Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương từ hoạt động du lịch, theo đó cần có sự hỗ trợ
vật chất từ thu nhập du lịch để cải thiện cơ sở hạ tầng địa phương và tạo điều kiện thuận lợi để
cộng đồng được tham gia vào hoạt động dịch vụ du lịch tại các khu di sản. Điều này sẽ góp phần
hạn chế đáng kể “sức ép” của cộng đồng lên các giá trị di sản đồng thời sẽ khuyến khích họ trở
thành chủ nhân thực sự đóng góp vào nỗ lực chung bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ các giá trị tự nhiên, văn hóa
bản địa để đảm bảo cuộc sống của họ với những thu nhập họ có được qua việc tham gia vào hoạt
động phát triển du lịch trên cơ sở khai thác những giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa. Trước hết
nhận thức này cần được nâng lên ở những người “già làng, trưởng bản”, những người có ảnh
hưởng rộng rãi trong cộng đồng;
Tăng cường phổ biến, giải thích các quy định hiện hành về bảo vệ tài nguyên tự nhiên,
văn hóa truyền thống đến cộng đồng. Kinh phí dành cho những hoạt động này cần được hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước hoặc một phần kinh phí trích trực tiếp từ thu nhập du lịch;
Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của địa phương để đảm bảo một phần từ
thu nhập du lịch sẽ “quay lại” hỗ trợ cho cộng đồng và cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên
môi trường, văn hóa nơi diễn ra hoạt động du lịch với sự tham gia của cộng đồng;Xây dựng một số mô hình và cơ chế cụ thể nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho
sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển du lịch như hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất
ưu đãi, hỗ trợ đào tạo kỹ năng, cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ hoạt động kinh doanh
dịch vụ du lịch, v.v.;
Tăng cường sự hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để tăng cường năng
lực tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch để cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống và qua
đó hạn chế các tác động của cộng đồng đến tài nguyên, môi trường, góp phần cho phát triển du
lịch bền vững.
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 615 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo tồn và phát huy văn hóa làng chài trong phát triển du lịch sinh thái cộng đồng trên Vịnh Hạ Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA LÀNG CHÀI TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI CỘNG ĐỒNG TRÊN VỊNH HẠ LONG
Đinh Xuân Lập (lap.recerd@gmail.com ) Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Phát triển nông
thôn
Tóm tắt:.
Bài viết trình bày những giá trí văn hóa làng chài cũng như vai trò của cộng đồng trong
phát triển du lịch sinh thái cộng đồng trên vịnh Hạ Long. Nơi đây lưu giữ những giá trị về địa
chất –địa mạo và đa dạng sinh học cao. Phát triển du lịch ở khu vực này đã được Quảng Ninh
quan tâm, đầu tư từ nhiều năm nay, chỉ tính riêng trong năm 2012 lượng khách thăm quan khu
vực này đã vượt qua con số 7 triệu lượt khách. Tuy nhiên, bên cạnh những con số và danh hiệu
đáng tự hào là những áp lực môi trường với nhiều thách thức về sự ô nhiễm và suy thoái tài
nguyên. Ở đây, đến nay về cơ bản vẫn là du lịch đại chúng (mass tourism) - loại hình du lịch
không đề cao bảo tồn và có thể xâm hại nhanh chóng các tài nguyên, môi trường nhạy cảm. Trên
con đường thực hiện chiến lược “Kinh tế xanh” của tỉnh Quảng Ninh, phát triển du lịch theo
hướng bền vừng “du lịch sinh thái cộng đồng” giúp nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho
môi trường tự nhiên và cộng đồng địa phương và có thể được thực hiện lâu dài mà không ảnh
hưởng xấu đến tài nguyên, môi trường. Bài viết đưa ra các phân tích, so sánh dựa trên góc độ bảo
tồn giá trị văn hóa làng chài và bảo tồn tài nguyên thiên nhiêntừ đó, đề xuất giải pháp lồng
ghép những tinh hoa văn hóa làng chài trong phát triển du lịch sinh thái cộng đồng trên vịnh Hạ
Long, cũng như các khu bảo tồn biển khác tại Việt Nam.
Abstract:
The paper presents the value of fishing villages cultural as well as the role of the
community in the development of eco-tourism on Halong Bay. This place kept the value of
geology-geomorphology and high biodiversity. Tourism development in this area has been
interested and investing by Quang Ninh provice for many years, only in 2012, the number of
tourists visiting the region has surpassed 7 million visitors. However, besides the numbers of
visitor and proud are environmental stress challenges of pollution and resource degradation. This
place is basically mass tourism - kind of tourism does not promote conservation and invasive can
quickly resources, environmentally sensitive. On the implementation of the strategy path "Green
Economy" of Quang Ninh province, towards developing a sustainable tourism "community eco
- tourism" to help maximize the benefits of tourism to the natural environment and local
communities and can be made permanent without adversely affecting the natural resources and
environment. The paper analyzes and comparative based on a conservation the value of fishing
villages cultural and and conservation of natural resources... from there, propose solutions to
integrate the essence of the fishing village cultural in eco-tourism development on Halong Bay,
as well as other marine protected areas in Vietnam.
I. GIỚI THIỆU
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh
Quảng Ninh có tọa độ từ 106056’ - 107037’ kinh độ Đông và 20043’ - 21009’ vĩ độ Bắc. Vịnh
Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) đã hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới
vào các năm 1994 và 2000 về các giá trị cảnh quan và địa chất – địa mạo, hiện giá trị đa dạng
sinh học cũng đang được tiếp tục nghiên cứu và đề xuất công nhận. Là trung tâm của một khu
vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn
hóa, với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc và quần đảo Cát Bà phía Tây Nam, vịnh Hạ Long giới
hạn trong diện tích khoảng 1.553 km² bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi,
trong đó vùng lõi của Vịnh có diện tích 334 km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo Lịch sử kiến tạo
địa chất đá vôi của Vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác
nhau; và quá trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố như
tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết hợp
của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng
sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven
bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái. Theo các kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học ở khu vực Vịnh
Hạ Long cho thấy, có tới 111 loài cá (Nguyễn Văn Quân, 2004), 552 loài động vật đáy (Đỗ Công
Thung, 2004), 102 loài rong (Đàm Đức Tiến, 2004), 87 loài động vật phù du (Nguyễn Thị Thu,
2004) và 200 loài thực vật phù du (Chu Văn Thuộc, 2004). Trong đó có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao như cá song, cá mú, cá hồng, cá giò, tômsú, tôm rảo, mực, cua, ghẹ, tu hài. Đặc biệt ở đây
có đến 150 loài san hô trong đó bao gồm san hô cứng, san hô.
Những kết quả nghiên cứu, thám sát khảo cổ học và văn hóa học cho thấy sự hiện diện của
những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập những hình thái văn hóa cổ
đại tiếp nối nhau bao gồm văn hóa Soi Nhụ trong khoảng 18.000-7.000 năm trước Công Nguyên,
văn hóa Cái Bèo trong 7.000-5.000 năm trước Công Nguyên và văn hóa Hạ Long cách ngày nay
khoảng từ 3.500-5.000 năm. Tiến trình dựng nước và truyền thống giữ nước của dân tộc Việt
Nam, trong suốt hành trình lịch sử, cũng khẳng định vị trí tiền tiêu và vị thế văn hóa của vịnh Hạ
Long qua những địa danh mà tên gọi gắn với điển tích còn lưu truyền đến nay, như núi Bài Thơ,
hang Đầu Gỗ, Bãi Cháy v.v.
Với những ưu thế về vị trí địa lí thuận lợi, tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng cả về
mặt tự nhiên và nhân văn vịnh Hạ Long đã góp phần đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh Quảng Ninh. Nếu như năm 2001 lượng khách du lịch đến với Quảng Ninh chỉ
đạt 1,95 triệu lượt khách, thì tới năm 2010 ngành du lịch Quảng Ninh đón tổng khách du lịch đạt
5,4 triệu lượt và năm 2012 đã vượt con số 7 triệu lượt. Nếu như năm 2000, lượng khách du lịch
quốc tế đến Quảng Ninh mới chỉ đạt trên 544.000 lượt khách, bằng 25,4% so với lượng khách
của cả nước thì đến năm 2009, Quảng Ninh đã đón trên 2.746 triệu lượt khách, bằng 71,9% lượng
khách du lịch quốc tế so với cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những con số và danh hiệu đáng tự hào là những áp lực môi trường
với nhiều thách thức về sự ô nhiễm và suy thoái tài nguyên tại hai khu vực này. Ở đây về cơ bản
vẫn là du lịch đại chúng (mass tourism) - loại hình du lịch không đề cao bảo tồn và có thể xâm
hại nhanh chóng các tài nguyên, môi trường nhạy cảm. Hệ lụy về môi trường, khó khăn trong
việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và đa sạng sinh học của khu vực này không chỉ đến từ hoạt
động du lịch mà còn đến từ hoạt động sinh hoạt, sản xuất trên bờ và các khu vực dân cư (làng
chài trên biển,), từ hoạt động khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản trên biển của các làng
chàiNhững năm gần đây do nguồn lợi hải sản dần cạn kiệt, tác động của biến đổi khí hậu và
vấn đề an ninh trên biển, giá xăng, dâu tăng cao nên người dân hoạt động khai thác xa bờ ít hơn
và quay trở lại hoạt động nhiều ở các khu vực gần bờ, trong vịnh, trong vùng nước khu bảo tồn
gây ảnh hưởng không nhỏ việc bảo tồn nguồn lợi tự nhiên.
Từ bao năm qua, hình ảnh của những ngư dân sống quanh năm trên biển đã trở thành một
hình anh quen thuộc, không thể thiếu của khu vực này. Họ coi thuyền, bè là nhà và vịnh là quê
hương. Họ là những chủ nhân đầu tiên của di sản và bằng chính cuộc sống của mình, họ đã tạo
nên những giá trị văn hoá nhân văn độc đáo cho vùng non nước này. Du khách đến tham quan
các làng chài trên vịnh luôn bất ngờ thú vị khi ngắm nhìn những con người, ngôi nhà, con
thuyền trong không gian đá và nước mênh mông. Hình ảnh về những ngôi nhà gỗ, lớp học nổi
lênh đênh trên sóng nước, các em nhỏ chèo thuyền đi học, những thuyền câu bé nhỏ cô đơn trong
bóng chiều luôn ám ảnh và để lại những ấn tượng thật đẹp đẽ. Với những nét đẹp riêng có của
mình, làng chài Cửa Vạn đã trở thành một trong những tuyến điểm du lịch hấp dẫn nhất trên
Vịnh Hạ Long. Gần đây, làng chài này vừa được đưa vào danh sách 16 ngôi làng cổ đẹp nhất thế
giới theo bình chọn của website du lịch Journeyetc.com.
Trên con đường thực hiện chiến lược “Kinh tế xanh”, Quảng Ninh xác định du lịch theo
hướng bền vững là một trong những trụ cột quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội. Du lịch bền
vững giúp nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường tự nhiên và cộng đồng địa
phương và có thể được thực hiện lâu dài mà không ảnh hưởng xấu đến tài nguyên, môi trường.
Vấn đề đặt ra là phải lồng ghép làm sao và như thế nào để có thể hòa hợp được lợi ích của cộng
đồng trong phát triển du lịch và bảo tồn tài nguyên thiên nhiện?
Chính vì vậy, bảo tồn và phát huy văn hóa làng chài trong phát triển du lịch sinh thái cộng
đồng có một vai trò rất quan trọng.
II. NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
Môi trường đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch. Môi trường vừa là
điều kiện vừa là tài nguyên cho phát triển du lịch. Ngược lại, môi trường, đặc biệt là môi trường
tự nhiên cũng chịu sự tác động sâu sắc của hoạt động du lịch. Mặc dù môi trường tự nhiên có khả
năng tự phục hồi nhưng nếu du lịch phát triển ồ ạt sẽ gây lên những suy thoái môi trường trầm
trọng. Do vậy, bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động du lịch.
Do điều kiện thuận lợi về địa lý và sự hấp dẫn về tài nguyên hoạt động du lịch ở Vịnh Hạ Long
phát triển nhanh chóng. Sự phát triển của hoạt động du lịch đã ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên
tại Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường tự nhiên trong hoạt động du lịch ở đây
hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả còn chưa cao dẫn tới chất lượng môi trường chưa đảm
bảo cho sự thành công của hoạt động du lịch . Vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch
tại Vịnh Hạ Long vừa là đòi hỏi cấp thiết cho bảo vệ Di sản thiên nhiên, vừa có ý nghĩa quan
trọng trong chiến lược phát triển du lịch của khu vực.
Phát triển kinh tế đã và đang trở thành nguy cơ phát sinh nguồn ô nhiễm, có khả năng ảnh
hưởng mạnh mẽ tới môi trường vùng Vịnh Hạ Long khi việc kiểm soát nguồn thải của địa
phương hiện nay chưa thật sự hiệu quả.
Theo kết quả điều tra của chuyên đề "Đánh giá dự báo tải lượng ô nhiễm đưa vào Vịnh
Hạ Long - Bái Tử Long" do Viện Tài nguyên và Môi trường Biển thực hiện cho thấy, việc quản
lý, kiểm soát các nguồn ô nhiễm (đặc biệt là ngành than) chưa hiệu quả. Hầu hết các nguồn ô
nhiễm chưa được xử lý khi thải ra môi trường. Các chất ô nhiễm vào Vịnh Hạ Long - Bái Tử
Long thường theo hai đường chính là do rửa trôi các nguồn ô nhiễm trên đất liền qua hệ thống
sông, suối, lạch, triều đưa ra Vịnh và đổ trực tiếp từ nguồn nước sinh hoạt của dân cư ven biển,
khách du lịch, nuôi trồng thủy sản...
Theo số liệu quan trắc, với tốt độ xả thải như hiện nay, mỗi năm Vịnh Hạ Long - Bái Tử
Long phải hứng chịu khoảng 43 nghìn tấn COD và 9 nghìn tấn BOD (chất hữu cơ lơ lửng) đổ vào
Vịnh. Khoảng 5,6 nghìn tấn Nitơ - tổng số (N –T) và gần 2 nghìn tấn Phốt pho tổng số (P – T).
Đặc biệt, có khoảng 135 nghìn tấn kim loại nặng và khoảng 777,5 nghìn tấn TSS (chất rắn lơ
lửng) hàng năm từ nguồn thải ven biển đổ vào Vịnh, là mối đe dọa lớn tới môi trường vùng Vịnh.
Kết quả điều tra trong nhiều năm cho thấy, hàm lượng ô nhiễm kim loại nặng đưa vào Vịnh chủ
yếu từ hoạt động khai thác than ở Cẩm Phả (chiếm tới 70% tổng lượng vào) và thành phố Hạ
Long. Còn các chất hữu cơ và dinh dưỡng đưa vào vùng Vịnh có xuất phát điểm từ khu vực
thành phố Hạ Long là nhiều nhất (khoảng 30 - 60%), tiếp theo là Hoàng Bồ, Cẩm Phả và Vân
Đồn.
Bên cạnh nguồn gây ôi nhiểm do rửa trôi các nguồn ô nhiễm trên đất liền qua hệ thống
sông, suối, lạch, triều đưa ra Vịnh, nguồn gây ôi nhiểm trực tiếp từ nguồn nước sinh hoạt của
dân cư ven biển, khách du lịch, nuôi trồng thủy sản... cũng còn nhiều bất cập.
Nguồn gây ô nhiễm trực tiếp trên Vịnh Hạ Long: hàng năm vịnh Hạ Long đón hàng
triệu lượt khách thăm quan, các hoạt động kinh doanh du lịch, sinh hoạt và sản xuất của cư dân
làng chàilà những nguồn gây ôi nhiễm trực tiếp cho vịnh Hạ Long.
Với hơn 500 tàu du lịch hoạt động và có lưu đêm trên vịnh Hạ Long vấn đề quản lý xả
thải của các tàu du lịch được coi là vấn đề thách thức nhất với UBND tỉnh Quảng Ninh. Mặc dù
UBND tỉnh Quảng Ninh đã có quy định về việc thu gom rác thải và cấm xả thải trên vịnh nhưng
do ý thức chấp hành chưa tốt, muốn tiết kiệm chi phí chạy tàu vào bờ và các chi phí vệ sinh môi
trường các tàu này thường xuyên thải trộm rác ra môi trường vịnh. Bên cạnh đó thành phố Hạ
Long chưa có đủ kinh phí để trang bị hệ thông thu gom rác thải trên biển từ các tàu du lịch, lực
lượng cán bộ quản lý môi trường vịnh còn ít và đặc biệt rất khó phát hiện tàu vi phạm trong điều
kiệm về đêm.
Dân số trên vịnh Hạ Long hiện nay khoảng 1.603 người, tập trung chủ yếu ở các làng
đánh cá Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp Dè (thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long). Cư dân
vùng Vịnh phần lớn sống trên thuyền, trên nhà bè để thuận tiện cho việc đánh bắt, nuôi trồng các
loại thủy hải sản. Hiện tại khu vực làng chài có khoảng 1.300 ô lồng nuôi trồng hải sản. Sản
lượng cả nuôi trồng và đánh bắt hàng năm đạt khoảng 800 tấn. Mặc du UBND tỉnh Quảng Ninh
đã có nhiều chưng trình dự án về vấn đề rác thải từ làng chài tuy nhiên bất cấp trong môi trường
rác thải tại đây vẫn chưa được xử lý một cách triệt để: người dân vẫn lén thải rác sinh hoạt trực
tiếp xuống biển, đa số các nhà bè vẫn sử dụng phao xốp – do ảnh hưởng của thời tiết và sóng biển
các phao xốp bị vỡ vụn gây ô nhiểm môi trường vịnh, phế phẩm từ hoạt đông khai thác, nuôi
trồng thủy sản chưa được quản lý, vẫn còn các hoạt động khai thác thủy sản xâm hại trên vinh
III. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG LÀNG CHÀI
* Trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như ở các vùng ven biển Việt Nam, các khu bảo tồn
biển cộng đồng đóng một vai trò quan trọng trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Phương thức
quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng,
đặc biệt là tại các nước đang phát triển và được thừa nhận là một phương thức quản lý hiệu quả, ít
tốn kém.
Thông qua phương thức này, cộng đồng dân cư các địa phương ven biển được tham gia
trong việc bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Điều này đã tăng cường sự chủ động,
thúc đẩy cộng đồng dân cư cùng chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong việc quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường biển; phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về quy chế dân chủ cơ
sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Ở các góc độ khác nhau cộng đồng làng chài có những chức năng và vai trò khác nhau,
nhưng trong khuân khổ bài viết này, chúng tôi chỉ muốn thảo luận xung quanh khía cạnh vai trò
của cộng đồng làng chài xung quanh khía cạnh bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Bài viết cũng
không tập trung phân tích nhiều về hạn chế của cộng đồng làng chài mà tập trung chọn lọc những
vai trò mang tính chất truyền thống và theo nhu cầu thực tế.
+ Là người trực tiếp sử dụng tài nguyên thiên nhiên: Một thực tế hiển nhiên qua nhiều
thế hệ là sinh kế của người dân các làng chài phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên thông
qua các hoạt động khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy sản, săn bắt động vật hoang dã, khai thác
lâm sản làm nơi trú ngụ, chất đốt, thuốc chữa bệnh, thức ăn hàng ngày, khai thác đất đai sản xuất
lương thựctài nguyên thiên nhiên có nhiều loại có giá trị thương phẩm cao, thêm vào đó những
năm gần đây nguồn lợi tài nguyện dần cạn kiết nên khi nhu cầu thị trường đòi hỏi đã thôi thúc
người dân khai thác dưới mọi hình thức, cả lén lút lẫn công khai, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp và
sức ép của cộng đồng lên tài nguyên thiên nhiên cũng tăng lên.
+ Cộng đồng là một kho tàng chi thức: Là những người trực tiếp khai thác sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, sinh sống và am hiểu vùng đất, vùng nước, cộng đồng là kho tàng chi thức về
đang dạng sinh học trong khu vực, khu vực phân bố, các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến
tài nguyên thiên nhiên, các tác nhân có lợi, có hại cho tài nguyên thiện nhiện.
+ Là người trực tiếp chịu những thay đổi của môi trường tự nhiên: Dưới những tác
động của con người, biến đối khí hậu...đã làm cho môi trường bị ô nhiễm và suy thoái tài nguyên:
nước, không khí, rừng,...làm suy giảm nguồn lợi tự nhiên việc này đã gây ảnh hưởng trước tiếp
đến cuộc sống và sinh kế của cộng đồng làng chài (suy giảm nguồn nước, hoạt động nuôi trồng
và khai thác thủy sản trở nên khó khăn, phát sinh các bệnh mới...).
+ Điều tiết các mối quan hệ trong cộng đồng nhằm giảm thiểu các tác động tới tự
nhiên: Với phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa ...cộng đồng là nhân tố chính để điều tiết
các mối quan hệ trong cộng đồng nhằm giảm thiểu các tác động tới tự nhiên như: Tuyên truyền
nâng cao nhận thức công đồng trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (cấm khai thác bằng ngu cụ
cấm, cấm đánh bắt động vật quý hiếm, bảo vệ môi trường...); xây dựng hương ước cộng đồng,
xây dựng các mô hình cộng đồng ...
* Vai trò của cộng đồng với phát triển du lịch:
Với việc phát huy vai trò của cộng đồng thông qua phát triển du lịch cộng đồng sẽ có
những tác động tích cực bao gồm :
- Góp phần tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, đặc biệt ở vùng biển nơi mà con
người có sự phụ thuộc lớn vào tài nguyên thiên nhiên. Đây sẽ là yếu tố tích cực góp phần làm
giảm tác động của cộng đồng đến các giá trị cảnh quan, tự nhiên và qua đó sẽ góp phần bảo tồn
tài nguyên, môi trường đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững;
- Góp phần để cộng đồng, đặc biệt là những người dân chưa có điều kiện trực tiếp tham
gia vào các dịch vụ du lịch, được hưởng lợi từ việc phát triển hạ tầng du lịch (giao thông, điện,
nước, bưu chính viễn thông, v.v.). Đây cũng sẽ là yếu tố tích cực để đảm bảo sự công bằng trong
phát triển du lịch, một trong những nội dung quan trọng của phát triển du lịch bền vững;
- Góp phần tạo cơ hội việc làm cho cộng đồng và qua đó sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu,
nâng cao trình độ lao động khu vực này.
- Góp phần tích cực trọng việc phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
nghề truyền thống, vì vậy có đóng góp cho phát triển du lịch bền vững từ góc độ tài nguyên, môi
trường du lịch;
- Tạo điều kiện đẩy mạnh giao lưu văn hóa và kế đến là giao lưu kinh tế giữa các vùng
miền, giữa Việt Nam với các dân tộc trên thế giới. Đây cũng sẽ là yếu tố quan trọng trong bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam đồng thời tạo cơ hội để phát triển kinh tế ở
những vùng còn khó khăn, đảm bảo sự phát triển bền vững nói chung, du lịch nói riêng.
IV. GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG CHÀI TRÊN VỊNH HẠ LONG
Quảng Ninh là nơi có nền văn hoá lâu đời và liên tục. Đây là một nền văn hoá có những
đặc trưng riêng, phân phối tập trung tại một khu vực độc lập nhưng không hề biệt lập, nó gắn liền
với nền văn hoá Hoà Bình- Bắc Sơn nổi tiếng. Cho đến nay, đã làm rõ được một lịch sử văn hoá
ít nhất 25000 năm cách ngày nay ở Hạ Long- nền văn hoá Soi Nhụ, kế tiếp là văn hoá Cái Bèo-
gạch nối giữa văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long.
Từ đầu thế kỷ 19 người ta đã thấy sự có mặt của ngư dân Giang Võng, Trúc Vong trên
vịnh Hạ Long mà hậu duệ của họ là những người dân chài sống trên các làng chài nôi Ba Hang,
Cống Tàu, Vông Viêng, Cửa Vạn ngày. Họ lấy thuyền, bè làm nhà và chọn vịnh làm quê hương.
Cuộc sống, sinh hoạt, kiếm sôngtrên biển đã tạo ra những nét văn hóa đặc trưng riêng cho
người dân làng chài trên vịnh Hạ Long.
Nằm lênh đênh giữa sóng nước của kì quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, những con
người làng chài đã sống và gắn bó cả cuộc đời mình với biển, vất vả và bấp bênh, nhưng bằng
tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, họ đã sáng tạo nên những câu hát giao duyên trữ tình và
truyền lại cho con cháu. Câu hát giao duyên như gửi gắm biết bao tâm tư, tình cảm của người dân
làng chài. Những cung bậc của cảm xúc, của tình yêu được bộc lộ kín đáo mà duyên dáng, có
buồn có vui, có giận hờn, ghen tuông Họ hát để được giải tỏa, để trải lòng mình với sóng nước
mênh mông, hát để kết bạn, kết duyên vợ chồng. Chính vì thế, câu hát giao duyên có ca từ hết sức
phong phú, là một kho tàng khổng lồ về ca dao, tục ngữ, dân ca và cả phong tục tập quán, lễ hội.
Hát giao duyên có nhiều hình thức nhưng tiêu biểu là hát đúm, hò biển và hát cưới trên
thuyền. Mỗi hình thức lại có nét đặc sắc và điểm nhấn riêng. Nhưng dù có hát theo hình thức nào
đi nữa thì hát giao duyên cũng đã trở thành một nét đẹp văn hóa độc đáo riêng của ngư dân vùng
vịnh, một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, cưới hỏi.
Hát giao duyên: Hát Giao duyên của ngư dân làng chài trên Vịnh Hạ Long xưa gần gũi
với cách hát của người Việt ở vùng châu thổ sông Hồng nhưng mang những nét riêng của địa
hình biển đảo đặc thù của vùng Quảng Ninh. Hát Giao duyên là lối hát đối đáp giữa các nhóm
nam nữ thanh niên, còn được gọi là hát Ghẹo, hát Đúm và ngư dân Hạ Long gọi dân dã là hát
Giai gái. Nội dung, ca từ chủ yếu về thuyền, biển, tôm cá, ca ngợi tình yêu đôi lứa, cảnh đẹp quê
hương. Mỗi cuộc hát Giai gái thường trải qua các trình tự: hát Chào – hát Tìm - hát Hỏi - hát Gặp
- hát Giã bạn. Có những cuộc hát kéo dài đến hết đêm nhưng cũng có đôi khi chỉ là đôi ba câu hát
làmquen khi bất chợt gặp gỡ rồi chia tay vội vàng.
Hò biển: Còn gọi là hát chèo thuyền, hát chèo đườngmà lời ca cũng chính là các bài
hát giao duyên đối đáp. Điểm khác biệt của Hò biển với hát Giai gái và hát đám cưới là Hò biển
luôn bắt đầu với từ “Hò ơ..ơ..!" với âm điệu ngân dài, chậm rãi, mềm mại và sâu lắng, thường
được ngân lên những khi đang chèo thuyền thả câu, quăng lưới một mình trên quãng đường dài
hay trong những đêm trăng thanh vắng. Mỗi câu hò ngân lên như để đánh tiếng rằng “có tôi ở
đây”, để tìm bạn, để chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn.
Hát đám cưới trên thuyền: Hát đám cưới là tục lệ có từ lâu đời ở vùng dân tộc thiểu số
và cả đồng bào kinh. Song mỗi nơi có cách hát trong đám cưới khác nhau. Sách Đại Nam nhất
thống chí chép: “Về lễ giá thú thì mỗi nơi một khác”. Có thể nói hát cưới trên thuyền là một “hội
hát giao duyên”. Ở đây tập trung hầu hết các điệu hát giao duyên vùng biển. Do đắc tính là các
làng chài nổi trên biển nên “hát đám cưới” của ngư dân làng chài trên vịnh Hạ Long của mang
những nét đặc trưng riêng. Đám cưới làng chài thường được tổ chức vào ngày rằm (giữa tháng
Âm lịch) trong mùa cưới từ tháng tám năm trước đến tháng ba năm sau. Những đêm giữa tháng
trăng sáng, cá ăn tãi dân chài thường nghỉ đánh bắt nhưng lại là những đêm non nước lung linh
kỳ ảo rất thuận tiện cho một sinh hoạt của cộng đồng - ngày cưới. Nhà trai thường đi đón dâu
bằng vài ba thuyền lớn. Thuyền nhà gái neo đậu sát nhau, trong đó có một thuyền lớn có bàn thờ
gia tiên ở trong khoang giữa. Bên ngoài, trên mặt sạp phía mũi thuyền có chăng ba dải lụa thứ tự
từ phía mũi thuyền về phía khoang giữa: Dải lụa màu xanh tượng trưng ngõ khách; Dải lụa màu
vàng tượng trưng ngõ treo; Dải lụa màu đỏ tượng trưng ngõ hoa. Ở cửa vào trong khoang giữa
còn treo một đôi chim bằng bông hoặc đan bằng tren dán giấy (hình chim phượng hoặc chim
câu). Khi thuyền nhà trai đến đón dâu phải dừng trước thuyền nhà gái và lần lượt hát đáp lại
những câu hát hỏi của nhà gái cho đến khi cởi được ba dải lụa màu thì mới đón được dâu về. Màn
hát đối đáp vừa mang tính nghi lễ vừa là phần Hội của đám cưới, không chỉ chúc đôi vợ chồng trẻ
bách niên giai lão, mừng hai họ có dâu hiền rể thảomà đây còn là dịp để trai gái đôi bên làm
quen, kết bạn, xóm làng thêm gần gũi, đoàn kết.
Thuyên buồn nét văn hóa đặc trưng của ngư dân Vịnh Hạ Long: Xưa kia phương tiện
khai thác thủy sản của ngư dân Giang Võng, Trúc Võng trên vịnh Hạ Long là những chiếc thuyền
nan. Do ngư trường khai thác hoạt động chủ yếu trong vịnh (không có sóng lớn) nên những chiếc
thuyền nan của ngư dân Giang Võng, Trúc Võng thường gắn buồn. Hình ảnh những chiếc thuyền
buồn lướt nhẹ trên sóng, giữa không gian kỳ quan thiên nhiên đã tạo nên một “bức tranh thủy
mặc” hết sức đẹp, hình ảnh này đã được các nhiếp anh gia người Pháp (đầu thế kỷ 19) ghi lại và
giới thiệu cùng cộng đồng thế giới từ đó thuyền buồn đã tạo nên nét đặc trng của vịnh Hạ Long.
Câu hát giao duyên trữ tình, đằm thắm của ngư
dân vùng chài vịnh Hạ Long
Thuyên buồn nét văn hóa đặc trưng của ngư
dân Vịnh Hạ Long
Nhà bè: Đây là một hình thức ở mới xuất hiện những năm đầu thế kỷ 20, dần thay thế cho
những con thuyền. Nhà dựng bằng gỗ trên một chiếc bè lớn, được làm nổi bởi các phao xốp hoặc
phi nhựa, mái nhà lợp tôn hoặc cót ép. Tuy diện tích không lơn (khoảng 20 m2 đến 30m2) nhưng
nhà bè được bố trí không gian rất hợp lý với 2 gian ở, khu thờ cúng tổ tiên, khu bếp và nhà vệ
sinh riêng.
Thời cúng thủy thân: Trước biển cả đầy huyền bí và bất trắc, dân chài Hạ Long tin thờ
thần biển và gọi giản dị là ông Sông bà Bể. Khi có việc cưới hỏi, tang ma, đi đánh bắt, lúc ốm
đau họ đều làm lễ cúng thuỷ thần để cầu bình an,may mắn. Các làng chài nổi trên vịnh Hạ
Long không có đình làng tại nơi sinh sông. Đến ngày hội các làng chài thường tập trung lại tại
các đình làng xưa kia của cha ông họ (ngư dân Giang Võng – Trúc Võng xưa có đình làng trên
đất liền) để tổ chức lễ cũng thủy thần với tục rước nước và hội thi bơi chải.
Bên cạnh những giá trị nêu trên, làng chài trên vịnh Hạ Long còn chứa đứng những giá
trị khác về văn hóa, tín ngương của các làng chài tại Việt Nam như:
Nghề cá truyền thống đặc sắc: Việt Nam với nghề các truyền thống lâu đời đã kiến tạo
ra trên 200 loại ngư cu và nhiều phương thức đánh bắt thủy sản khác nhau. Các ngư cụ và
phương thức này là bằng chứng cho quá trình sáng tạo trong sản xuất và nét đặc trưng văn hóa
Việt.
Tục thờ cúng cá Ông: vị thần che chở, bảo vệ ngư dân; cầu ngư để mong mưa thuận gió
hòa, bảo vệ ngư dân trên biển, thu hoạch được mùa. Nhiều ngư dân còn tin rằng các vị thần và tổ
tiên của họ có quyền lực quyết định sự thành bại và hạnh phúc của ngư dân và thành viên gia
đình họ (Ruddle, 1998). Đây chính là sợi dây vô hình kết nối mọi người ẩn đằng sau những yếu
tố tâm linh là tình cảm, là cái chung của những người làm nghề sông nước. Tục thờ cá Voi (coi cá
Voi là thần cứu mạng khi gặp nạn trên biển) đã dẫn đến quy định không đánh bắt cá Voi để làm
thực phẩm (trong dân gian) do vậy đã gián tiếp góp phần bảo vệ loài cá này không bị tuyệt chủng
ở Việt Nam, đây là một nét đặc sắc trong văn hóa mà không phải nước nào cũng có.
V. THẢO LUẬN VỀ HƯỚNG LỒNG GHÉP VĂN HÓA LÀNG CHÀI TRONG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI CỘNG ĐỒNG
Mỗi địa phương, mỗi thắng cảnh đều manh trong mình một nét đẹp riêng. Bên cạnh nét
đép của tự nhiên, cảnh quan, các công trình lịch sử là nét đẹp của văn hóa, truyền thống và
tổng hòa tạo các nét đẹp đó tạo nên sự độc đáo, cái đặc trưng của từng địa phương, thắng cảnh.
Nói đến Huế người ta không thể nhắc đền hò Huế, nói đến Bắc Ninh người ta không thể nhắc đến
dân ca quan họ Bắc Ninh, nói đến Thái Bình người ta không thể nhắc đến chèohình ảnh Làng
Chài đã trở thành hình ảnh quen thuộc, không thể thiếu trên vịnh Hạ Long. Làng Chài chứa đứng
trong nó nhiều giá trị văn hóa vẫn còn chưa được khai thác và phát huy một cách đúng mức. Trên
cơ sở phân tích hiện trang tài nguyên môi trường, vai trò của cộng đồng và giá trị văn hóa làng
chài chúng tôi xin được thảo luận mốt số định hướng cơ bản đối với phát triển du lịch sinh thái
gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa làng chài và phát triển cộng đồng bao gồm:
– Khai thác có hiệu quả các giá trị văn hoá để phát triển những sản phẩm du lịch đặc thù
có tính cạnh tranh cao, thu hút khách du lịch.
Hiện nay, một trong những hạn chế cơ bản của du lịch Việt Nam là thiếu các sản phẩm du
lịch đặc thù có tính cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam trong giai đoạn tới sẽ ưu tiên khắc phục hạn chế này. Trong trường hợp này, bản thân các di
sản văn hoá, đặc biệt là các di sản thế giới như vịnh Hạ Long là những tài nguyên du lịch có giá
trị. Vấn đề là cần có quy hoạch và đầu tư hợp lý để biến những giá trị văn hoá thành sản phẩm du
lịch có sức cạnh tranh, thu hút khách du lịch. Sự tăng trưởng về khách du lịch đến các điểm di sản
sẽ đồng nghĩa với việc những giá trị di sản này sẽ càng được phát huy.
- Phát triển du lịch di sản văn hóa gắn với phát triển cộng đồng.
Cộng đồng là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa, trong nhiều trường hợp cộng
đồng chính là linh hồn, là tâm điểm của di sản. Chính vì vậy phát triển du lịch di sản không thể
tách rời phát triển cộng đồng ở khu vực di sản và lợi ích có được từ du lịch di sản phải được chia
sẻ với cộng đồng. Trong trường hợp này, cộng đồng sẽ là nhân tố tích cực góp phần bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản trên quê hương của họ.
Bên cạnh ý nghĩa trên, phát triển du lịch văn hoá gắn với cộng đồng sẽ còn khai thác được
những giá trị văn hoá bản địa góp phần làm đa dạng và phong phú hơn sản phẩm du lịch điểm
đến, làm tăng tính hấp dẫn và hiệu quả kinh doanh du lịch.
– Phát triển du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản phải gắn với phát triển du lịch
quốc gia và khu vực.
Để phát huy có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là các di sản thế giới, hoạt
động xúc tiến du lịch văn hóa thông qua sự hợp tác với các nước trong khu vực sẽ có ý nghĩa
quan trọng. Sự hợp tác này trước hết sẽ tạo ra các tuyến du lịch văn hoá có tính liên vùng và khu
vực như tuyến du lịch di sản miền Trung, tuyến du lịch di sản Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng
(GMS), tuyến du lịch di sản Hành lang Đông Tây (WEC), v.v. Để các ý tưởng gắn kết du lịch di
sản văn hoá, cần thiết phải có liên kết phát triển du lịch giữa các vùng du lịch; giữa du lịch Việt
Nam với các nước trong khu vực thông quan một số chương trình cụ thể. Việc quảng bá và phát
triển các chương trình này chính là phương thức phát huy có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa ở
Việt Nam.
VI. KẾT LUẬN
Sức hấp dẫn của môi trường tự nhiên là một trong những điều kiện để phát triển du lịch.
Các yếu tố này hấp dẫn đặc biệt bởi sự hoang sơ, tính đa dạng sinh học cao, trong lành, không bị
ô nhiễm... Sự suy giảm của môi trường tất yếu sẽ dẫn tới sự suy giảm về du lịch. Du lịch mạng lại
giá trị kinh tế cao, tạo ra những tác động tích cực tới môi trường như nâng cao nhận thức về môi
trường khi hiểu được giá trị của môi trường, tăng thêm nguồn vốn cho hoạt động nghiên cứu
công nghệ, tuyên truyền, giáo dụcbảo vệ môi trường. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của
du lịch tới môi trường còn lớn hơn rất nhiều so với những tác động tích cực mà du lịch mang lại
nếu như việc phát triển không đúng hướng “phát triển không bền vững”.
Cộng đồng đóng một vai trò quan trọng trong bảo vệ tài nguyên thiên và phát triển du
lịch, là nhân tổ Chính – Trực tiếp – Mấu chốt cho phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Làng chài chứa đựng trong nó nhiều giá trị văn hóa nếu được khai thác một cách đúng
mức sẽ không chỉ giúp hài hòa lợi cộng đồng và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên mà còn làm tăng
giá trị của sản phẩm du lịch.
Đề phát huy được giá trị văn hóa làng chài và tăng cường vai trò của Cộng đồng với phát
triển du lịch cần:
Khai thác có hiệu quả các giá trị văn hoá để phát triển những sản phẩm du lịch đặc thù có
tính cạnh tranh cao, thu hút khách du lịch
Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương từ hoạt động du lịch, theo đó cần có sự hỗ trợ
vật chất từ thu nhập du lịch để cải thiện cơ sở hạ tầng địa phương và tạo điều kiện thuận lợi để
cộng đồng được tham gia vào hoạt động dịch vụ du lịch tại các khu di sản. Điều này sẽ góp phần
hạn chế đáng kể “sức ép” của cộng đồng lên các giá trị di sản đồng thời sẽ khuyến khích họ trở
thành chủ nhân thực sự đóng góp vào nỗ lực chung bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ các giá trị tự nhiên, văn hóa
bản địa để đảm bảo cuộc sống của họ với những thu nhập họ có được qua việc tham gia vào hoạt
động phát triển du lịch trên cơ sở khai thác những giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa. Trước hết
nhận thức này cần được nâng lên ở những người “già làng, trưởng bản”, những người có ảnh
hưởng rộng rãi trong cộng đồng;
Tăng cường phổ biến, giải thích các quy định hiện hành về bảo vệ tài nguyên tự nhiên,
văn hóa truyền thống đến cộng đồng. Kinh phí dành cho những hoạt động này cần được hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước hoặc một phần kinh phí trích trực tiếp từ thu nhập du lịch;
Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của địa phương để đảm bảo một phần từ
thu nhập du lịch sẽ “quay lại” hỗ trợ cho cộng đồng và cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên
môi trường, văn hóa nơi diễn ra hoạt động du lịch với sự tham gia của cộng đồng;
Xây dựng một số mô hình và cơ chế cụ thể nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho
sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển du lịch như hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất
ưu đãi, hỗ trợ đào tạo kỹ năng, cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ hoạt động kinh doanh
dịch vụ du lịch, v.v.;
Tăng cường sự hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để tăng cường năng
lực tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch để cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống và qua
đó hạn chế các tác động của cộng đồng đến tài nguyên, môi trường, góp phần cho phát triển du
lịch bền vững.
Tài liệu tham khảo:
1. Đinh Xuân Lập, Cao Lê Quyên, Tưởng Phi Lai, Lưu Thế Phương, 2013. Tài liệu kỹ thuật dự
án “Xây dựng mô hình cộng đồng ngư dân làng cá nổi ở vịnh Hạ Long thích ứng với biến đổi
khí hậu (VN/MAP-CBA/2010/05)”. Hội nghề cá tỉnh Quảng Ninh, Qũy Môi trường toàn cầu,
Chương trình tài trợ các dự án nhỏ tại Việt Nam (UNDF-GEP/SGP.
2. Tưởng Phi Lai, Đinh Xuân Lập, Phan Hoành Sơn, Venus Le Nguyen, 2013. Công trình nghiên
cứu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em và thanh thiếu niên làng chài. Kỷ lục Việt Nam
HDTV.VK.GXLKL No 1425/KLVN/2013 ngày 21/9/2013.
3. Phạm Ngọc Hùng, 2012. Đề án phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại làng chài Cửa Vạn,
vịnh Hạ Long. Ban quản lý vịnh Hạ Long.
4. Hoàng Ngọc Hà, Đào Huy Giáp, David Brown, Vũ Thị Hồng Hạnh, 2008. Ngư dân trên vịnh
Hạ Long. Chương trình giáo dục môi trường ECOBOAT, Nhà xuất bản giáo dục.
5. Hoàng Ngọc Hà, Đào Huy Giáp, Nguyễn Đăng Hải, 2008. Bảo tồn và phát triển hệ sinh thái
Rạn san hô trên vịnh Hạ Long. Chương trình giáo dục môi trường ECOBOAT, Nhà xuất bản
giáo dục.
6. Ngô Xuân Tường, Hoàng Ngọc Hà, Vũ Duy Anh, 2008. Các loài chim thường gặp ở vịnh Hạ
Long và Cát Bà. Chương trình giáo dục môi trường ECOBOAT, Nhà xuất bản giáo dục.
7. Tạ Hòa Phương, Đặng Khắc Vũ, Vũ Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Quang Thành, Hoàng Ngọc Hà,
Don Miller, 2008. Địa chất – địa mạo vịnh Hạ Long. Chương trình giáo dục môi trường
ECOBOAT, Nhà xuất bản giáo dục.
8. Kenneth Ruddle. “Traditional community-based coastal marine fisheries management in Viet
Nam”. Ocean & Coastal Management. Vol. 40, pp. 1-22, 1998. Elsevier Science Limited.
9. Đinh Văn Hạnh, 2008. Sự phát triển hệ thống tín ngưỡng của người Việt trong quá trình di cư
về phương Nam nhìn từ tục thờ cúng cá Ông.
GID=940.
10. Nguyễn Duy Thiệu, 2003. Các cộng đồng ngư dân thủy cư ở vùng biển Việt Nam. Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á, số 6. Hà Nội.
11. Một số giải pháp góp phần thúc đẩy du lịch Quảng Ninh phát triển
Ninh-phat-trien/
12. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và phát triển cộng đồng tại Việt
Nam
13. Vương Minh Hoài, 2011, Luận văn thạc sĩ, Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
Ninh, Đại học Kinh tế quốc dân.
14. Giá trị văn hóa của hát cưới trên thuyền của ngư dân làng chài vịnh Hạ Long,
?maso=24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baotonvaphathuyvanhoalangchaitrongphattriendulich_8362.pdf