quả thấp.
(iii) Việc kiểm soát các sản phẩm gắn
CDĐL không được quy định cụ thể trong
luật nên hầu hết các chủ thể có nhu cầu sử
dụng CDĐL chỉ tập trung vào việc xây dựng
hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ mà
không xây dựng hệ thống kiểm soát chất
lượng sản phẩm bên ngoài, kể cả công cụ
truy xuất nguồn gốc. Vì vậy, khi sản phẩm
gắn CDĐL ra khỏi nơi sản xuất thì việc kiểm
soát gần như đã chấm dứt. Điều này làm ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm khi đến tay
người tiêu dùng.
Trên thực tế chúng ta không thể kiểm
soát được chất lượng của sản phẩm được gắn
với CDĐL, đồng thời không có sự phân biệt
giữa sản phẩm trong vùng bảo hộ và sản
phẩm ngoài vùng bảo hộ18. Điều này làm cho
giá thành của các sản phẩm có dán tem
chứng nhận cũng không có sự khác biệt với
sản phẩm không dán tem. Điều đó không
thúc đẩy người sản xuất mặn mà với các quy
trình và chất lượng của sản phẩm gắn liền
với chị dẫn địa lý.
(iv) Nhận thức về giá trị của loại tài sản
SHTT trong đó có CDĐL còn hạn chế (kể cả
các chủ thể quyền, kể cả đối với người có
quyền sử dụng).
Vì cơ chế sử dụng CDĐL không thực sự
hiệu quả trên thực tế, không mang lại sự
khác biệt rõ nét, đặc biệt là liên quan đến giá
thành của sản phẩm có gắn nhãn CDĐL và
các sản phẩm không gắn nhãn nên đã không
tạo được động lực thúc đẩy sự đầu tư, quan
tâm từ các chủ thể sản xuất.
3. Nguyên nhân và kiến nghị giải pháp
nâng cao hiệu quả về bảo hộ, sử dụng chỉ
dẫn địa lý cho nông sản Việt Nam
3.1. Nguyên nhân
1. Quy định của pháp luật chưa phù hợp
với thực tiễn
Như đã phân tích ở trên, các quy định
của pháp luật Việt Nam về quy trình đăng ký
bảo hộ, sử dụng CDĐL chưa phù hợp với
thực tiễn và dường như đi ngược với pháp
luật ở các nước trên thế giới. Điều này khiến
cho hiệu quả thực thi các quy định không
cao.
2. Quy định của pháp luật tập trung chủ
yếu vào hoạt động đăng ký mà chưa chú
trọng đến hoạt động quản lý, sử dụng và bảo
vệ quyền
Các quy định về CDĐL trong Luật Sở
hữu trí tuệ cũng như các văn bản hướng dẫn
chỉ dừng lại ở quy trình đăng ký bảo hộ mà
không đề cập đến hoạt động quản lý, sử
dụng và bảo vệ CDĐL đã được đăng ký bảo
hộ. Do vậy, hầu hết các CDĐL được đăng ký
nhưng lại không được cấp quyền sử dụng
cho một tổ chức, cá nhân nào để khai thác
thương mại dẫn đến tình trạng sử dụng tự do
mà không có một cơ chế kiểm soát hiệu quả
làm ảnh hưởng đến tính chất, chất lượng của
sản phẩm, uy tín của CDĐL.
3. Quy định về CDĐL chưa tương thích
với chuẩn mức quốc tế
Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa
đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 đã có
những thay đổi tích cực liên quan đến thủ tục
đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng
sở hữu công nghiệp phù hợp hơn với các
chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, theo Hồ sơ
đề nghị xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ
18 4/8 tổ chức/cá nhân được sử dụng tem CDĐL nho Ninh Thuận nằm ngoài vùng bảo hộ, thông tin công bố
tại NTO - Báo Ninh Thuận (2016), Phát triển thương hiệu các sản phẩm đặc thù của tỉnh,
tinh.aspx, truy cập ngày 20/5/2020.
Số 17 (417) - T9/202056
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ dự
kiến sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến
tại Kỳ họp tháng 10 năm 2021 và trình Quốc
hội thông qua vào Kỳ họp tháng 5 năm 2022
thì các quy định về CDĐL hiện có của Luật
Sở hữu trí tuệ chưa hoàn toàn tương thích
với các cam kết trong các điều ước quốc tế
mà Việt Nam mới là thành viên. Bên cạnh
đó, các quy định về điều kiện bảo hộ CDĐL
nông sản của Việt Nam cũng có nhiều khác
biệt so với pháp luật quốc tế. Ví dụ như quy
định về điều kiện cần để sản phẩm được
đăng ký bảo hộ dưới dạng CDĐL19.
4. Hoạt động quản lý, sử dụng và bảo vệ
CDĐL chưa được quan tâm đúng mức
CDĐL là tài sản quốc gia, là yếu tố quan
trọng để chúng ta xây dựng được thương hiệu
cho mặt hàng nông sản, giúp phát triển kinh
tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, với quy
định của pháp luật hiện hành, dường như
chúng ta chưa thật sự quan tâm đến đối tượng
này. Pháp luật chưa tạo được một cơ chế hỗ
trợ về chuyên môn cũng như ngân sách cho
hoạt động nghiên cứu, bảo hộ CDĐL cho các
sản phẩm nông sản địa phương.
3.2. Kiến nghị
1. Cần xây dựng thể chế, chính sách
nhằm hỗ trợ cho việc phát triển nông sản là
đặc sản của địa phương.
2. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về
đăng ký, quản lý, sử dụng và bảo vệ CDĐL
theo hướng: cụ thể hoá các nội dung liên
quan đến quản lý, sử dụng CDĐL để đẩy
mạnh hoạt động này; Quy định rõ quyền sở
hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng
CDĐL.
3. Cần xác định rõ vai trò của các cơ
quan quản lý, cơ quan chuyên môn, chủ thể
sử dụng, tổ chức tập thể, hiệp hội trong
việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ
quyền đối với CDĐL.
4. Xây dựng mô hình chuẩn về xây
dựng, quản lý, khai thác các sản phẩm có
tiềm năng được bảo hộ CDĐL, đưa cơ chế
bảo hộ CDĐL vào một phần trong chính
sách phát triển nông nghiệp; xúc tiến việc
đăng ký bảo hộ CDĐL ra nước ngoài cho
những nông sản đã đăng ký bảo hộ trong
nước, đặc biệt ở những quốc gia có nhiều
người Việt sinh sống như Mỹ, Pháp, Đức,
Nga...
5. Các địa phương cần rà soát lại các đặc
sản để tiến hành các thủ tục đăng ký CDĐL,
đồng thời cần tăng cường công tác phòng,
chống sản xuất, buôn bán hàng hoá giả mạo
CDĐL trên địa bàn nhằm bảo vệ danh tiếng,
uy tín của các sản phẩm mang CDĐL.
19 Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện sau: 1. Sản phẩm mang CDĐL có nguồn gốc
địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh tổ hoặc nước tương ứng với CDĐL; 2. Sản phẩm mang CDĐL có
danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu [Điều 79 Luật SHTT].
TàI LIệu THAM KHẢo
1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với địa danh dùng cho đặc sản địa
phương, Hà Nội năm 2007.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ, Xây dựng hệ thống quản lý CDĐL dành cho hàng Nông sản,
Hà Nội năm 2007.
3. Cục Sở hữu trí tuệ, Những giải pháp để phát triển đăng ký cho các sản phẩm đặc sản ở
Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, năm 2007.
4. Đào Đức Huấn, Tài liệu hội thảo CDĐL và những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định
thương mại tự do giữa Việt Nam - Eu (Evfta), Hà Nội năm 2006.
(Xem tiếp trang 43)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ho_chi_dan_dia_ly_yeu_cau_cua_phat_trien_nong_nghiep_ben.pdf