Our research was carried out to find out statistic on depth frozen storage of skull bones for transplant autologous tissue at the laboratory - Hanoi Medical University from January 2/2002 to
12/2010. The results showed that total number of preservation: 3587, in which 2835 patients were
male, accounting for 79%, female: 746 patients, accounting for 20.8%, with 3031 patients from 18 to
60 years old, accounting for 84.5%. More than 90% of patients with bone preservation is traumatic
brain injury. There are 38 hospitals sent skull to be preserved in the laboratory. There were 2.217
(up 61.8%) bones were returned to transplant for patients. There are 1632 (73.6%) patients with
bones were returned to transplant in 3 to 6 months. Number of cases preservation is increasing,
especially in working-age men.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo quản lạnh sâu các mảnh xương sọ tại Labo bảo quản mô trường đại học y Hà nội từ 2002-2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 80 (3) - 2012 147
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2012
BẢO QUẢN LẠNH SÂU CÁC MẢNH XƯƠNG SỌ
TẠI LABO BẢO QUẢN MÔ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI TỪ 2002 - 2010
Quách Thị Yến1, Ngô Duy Thìn2
1Học viện Y học Cổ truyền Tuệ Tĩnh, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát tình hình bảo quản lạnh sâu các mảnh xương sọ tại labo bảo
quản mô Đại học Y Hà Nội từ 2002 - 2010 và đưa ra những nhận xét. Kết quả cho thấy tổng số ca bảo quản:
3587, trong đó 2835 bệnh nhân là nam, chiếm 79%; nữ: 746 bệnh nhân, chiếm 20,8%, có 3031 bệnh nhân
từ 18 đến 60 tuổi, chiếm 84,5 %. Hơn 90% bệnh nhân gửi xương bảo quản là do tai nạn giao thông. Có 38
bệnh viện gửi xương sọ đến bảo quản tại labo. Có 2217 (chiếm 61,8%) mảnh xương đã được ghép trả lại
cho bệnh nhân; 632 mảnh (17,6%) hiện còn bảo quản chưa ghép lại; 726 (20,2%) bệnh nhân tử vong; số
còn lại không khai thác được thông tin (0,4%). Có 1632 (73,6%) bệnh nhân được ghép lại mảnh xương trong
3 - 6 tháng đầu. Số ca bảo quản ngày càng tăng, đặc biệt là nam trong độ tuổi lao động. Số bệnh viện gửi
bảo quản tăng nhanh trong những năm gần đây. Thời gian bảo quản xương để ghép lại tối thiểu là 3 tháng.
Từ khóa: bảo quản lạnh sâu, ghép tự thân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỗi năm ở nước ta có hàng chục nghìn
trường hợp chấn thương sọ não, u não phải
phẫu thuật mở hộp sọ giải áp [1]. Các mảnh
xương sọ lấy ra trong phẫu thuật giải áp
không thể lắp lại được ngay mà phải bảo quản
tạm thời chờ ghép lại cho bệnh nhân sau này
nhằm khắc phục tình trạng khuyết sọ. Việc lắp
lại mảnh xương không những duy trì chức
năng bảo vệ não mà còn đảm bảo tính thẩm
mỹ cho bệnh nhân [2].
Trước đây, mảnh xương này thường
được bảo quản tạm thời bằng cách vùi dưới
da bụng bệnh nhân. Tuy nhiên, biện pháp
này bắt buộc bệnh nhân phải trải qua hai lần
phẫu thuật: một là phẫu thuật để vùi mảnh
xương ngay sau mở hộp sọ giải áp; hai là
lấy mảnh xương ra để ghép lại. Quá trình
phẫu thuật tuy đơn giản nhưng thường để lại
sẹo xấu hoặc thể xẩy ra biến chứng, đặc biệt
là nhiễm trùng. Mảnh xương để dưới da
bụng lâu ngày có thể bị ăn mòn, di chuyển,
gây khó chịu cho bệnh nhân.
Cũng đã có nhiều các nghiên cứu thực
nghiệm sử dụng các vật liệu để tạo hình vòm
sọ như titan, gốm, xi măng sinh học, vật liệu
tổng hợp composite [3]hoặc sử dụng xương
tự thân (xương mào chậu, sụn sườn). Tuy
nhiên, thực tế cho thấy mảnh xương của
chính bệnh nhân là loại vật liệu lý tưởng nhất
nếu được bảo quản đúng kỹ thuật. Năm
2002, Labo bảo quản mô - Trường Đại học Y
Hà Nội đã nghiên cứu ứng dụng quy trình bảo
quản lạnh sâu bảo quản các mảnh xương sọ
này để ghép lại cho bệnh nhân. Trong 8 năm
áp dụng, đã có hơn 3000 mảnh xương sọ
được bảo quản, trong đó hơn 2000 mảnh đã
được ghép trả lại cho bệnh nhân.
Bảo quản lạnh sâu mảnh mô xương sọ để
ghép lại tự thân cho các bệnh nhân mở nắp
hộp sọ giải áp là một phương pháp đã được
áp dụng từ lâu trên thế giới. Tuy nhiên, đây lại
phương pháp mới ở nước ta. Để có những cơ
sở nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp
này, chúng tôi tiến hành đề tài: Khảo sát tình
hình bảo quản lạnh sâu các mảnh xương sọ
148 TCNCYH 80 (3) - 2012
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tại Labo bảo quản mô - Trường Đại học Y Hà
Nội từ 2002 - 2010 với mục tiêu:
Khảo sát các đặc điểm dịch tễ về thực
trạng bảo quản lạnh sâu các mảnh xương sọ
tại Labo bảo quản mô - Trường Đại học Y Hà
Nội từ năm 2002 - 2010.
Nhận xét tình hình bảo quản lạnh sâu
mảnh xương sọ tại Labo bảo quản mô -
Trường Đại học Y Hà Nội từ 2002 - 2010.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tất cả những mảnh xương sọ được bảo
quản tại Labo bảo quản mô - Trường Đại học
Y Hà Nội từ tháng 2/2002 đến 12/2010.
2. Phương pháp và chỉ tiêu nghiên cứu
2.1. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu mô tả hồi cứu.
2.2. Biến số và chỉ số nghiên cứu
Tổng số mẫu bảo quản, số mẫu ghép lại,
số mẫu chưa ghép, số mẫu tử vong.
Tuổi và giới của bệnh nhân.
Nguyên nhân mở hộp sọ.
Số mẫu bảo quản trong từng năm.
Số bệnh viện gửi mẫu xương sọ bảo quản.
Số mẫu bảo quản của từng bệnh viện
trong từng năm.
Số ca ghép lại/tổng số ca bảo quản trong
từng năm.
Thời gian ghép lại: < 3 tháng; 3 - < 6 tháng;
6 - < 12 tháng; ≥ 12 tháng.
Thời gian ghép lại theo năm.
2.3. Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thu thập thông tin bằng cách
điền phiếu theo mẫu.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được làm sạch trước khi nhập
vào máy tính. Xử lý số liệu bằng phần mềm
chương trình SPSS 15.0 với các test thống kê
thích hợp trong y học.
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu
Do nghiên cứu của chúng tôi chỉ là thống
kê các yếu tố liên quan đến mảnh xương sọ
của chính các bệnh nhân gửi tại labo, không
có sự can thiệp vào mẫu nghiên cứu nên vấn
đề về đạo đức nghiên cứu không cần thiết
phải đặt ra. Tuy nhiên chúng tôi cam đoan giữ
bí mật các thông tin liên quan đến các bệnh
nhân có mẫu nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm dịch tễ liên quan đến bệnh
nhân và mẫu xương sọ được bảo quản
1.1. Tuổi và giới
Tuổi trung bình của bệnh nhân gửi là 37,8
± 15,8, nhỏ nhất là 1 tuổi và nhiều nhất là 92
tuổi. Có tới 3031 bệnh nhân từ 18 đến 60 tuổi,
chiếm 84,5 %. Số bệnh nhân dưới 18 tuổi,
chiếm 5,9%, trong đó có 14 bệnh nhân dưới 4
tuổi. Nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi có 309
bệnh nhân chiếm 8,6% (biểu đồ 1).
Trong tổng số 3587 bệnh nhân gửi mảnh
xương sọ có tới 2835 bệnh nhân là nam giới,
chiếm 79%; nữ giới có 746 bệnh nhân, chiếm
20,8%. Có 0,2% bệnh nhân không khai thác
được thông tin.
1.2. Nguyên nhân mở hộp sọ
Trong tổng số 3587 mảnh xương gửi bảo
quản, có 3299 (chiếm 92%) trường hợp lấy ra
từ mở hộp sọ giải áp là do nguyên nhân tai
nạn giao thông. 121 trường hợp (chiếm 3,4%)
không hai thác được thông tin. Số còn lại
chiếm 4,6% do các nguyên nhân khác như: u
não (UN), dị dạng mạch máu não (DDMMN),
tai biến mạch máu não (TBMMN).
2. Tình hình bảo quản và ghép lại mảnh
xương sọ trong 9 năm (từ 2002 - 2010)
2.1. Số mảnh xương bảo quản và ghép lại
TCNCYH 80 (3) - 2012 149
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2012
Biểu đồ 1. Phân bố nhóm tuổi
Bảng 1. Phân bố nguyên nhân mở hộp sọ
Trong 9 năm, kể từ năm 2002 đến hết
31/12/2010 đã có 3587 mẫu mô xương sọ
được gửi bảo quản tại labo bảo quản mô Đại
học Y Hà Nội. Trong đó có 2217 mảnh (chiếm
61,8%) đã được ghép trả lại cho bệnh nhân;
632 mảnh (17,6%) hiện còn bảo quản chưa
ghép lại; 726% (20,2%) bệnh nhân tử vong; số
còn lại không khai thác được thông tin (0,4%).
Nguyên nhân
Tổng
số
Chấn
thương sọ
não
U
não
Dị dạng
mạch
máu não
Abces
não
Tai biến
mạch
mãu
náo
Không
rõ
Số ca bảo
quản n 3587 3299 76 84 4 3 121
% 100 92 2,1 2,3 0,1 0,1 3,4
Bảng 2. Số mảnh xương sọ gửi bảo quản tại labo và số đã ghép lại
Tổng Ghép lại Chưa ghép Tử vong
Số mảnh xương
bảo quản và ghép lại
n 3587 2217 632 726
% 100 61,8 17,6 20,2
2.2. Số mảnh xương bảo quản theo từng năm
Qua biểu đồ 3 chúng tôi thấy: số lượng mảnh xương sọ bảo quản tăng lên từng năm. Năm
2002, khi mới thành lập chỉ có 66 mẫu, năm 2010 có tới 760 mẫu gửi bảo quản. Giai đoạn từ năm
2006 đến nay tăng nhanh hơn giai đoạn trước.
2.3 Số bệnh viện gửi xương sọ bảo quản theo năm
Số bệnh viện gửi xương bảo quản tăng lên hàng năm. Năm 2002 chỉ có 5, năm 2010 đã có 38
bệnh viện gửi xương bảo quản tại labo.
2.4. Số ca ghép lại/tổng số ca gửi theo năm
150 TCNCYH 80 (3) - 2012
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Trong tổng số 3587 mẫu bảo quản đã có 2217 mẫu đã được ghép lại cho chính bệnh nhân,
chiếm 61,8%. Tỷ lệ ghép lại tăng lên hàng năm và tương đối ổn định.
2.5. Thời gian bảo quản để ghép lại theo năm
Trong tổng số 2217 trường hợp đã ghép trả lại cho bệnh nhân, số mảnh xương bảo quản 3 -
6 tháng chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 1632 (73,6%) và có xu hướng tăng lên, 6 - 12 tháng có 209
mẫu, chiếm 9,4%; trên 12 tháng có 57 mẫu, chiếm 2,6%; ghép sớm trước 3 tháng có 310 mẫu,
chiếm 14%.
Biểu đồ 2. Số lượng mảnh xương sọ gửi bảo quản theo năm
Biểu đồ 3. Số bệnh viện gửi theo năm
Bảng 3. Số ca ghép lại / tổng số ca gửi theo năm
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng số bảo quản/ghép lại
Số ca ghép
lại
24
36,4%
118
56,5%
168
59,4%
195
60%
207
64,1%
304
65,7%
350
62,9%
385
63,8%
466
61,4%
2217
(61,8%)
Số ca bảo
quản 66 209 283 325 320 463 558 603 760 3587
TCNCYH 80 (3) - 2012 151
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2012
IV. BÀN LUẬN
Trong 3587 bệnh nhân mở hộp sọ phải gửi
mảnh xương gửi bảo quản, có tới 2835 bệnh
nhân là nam giới, chiếm 79%; nữ giới có 746
bệnh nhân, chiếm 20,8%, có 3031 bệnh nhân
từ 18 đến 60 tuổi, chiếm 84,5%. Như vậy
nam giới trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ
lớn nhất. Đây cũng là lực lượng chính tham
gia lao động, trụ cột gia đình, thời gian giao
tiếp, đi lại nhiều nên việc ghép trả lại mảnh
xương cho bệnh nhân là rất quan trọng nhằm
phục hồi khuyết sọ, bảo vệ não, đảm bảo tính
thẩm mỹ.
Có 3299 bệnh nhân (chiếm 92%) trường
hợp mở nắp hộp sọ để giải áp phải gửi mảnh
xương bảo quản là do nguyên nhân tai nạn
giao thông. Đây cũng là con số phù hợp với
tình trạng tai nạn giao thông hiện nay ở nước
ta. Số liệu của chúng tôi cũng tương tự của
Đào Xuân Lý [4].
Qua thống kê thấy số lượng mảnh xương
gửi bảo quản tăng lên từng năm. Năm 2002,
khi mới thành lập chỉ có 66 mẫu, riêng năm
2010 có tới 760 mẫu gửi bảo quản, gấp hơn
10 lần.
Song song với việc tăng về số lượng bệnh
nhân thì số lượng các bệnh viện gửi xương
bảo quản cũng tăng. Đến 2010, số bệnh viện
gửi đã đạt 38. Điều này có 2 lý do: Một là quy
trình bảo quản lạnh sâu mảnh mô xương sọ
đã được triển khai trong một thời gian dài, có
hiệu quả, có nhiều ưu điểm hơn so với
phương pháp vùi xương dưới da bụng bệnh
nhân nên ngày càng có nhiều bác sỹ áp dụng.
Hai là trong gần 10 năm qua, số lượng các cơ
sở y tế đủ khả năng mở hộp sọ giải áp cũng
tăng lên. Đa phần các phẫu thuật viên sọ não
đều được học tập tại các trung tâm lớn như
Việt Đức và cũng từ đây họ biết đến phương
pháp bảo quản lạnh sâu mảnh xương. Nhiều
bệnh viện chúng tôi chưa triển khai cung cấp
tủ lạnh bảo quản tạm thời cũng như túi đựng
vô trùng nhưng họ biết cách gửi mảnh xương
đến như bệnh viện Việt Tiệp, Hải Dương,
Thanh Hóa v.v Hiện nay số lượng bệnh viện
gửi có xu hướng ổn định, không tăng. Theo
chúng tôi, các cơ sở y tế phía Bắc, ngoài 38
bệnh viện đã nêu trên thì các bệnh viện khác
chưa đủ khả năng phẫu thuật sọ não. Trong
tổng số 3587 mảnh xương được bảo quản tại
labo từ 2002 - 2010, có 2217 mảnh đã hoàn
thiện quy trình bảo quản và được ghép trở lại
cho bệnh nhân, chiếm 61,8%. Ngân hàng mô
của Trường Đại học Y Phạm Ngọc Thạch -
thành phố Hồ Chí Minh thống kê trong 9 năm
từ 1999 - 2007 đã bảo quản 18,000, số ca
ghép lại 8000 (tỷ lệ trên 40%). Như vậy, số ca
bảo quản của Labo bảo quản mô Đại học Y
Hà Nội ít hơn nhưng tỷ lệ ghép lại nhiều hơn.
Số lượng mảnh xương ghép lại đánh giá hiệu
quả của phương pháp bảo quản.
Có 20% số mảnh xương được bảo quản
nhưng không ghép lại vì bệnh nhân tử vong.
Nhiều trường hợp trong số đó phải bảo quản
hàng năm, thậm chí 3 - 4 năm. Gia đình chấp
thuận bảo quản như một phần thân thể của
người bệnh, khi chết mang về an táng. Tuy
nhiên cũng có nhiều trường hợp bệnh nhân tử
vong ngay trong ngày đầu, tuần đầu. Theo
chúng tôi các bác sỹ phẫu thuật nên có tiên
lượng sát với tình trạng bệnh nhân để hạn chế
những trường hợp phải mang xương đi bảo quản
nhưng không ghép lại được cho bệnh nhân
được vì tử vong nhằm giảm chi phí bảo quản.
Ngoài tỷ lệ ghép lại tăng lên hàng năm thì
thời gian bảo quản đủ để ghép lại cũng ổn
định. Trong tổng số 2217 trường hợp ghép lại,
thời gian ghép lại trong vòng 3 - 6 tháng chiếm
tỷ lệ cao nhất, với 1632 mẫu, chiếm 73,6%; 6 -
12 tháng có 209 mẫu, chiếm 9,4%; trên 12
tháng có 57 mẫu, chiếm 2,6%; ghép sớm trước
3 tháng có 310 mẫu, chiếm 14%. Thời gian
chờ ghép lại ít nhất là 3 tháng theo chúng tôi
152 TCNCYH 80 (3) - 2012
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
là phù hợp cho cả bệnh nhân và cả labo bảo
quản. Nếu quy trình kéo dài, bệnh nhân phải
chờ đợi mảnh ghép quá lâu, ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống. Ngược lại, nếu quy
trình rút ngắn, phải chi phí tốn kém hơn do phải
tăng số lần chiếu xạ khử khuẩn nhưng lại phải
chờ bệnh nhân hồi phục mới ghép lại được.
V. KẾT LUẬN
Qua số liệu thống kê 8 năm (từ 2002 –
2010) về tình hình bảo quản lạnh sâu mảnh
mô xương sọ để ghép lại cho bệnh nhân mở
hộp sọ giải áp tại labo bảo quản mô Đai học Y
Hà Nội, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Tổng số ca bảo quản: 3587, trong đó 2835
bệnh nhân là nam, chiếm 79%; nữ: 746 bệnh
nhân, chiếm 20,8%, có 3031 bệnh nhân từ 18
đến 60 tuổi, chiếm 84,5 %.
Hơn 90% bệnh nhân gửi xương bảo quản
là do tai nạn giao thông.
Có 38 bệnh viện gửi xương sọ đến bảo
quản tại labo.
Có 2217 (chiếm 61,8%) mảnh xương đã
được ghép trả lại cho bệnh nhân; 632 mảnh
(17,6%) hiện còn bảo quản chưa ghép lại;
726% (20,2%) bệnh nhân tử vong; số còn lại
không khai thác được thông tin (0,4%).
Có 1632 (73.6%) bệnh nhân ghép lại mảnh
xương trong 3 - 6 tháng đầu.
Số ca bảo quản ngày càng tăng, đặc biệt là
nam trong độ tuổi lao động. Số bệnh viện gửi
bảo quản tăng nhanh trong những năm gần đây.
Thời gian bảo quản để ghép lại tối thiểu là
3 tháng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Chính (2009). Tình hình
cấp cứu chấn thương sọ não tại bệnh viện
Việt Đức sau 1 năm thực hiện nghị quyết 32.
Trích từ Web: phòng chống tai nạn thương tích
2. Lý Thị Tuyết Hằng, Nguyễn Thị Mộng
Trinh (2000). Nghiên cứu bảo quản mảnh
xương sọ để ghép tự thân. Luận văn tốt
nghiệp bác sĩ y khoa - Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Công Tô (2004). Nghiên cứu
tạo hình vòm sọ bằng vật liệu tổ hợp Cacbon
Intost 2. Luận văn Tiến sỹ y học
4. Đào Xuân Lý (2008). Nghiên cứu phẫu
thuật tạo hình vòm sọ bằng xương sọ tự thân
bảo quản lạnh sâu. Luận văn bác sỹ chuyên
khoa 2 - Đại học Y Hà Nội.
Summary
DEEPTH FROZEN STORAGE OF SKULL BONES FOR TRANSPLANT
AUTOLOGOUS TISSUE AT LABORATORY OF TISSUE
PRESERVATION - HANOI MEDICAL UNIVERSITY FROM 2002 - 2010
Our research was carried out to find out statistic on depth frozen storage of skull bones for trans-
plant autologous tissue at the laboratory - Hanoi Medical University from January 2/2002 to
12/2010. The results showed that total number of preservation: 3587, in which 2835 patients were
male, accounting for 79%, female: 746 patients, accounting for 20.8%, with 3031 patients from 18 to
60 years old, accounting for 84.5%. More than 90% of patients with bone preservation is traumatic
brain injury. There are 38 hospitals sent skull to be preserved in the laboratory. There were 2.217
(up 61.8%) bones were returned to transplant for patients. There are 1632 (73.6%) patients with
bones were returned to transplant in 3 to 6 months. Number of cases preservation is increasing,
especially in working-age men.
Keywords: deepth frozen storage, autologous transplant
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_quan_lanh_sau_cac_manh_xuong_so_tai_labo_bao_quan_mo_tru.pdf