Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch

Ba là, định hướng hoạt động du lịch và các hoạt động dân sinh khác trong lòng di sản một cách bền vững; quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản; những gì được làm, không được làm, những gì nên, không nên làm; kiểm soát nghiêm ngặt tác động về sức chứa, loại hình hoạt động và cân bằng nhịp sống của hệ sinh thái tại di sản; khuyến khích cộng đồng địa phương chủ động cùng tham gia quản lý di sản, gắn lợi ích của cộng đồng địa phương với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Bốn là, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về di sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng công nghệ 4.0 trong quản lý khai thác di sản văn hóa và phát triển du lịch di sản; tăng cường đào tạo kỹ năng thuyết minh và ứng dụng thuyết minh tự động để làm thăng hoa giá trị cho di sản trong hoạt động hướng dẫn du lịch và phát triển sản phẩm du lịch thông minh. Năm là, xử lý nghiêm, triệt để những vi phạm đối với di sản, gắn liền với quá trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, người dân và du khách; khuyến khích, tôn vinh các hoạt động du lịch tình nguyện, tự nguyện đóng góp nguồn lực, trí tuệ cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Du lịch có trách nhiệm sẽ là con đường đạt tới phát triển du lịch bền vững. Để thực hiện được mục tiêu này, bên cạnh chính sách hỗ trợ cho nguồn lực bảo vệ văn hóa, môi trường, cần có sự hợp tác của các doanh nghiệp du lịch, truyền thông. Đồng thời, du khách cũng cần nêu cao ý thức để “du lịch có trách nhiệm” như phản xạ có trong mỗi người nhằm phát huy các giá trị động lực, tạo sức lan tỏa của hoạt động du lịch, tăng cường đóng góp tích cực từ các hoạt động này cho sự nghiệp bảo tồn giá trị văn hóa thông qua con đường du lịch nhằm phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương nói riêng và của quốc gia nói chung.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 26 - Tháng 12 - 201866 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 1. Tổng quan mối quan hệ tương tác giữa di sản văn hóa và du lịch Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch (nguồn nguyên liệu để hình thành lên hoạt động du lịch). Khi nói di sản văn hóa là nguồn nguyên liệu để hình thành lên hoạt động du lịch, tức là chúng ta nói đến vật hút/đối tượng hưởng thụ của du khách. Nguồn nguyên liệu di sản văn hóa có hai loại cơ bản: Văn hóa vật thể là những sáng tạo của con người tồn tại, hiện hữu trong không gian, có thể cảm nhận bằng thị giác, xúc giác, đó là những di tích lịch sử văn hóa, những mặt hàng thủ công, các công cụ trong sinh hoạt, sản xuất, các món ăn dân tộc Văn hóa phi vật thể như lễ hội, các loại hình nghệ thuật, cách ứng xử, giao tiếp Theo quan niệm của ngành du lịch, các thành tố văn hóa được xếp vào tài nguyên nhân văn (đối lập với tài nguyên tự nhiên như biển, sông hồ, núi rừng, hang động) cụ thể là: Các di tích lịch sử - văn hóa, hàng lưu niệm mang tính đặc thù dân tộc; ẩm thực; lễ hội; các trò chơi giải trí; phong tục, tập quán, cách ứng xử, giao tiếp; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học nghệ thuật BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM THÔNG QUA PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÀ VĂN SIÊU Tóm tắt Việt Nam có quyền tự hào về kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, đa dạng, độc đáo và đậm bản sắc dân tộc. Những di sản văn hóa ấy đã và đang được bảo tồn, tôn tạo, phục dựng, lưu truyền, quảng bá và làm thăng hoa giá trị, phục vụ chính nhu cầu thụ hưởng văn hóa của người dân và du khách. Những cố gắng nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản, phải vượt qua không ít khó khăn thách thức nhưng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đóng góp vào quá trình đó phải kể đến vai trò quan trọng của hoạt động du lịch. Bài viết này bàn sâu về cách thức làm du lịch dựa vào di sản và vì di sản, qua đó khẳng định phát triển du lịch là con đường tốt nhất để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Từ khóa: Bảo tồn, phát huy, di sản văn hóa, du lịch Abstract Vietnam has the right to be proud of the treasure of cultural heritage that is massive, rich, unique and national identified. These cultural heritages have been preserved, restored, passed by tradition, promoted and increased the values to serve the needs of cultural enjoyment of people and visitors. Efforts of Vietnam in preserving and promoting heritage values has to overcome many difficulties and challenges but have achieved many remarkable results. It is neccessary to mention the important role of tourism activities in this process. This article focuses on the methods of promoting tourism based on heritage and for heritage, thereby confirming tourism development is the best way to preserve and promote the value of Vietnamese cultural heritage. Keywords: Conservation, promotion, cultural heritage, tourism VĂN HÓA DU LỊCH 67Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Vì vậy mà di sản văn hóa là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển. Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hóa là một trong những điều kiện đặc trưng cho phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Giá trị của những di sản văn hóa: di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ sở văn hóa nghệ thuật, các bảo tàng là những đối tượng cho du khách khám phá, thưởng thức, để du lịch khai thác và sử dụng. Sự khai thác và thu lợi nhuận từ tài nguyên, việc xây dựng các khu điểm du lịch đều phản ánh trí tuệ và sức sáng tạo của loài người. Chính những tài nguyên này không chỉ tạo ra môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Ngược lại, đối với văn hóa, du lịch cũng thể hiện vai trò hết sức quan trọng trong mối quan hệ này. Du lịch trở thành phương tiện để truyền tải và trình diễn các giá trị văn hóa của một địa phương, một dân tộc để mọi khách du lịch trong nước và quốc tế khám phá, chiêm ngưỡng, học tập và thưởng thức. Nhờ có du lịch mà sự giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng, các quốc gia được tăng cường và mở rộng. Du lịch còn là phương tiện để đánh thức và làm trỗi dậy các giá trị văn hóa dân tộc đang bị chìm lắng hoặc mai một dần theo thời gian trước những biến cố của lịch sử, biến động của môi trường thiên nhiên. Đấy có thể là một công trình kiến trúc cổ, một tập quán sinh hoạt, một làn điệu dân ca, một món ăn dân tộc thể hiện trình độ văn hóa, mỹ thuật, kỹ thuật của các thời đại đã qua. Nhờ có du lịch mà các tài sản văn hóa đó được khôi phục, khai thác và tôn tạo, phục vụ cho nhu cầu được thẩm nhận giá trị của những di sản đó. Xét ở góc độ kinh tế, nhờ có du lịch đã tạo ra một nguồn thu nhập cho phép các địa phương tích lũy và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có văn hóa. Nhờ đó các tài sản văn hóa được bảo vệ, tu sửa, tôn tạo đồng thời với việc xây dựng mới các cơ sở văn hóa và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa đương đại. Chính vì di sản văn hóa và du lịch có mối quan hệ tương tác lẫn nhau như vậy nên văn hóa và du lịch không thể tách rời nhau và càng không thể đối lập nhau. 2. Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa Du lịch phát huy giá trị di sản văn hóa: Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu và sẽ mãi mãi là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như nước ta thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du lịch di sản hướng tới thu hút khách tìm đến những giá trị về nguồn, tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, các tộc người. Ở nước ta, chủ trương phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Du lịch văn hóa vì vậy là một dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam từ tham quan di tích lịch sử văn hóa, hệ thống bảo tàng, các công trình văn hóa, hoạt động nghệ thuật, cho tới tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm văn hóa, lễ hội, lối sống địa phương, thưởng thức ẩm thực, sản vật vùng miền Du lịch tạo nguồn lực tài chính, sự đam mê, trí tuệ để thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản: Chính nhu cầu tham Số 26 - Tháng 12 - 201868 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA quan, tìm hiểu, trải nghiệm của du khách đã thôi thúc chính quyền và người dân biết quý trọng, tự hào, quan tâm chăm lo gìn giữ bảo tồn, phục dựng và làm sáng tỏ, phát huy những giá trị vốn quý của di sản văn hóa. Hoạt động du lịch dựa vào di sản ở nhiều nơi như Huế, Hội An, Hạ Long đã và đang trở thành cơ sở, động lực sinh kế chính, ngành nghề chủ yếu của người dân cũng như ngành kinh tế chủ lực của địa phương. Du lịch di sản vừa tạo ra thu nhập, việc làm, vừa tạo động cơ, vừa tạo ra nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá trị di sản; đồng thời hỗ trợ tích cực nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường hiểu biết, tôn trọng đa dạng và giao thoa các nền văn hóa, làm cơ sở hình thành quy tắc ứng xử phù hợp giữa người dân với khách du lịch và với di sản. Những lợi ích của du lịch di sản là không nhỏ và được chia sẻ đến doanh nghiệp, người dân và một phần doanh thu từ du lịch di sản được quay trở lại tái đầu tư vào việc bảo tồn, tôn tạo, tôn vinh, phục dựng và quản lý di sản. Với ý nghĩa đó, du lịch di sản đóng góp to lớn cho việc bảo tồn và phát huy bền vững di sản văn hóa. Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch: Di sản văn hóa là tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách tham quan trong nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch xem đây là nền tảng, trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế du lịch bên cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và nguồn nhân lực. Di sản văn hóa cũng là công cụ hỗ trợ tích cực trong việc định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Chúng ta có quyền tự hào về bề dày lịch sử ngàn đời của đất nước với 54 dân tộc anh em đã để lại cho hôm nay một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Đến nay đã có 27 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới, trong đó có 8 di sản thiên nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh Hạ Long, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, Quần thể danh thắng Tràng An, Thành nhà Hồ, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quần thể di tích Cố đô Huế, Khu Phố cổ Hội An, Khu Di tích Mỹ Sơn); 12 di sản văn hóa phi vật thể (Nhã nhạc, Âm nhạc cung đình Việt Nam (Triều Nguyễn), Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Hát Ca trù, Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Thực hành tín ngưỡng Thờ Mẫu tam phủ của người Việt, Hát Xoan Phú Thọ, Nghệ thuật Bài Chòi miền trung Việt Nam; và 3 di sản Tư liệu thế giới (Mộc bản Triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, Châu bản triều Nguyễn) (1, tr.33-34). Cùng với đó là hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được công nhận di sản. Số liệu thống kê cho thấy hiện nay trên cả nước có 3.463 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng di tích cấp quốc gia, gần 10.000 di tích xếp hạng cấp tỉnh, hơn bốn vạn di tích và 61.669 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê theo Luật Di sản văn hóa, trong đó có 249 di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (1, tr.4) và hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực các vùng miền, dân tộc; các di sản văn hóa văn nghệ dân gian Trên cơ sở phát huy các giá trị di sản văn hóa đặc trưng riêng có của mỗi loại hình di sản, những năm gần đây, du lịch di sản đã phát triển mạnh mẽ, lượng khách tham quan trong nước và quốc tế không ngừng gia tăng, đặc biệt di sản sau khi được Nhà nước lập hồ sơ công nhận và được UNESCO vinh danh. Sức hấp dẫn của di sản đã tạo động lực cho phát triển du lịch, mang lại nhiều lợi ích về thu 69Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nhập, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Cụ thể: Quần thể di tích cố đô Huế, năm 2017 đón 3 triệu lượt khách du lịch, trong đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 320 tỷ đồng từ bán vé tham quan di sản; Phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng từ bán vé tham quan (1, tr.9). Các di sản nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Khu Danh thắng Tràng An, Khu di tích danh thắng Yên Tử, khu Di tích Núi Bà Đen những năm gần đây không ngừng được đầu tư phát triển. Qua đó du lịch di sản đã đóng góp to lớn vào sự phát triển vượt bậc của ngành du lịch. Giai đoạn từ 2010 đến nay, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp hơn 3 lần, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 15,6 triệu lượt năm 2018. Khách du lịch nội địa tăng gấp 2,85 lần, từ 28 triệu lượt năm 2010 lên 80 triệu lượt năm 2018. Tổng thu du lịch tăng trên 6 lần, từ 96.000 tỷ 2010 lên hơn 620.000 tỷ đồng 2018 (8); đóng góp trên 7% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp (5). Nhiều sản phẩm du lịch di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho du lịch Việt Nam. Đặc biệt, di sản văn hoá còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các tour, tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế. 3. Quan điểm đường lối, chủ trương, chương trình, nghị quyết, định hướng phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa Việt Nam Nhận thức được vai trò của việc phát huy các giá trị di sản văn hoá, Nhà nước Việt Nam luôn xác định phát triển du lịch phải gắn liền với mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, góp phần phát triển bền vững. Chủ trương này đã được cụ thể hoá trong nội dung của Pháp lệnh Du lịch năm 1999, theo đó: “Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc,”; đồng thời “bảo đảm phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam” (7), cũng như trong Luật Du lịch năm 2005, theo đó, một trong những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch là “phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hóa - lịch sử, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch” (3). Luật Du lịch 2017 có nhiều điểm mới, theo đó, tại Khoản 2, Điều 4, một trong năm nguyên tắc phát triển du lịch là: “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng” (4). Đồng thời, Nghị Quyết 08-NQ/ TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng đã xác định: “Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên.”(2). Dựa trên quan điểm về phát triển bền vững và kế thừa những tư tưởng và kết quả đạt được từ Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đưa ra một số quan điểm phát triển trong đó có quan điểm về “Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc, tôn trọng văn hoá trong mối quan hệ với cộng đồng điểm đến”; “Phát triển du lịch gắn với giảm nghèo” được nhấn mạnh (6). Để thực hiện những quan điểm và nguyên tắc trên, Chiến lược về tổ chức lãnh thổ du lịch trong giai đoạn tới sẽ tập trung vào một số địa bàn trọng điểm, trong đó có những địa bàn ưu tiên nơi có tiềm năng du lịch, đặc biệt về văn hoá truyền thống song cuộc sống của cộng đồng còn nhiều khó khăn như địa bàn miền núi Tây Bắc với giá trị văn hoá các dân tộc Số 26 - Tháng 12 - 201870 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Thái, Mường, Dao, v.v.; địa bàn Tây Nguyên với không gian cồng chiêng Tây Nguyên và văn hoá dân tộc Ba Na, Ê Đê, v.v.; địa bàn duyên hải Nam Trung Bộ với các di sản văn hoá thế giới và văn hoá dân tộc Chăm và Đồng bằng sông Cửu Long với giá trị văn hoá sông nước. Với định hướng ưu tiên phát triển du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và với sự hỗ trợ của Chính phủ phủ thông qua Chương trình Hành động quốc gia về du lịch và nâng cấp hạ tầng du lịch, hoạt động phát triển du lịch nói chung, du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng nói riêng, sẽ tiếp tục có cơ hội phát triển. Kết quả hoạt động của những mô hình về phát triển du lịch văn hóa cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai), du lịch văn hoá ở Hội An (Quảng Nam), v.v. là những thí dụ minh chứng cụ thể cho nỗ lực bảo tồn di sản văn hoá truyền thống và xoá đói giảm nghèo thông qua hoạt động phát triển du lịch ở Việt Nam trong thời gian qua. Ở một số điểm du lịch văn hóa, hoạt động du lịch đã có những hỗ trợ tích cực về vật chất, đóng góp cho công tác bảo tồn. Ví dụ điển hình về vấn đề này là du lịch Hội An, theo đó ngoài nguồn kinh phí từ Nhà nước, nguồn thu từ bán vé tham quan phố cổ mỗi năm được trích 55% cho việc sửa chữa, trùng tu các di tích, nhà cổ. Có những ngôi nhà cổ được hỗ trợ tới 300 triệu đồng. Trong kế hoạch phát triển tới đây, du lịch Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn việc nghiên cứu khai thác các giá trị văn hoá làng quê để phát triển những sản phẩm du lịch văn hoá đậm bản sắc dân tộc, hấp dẫn và có sức cạnh tranh để thu hút nhiều hơn nữa khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế, góp phần thực hiện những mục tiêu chiến lược đặt ra. Song quan trọng hơn là thông qua phát triển du lịch làng quê, sẽ góp phần bảo vệ và phát huy được các giá trị văn hoá truyền thống và tạo cơ hội cho cộng đồng người dân ở nông thôn, hiện chiếm phần lớn dân số ở Việt Nam, tham gia tích cực hơn vào hoạt động du lịch, có thêm thu nhập để cải thiện được cuộc sống của mình. 4. Giải pháp tạo sức sống cho di sản văn hóa thông qua con đường du lịch Thực tế minh chứng di sản văn hóa tạo sức hấp dẫn vô cùng tận cho điểm đến du lịch; di sản văn hóa là động cơ (duyên cớ) cho chuyến đi, là môi trường tương tác và trải nghiệm đáng giá cho du khách và trở thành tài nguyên, nguồn lực chiến lược cho phát triển du lịch. Cũng chính sức cuốn hút ấy của di sản văn hóa đã tạo nên những làn sóng đầu tư vào du lịch di sản, những dòng khách du lịch tấp nập đổ về; người người, nhà nhà làm du lịch... Điều đó mang lại không chỉ những kết quả tăng trưởng lan tỏa nhiều mặt về kinh tế - xã hội, mà còn bảo tồn chính di sản văn hóa. Nhưng cũng chính quá trình vận động du lịch ồ ạt thiếu kiểm soát ở nhiều nơi đang gieo rắc không ít những tác động tiêu cực tới di sản văn hóa, tạo ra những hệ lụy phải trả giá đắt. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi các bên cùng hành động, có những biện pháp kiểm soát thích đáng để bảo tồn và phát huy bền vững đối với di sản văn hóa trong phát triển du lịch. Do đó, phát huy thế mạnh về tài nguyên di sản văn hóa, trong đó lấy du lịch di sản là hướng trọng tâm có tính chìa khóa hướng tới mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đòi hỏi các bên cùng hành động, có những giải pháp hữu hiệu về bảo tồn và phát huy bền vững đối với di sản văn hóa trong phát triển du lịch, cụ thể: Một là, quan tâm đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chính sách quản lý và quy hoạch bảo tồn và phát huy bền vững giá trị của di sản văn hóa trong phát triển du lịch; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, giá trị văn hóa truyền thống gắn với quy hoạch phát triển du lịch. 71Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Hai là, có chiến lược phát triển du lịch văn hóa phù hợp, trong đó lựa chọn sản phẩm du lịch dựa trên phát huy giá trị di sản văn hóa; phát triển du lịch có trách nhiệm gắn với văn hóa cộng đồng; tôn trọng đa dạng văn hóa, đề cao vai trò văn hóa bản địa; nâng cao nhận thức, bảo vệ lợi ích và phát huy vai trò của cộng đồng dân cư địa phương trong phát triển du lịch văn hóa. Ba là, định hướng hoạt động du lịch và các hoạt động dân sinh khác trong lòng di sản một cách bền vững; quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản; những gì được làm, không được làm, những gì nên, không nên làm; kiểm soát nghiêm ngặt tác động về sức chứa, loại hình hoạt động và cân bằng nhịp sống của hệ sinh thái tại di sản; khuyến khích cộng đồng địa phương chủ động cùng tham gia quản lý di sản, gắn lợi ích của cộng đồng địa phương với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Bốn là, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về di sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng công nghệ 4.0 trong quản lý khai thác di sản văn hóa và phát triển du lịch di sản; tăng cường đào tạo kỹ năng thuyết minh và ứng dụng thuyết minh tự động để làm thăng hoa giá trị cho di sản trong hoạt động hướng dẫn du lịch và phát triển sản phẩm du lịch thông minh. Năm là, xử lý nghiêm, triệt để những vi phạm đối với di sản, gắn liền với quá trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, người dân và du khách; khuyến khích, tôn vinh các hoạt động du lịch tình nguyện, tự nguyện đóng góp nguồn lực, trí tuệ cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Du lịch có trách nhiệm sẽ là con đường đạt tới phát triển du lịch bền vững. Để thực hiện được mục tiêu này, bên cạnh chính sách hỗ trợ cho nguồn lực bảo vệ văn hóa, môi trường, cần có sự hợp tác của các doanh nghiệp du lịch, truyền thông. Đồng thời, du khách cũng cần nêu cao ý thức để “du lịch có trách nhiệm” như phản xạ có trong mỗi người nhằm phát huy các giá trị động lực, tạo sức lan tỏa của hoạt động du lịch, tăng cường đóng góp tích cực từ các hoạt động này cho sự nghiệp bảo tồn giá trị văn hóa thông qua con đường du lịch nhằm phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương nói riêng và của quốc gia nói chung. H.V.S (TS., Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch) Tài liệu tham khảo 1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2018), Báo cáo về công tác bảo vệ và phát huy gía trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, trong Kỷ yếu Hội nghị Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, Hà Nội, tháng 7 năm 2018. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Nghị quyết số 08-NQ/ TW ngày 16/01/2017). 3. Quốc hội Nước CHXHCNVN (2005), Luật Du lịch (Luật số 44/2005/QH11 ngày14/6/2005). 4. Quốc hội Nước CHXHCNVN (2017), Luật Du lịch (Luật số 09/2017/QH14 ngày 19/6/2017). 5. Hà Văn Siêu (2018), Yêu cầu đặt ra trong xây dựng Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn tới, php/items/26876 6. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định phê duyệt “Chiến phát triển lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (Quyết định số 2473/QĐ-TTg, ngày 30/12/2011). 7. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh Du lịch (Pháp lệnh số 11/1999/PL-UBTTQH10 ngày 08/02/1999). 8. Ngày nhận bài: 6 - 10 - 2018 Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 11 - 2018 Ngày chấp nhận đăng: 23 - 12 - 2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_ton_va_phat_huy_gia_tri_di_san_van_hoa_viet_nam_thong_qu.pdf