Việt Nam chưa có kế hoạch xây dựng khu TBMPA, MPP, PSSA với các
quốc gia láng giềng. Lợi ích của các khu TBMPA là bảo vệ môi trường
biển, đa dạng sinh học biển và hợp tác quốc tế vì hòa bình-hữu nghị, đặc
biệt đối với các vùng biển cận biên
- Công tác bảo tồn-bảo vệ tài nguyên biển của Việt Nam tại các vùng biển
cận biên còn chưa có tính liên thông quốc tế. Môi trường biển thì lại không
có biên giới như trên đất liền, mà liên kết chặt chẽ với các vùng biển quốc
gia lân cận. Việc HTQT và lựa chọn mô hình là rất quan trọng cho các vùng
cận biên nhằm tuân thủ các công ước, điều ước quốc tế về biển, về môi
trường và đa dạng sinh học.
- Chúng ta cần có các chính sách riêng cho phù hợp với cả 4 vùng vịnh Bắc
Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa, vịnh Thái Lan. Đây là chính sách quan hệ quốc
tế quan trọng, định hướng cho công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và khai
thác tài nguyên biển hợp lý.
- Nghiên cứu, cập nhật kinh nghiệm, chính sách cho các vùng biển cận biên
trên thế giới dùng làm cơ sở khoa học cho đàm phán ngoại giao song
phương và đa phương
- Đề nghị các CQ quản lý về biển, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Công
An và các bộ ngành liên quan thiết lập cơ chế HTQT phục vụ nghiên cứu
cơ sở khoa học cho việc thiết lập các vùng TBMPA với các nước lân cận.
Lựa chọn và phát triển các mô hình, công cụ HTQT trong bảo vệ tài nguyên
môi trường biển phù hợp cần thiết phục vụ HTQT về biển và hải đảo.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 615 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ đa dạng sinh học biển xuyên quốc gia (transboundary marine biodiversity for Vietnam sea), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/280942711
Bảo vệ đa dạng sinh học biển xuyên quốc gia (transboundary marine biodiversity
for Vietnam sea)
Article in International Studies · September 2011
CITATIONS
0
READS
871
2 authors, including:
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
Đánh giá thiệt hại kinh tế lũ lụt, BĐKH cho vùng ven biển View project
Particularly Sensitive Sea Area for Vietnam Sea View project
Du Van Toan
Ministry of Natural Resources and Environment of Vietnam
91 PUBLICATIONS 70 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Du Van Toan on 14 August 2015.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
Hiện trạng mô hình hợp tác quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại các vùng
biển cận biên và gợi ý ban đầu cho Việt Nam
TS Dư Văn Toán
Viện Nghiên cứu biển và hải đảo
Email: duvantoan@gmail.com
Tóm tắt. Báo cáo giới thiệu tổng quan các mô hình hợp tác quốc tế về các khu bảo tồn
biển đa quốc gia trên thế giới. TBMPA là vùng biển nằm trên khu vực biển, đại dương có
hai hoặc nhiều đường biên giới giữa các quốc gia, có vai trò giữ gìn đa dạng sinh học, các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và bản sắc văn hóa địa phương, được hợp tác quản lý thông
qua luật pháp hoặc các chính sách khác trên qui mô song phương hay đa phương. Lợi ích
của TBMPA nhằm cải thiện trong quan hệ và công tác bảo tồn quốc tế, thực thi các công
ước và điều ước quốc tế về biển. Có một số mô hình TBMPA thành công ở các vùng biển
tranh chấp của nhiều quốc gia được gọi Công viên biển hòa bình (MPP), mô hình xây
dựng vùng biển đặc biệt nhậy cảm (PSSA) của IMO. Biển Việt Nam có nhiều vùng biển
có ranh giới với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Philippin, Campuchia, Inddonesia.. là
vùng biển có rất nhiều khu biển có giá trị sinh thái, lịch sử, văn hóa đã được bảo tồn cấp
quốc gia và của một số tổ chức quốc tế như Cô Tô, Cát Bà, Vịnh Hạ Long, Trường Sa,
Hoàng Sa, Phú Quốc. Bài báo đề xuất phân chia khu vực biển cận biên Việt Nam thành 4
vùng: vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, Hoàng Sa, Trường Sa và mô hình HTQT phù hợp. Bài
báo cũng đề xuất xây dựng khu vực Trường Sa thành Công viên biển hòa bình quốc tế.
International co-operation model on development of Transboundary marine
protected areas (TBMPA) and proposed orientation for Vietnam’s Sea
Du Van Toan
Research institute for the management of Sea and Islands
Abstract. Report overview of international models on marine protected areas across
national borders in the world. TBMPA is located on the sea and the ocean has two or
more borders between nations, which acts to preserve biodiversity, natural resources and
local cultural significance, is the management through laws or other policies on the scale
of bilateral or multilateral. Benefits of TBMPA-improved relations and international
conservation work, implementation of conventions and treaties on the protection of the
marine environment. Natural ecosystems, rare wildlife and marine environment to exist
and move continuously on the ocean has no boundaries. There are some successful
models TBMPA in the disputed sea area of many countries called Marine Park Peace
(MPP), the model construction is particularly sensitive sea area (PSSA)-co-management
vessels of IMO . Vietnam's sea has border with China, Philippines, Cambodia, Indonesia
.. Sea is the sea has many valuable ecological, historical, and cultural preservation of the
national and some international organizations such as Cat Ba and Ha Long Bay, Truong
Sa, Hoang Sa and Phu Quoc. This paper proposes models of the construction of TBMPA
for Vietnam Sea.
The article proposed zoning Vietnam marginal sea into four regions: the Gulf of
Tonkin, Gulf of Thailand and Hoang Sa, Truong Sa and appropriate ICD models. The
paper also proposes the construction Spratly area - International Marine Park Peace.
I. Mở đầu.
Theo định nghĩa của IUCN khu bảo tồn liên quốc gia (Transboundary Marine
Proctected Area-TBMPA): “Một khu TBMPA là vùng biển nằm trên khu vực
biển, đại dương có hai hoặc nhiều đường biên giới giữa các quốc gia, các đơn vị
lãnh thổ như tỉnh, vùng, vùng tự trị hoặc các vùng nằm ngoài giới hạn chủ quyền
và phạm vi quốc gia, có vai trò giữ gìn đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bản sắc văn hóa, được hợp tác quản lý thông qua luật
.
Thành lập khu bảo tồn biển liên quốc gia nhằm cải thiện trong quan hệ và công tác
bảo tồn tài nguyên môi trường quốc tế. Các hệ sinh thái và động vật hoang dã của
họ không có ranh giới chính trị, đặc biệt trên biển và đại dương. Do vậy, quản lý
tài nguyên môi trường biển phải được coi là nhiệm vụ quốc tế, của khu vực và của
các quốc gia láng giềng.
Có một số cách tiếp cận hay mô hình HTQT trong việc thiết lập các khu bảo vệ-
bảo tồn biển. Các khu bảo tồn xuyên biên giới (hay liên quốc gia) có thể được gọi
là TBMPA-khu bảo tồn xuyên biên giới, MPP-công viên biển hòa bình, hay
PSSA-vùng biển đặc biệt nhậy cảm. Với nỗ lực chung là đạt được bảo tồn liên
quốc gia dựa trên phương thức quản lý hệ sinh thái phục vụ phát triển biển bền
vững.
II. Hiện trạng mô hình và các phương pháp tiếp cận TBMPA trên thế giới
Các tổ chức quốc tế đang tích cực thúc đẩy các mô hình TBMPA là IUCN, WWF,
IMO và đã thực hiện được gần 30 năm. Với mục tiêu bảo vệ môi trường và đa
dạng sinh học biển xuyên quốc gia phục vụ phát triển bền vững biển và đại dương.
1. Khu bảo tồn biển xuyên biên giới -TBMPA là những vùng mà các quốc gia
láng giềng đã có ranh giới chủ quyền được phân định rõ ràng.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã kiểm kê số lượng các khu
vực bảo vệ phức hợp xuyên biên giới hiện đang tồn tại, cả trên cạn và dưới biển.
Theo UNEP, hiện trên thế giới có 227 trong số này.
Một số khu biển TBMPA hiện có trên thế giới (hình 3-số tương ứng như thứ tự):
Hình 1. Khu TBMPA Wadden (Đan Mạch, Đức, Hà Lan)
1.Khu vực bảo vệ quốc tế Biển Wadden - bao gồm nhiều khu bảo tồn biển và bảo
vệ khác nhau tại các quốc gia Đan Mạch, Đức, và Hà Lan - là một ví dụ hàng đầu
về Mô hình quản lý bảo tồn và hợp tác quốc tế dựa vào hệ sinh thái. Từ năm 1982
Chính phủ 3 QG đã ký hiệp ước hợp tác về BTB. Đến nay khu này đã là di sản
thiên nhiên thế giới UNESCO, PSSA.
2.Khu các dải san hô Trung Mỹ bao gồm 80 khu bảo vệ-bảo tồn thiên nhiên giữa
các quốc gia của Belize, Guatemala và Mexico.
3. Khu Pelagos 100.000 km
2
cho cá voi ở biển Liguria - hợp tác giữa các nước
Pháp, Ý, và Monaco.
4.Vùng Đông Thái Bình Dương có Khu TBMPA gồm các đặc khu kinh tế của
Colombia, Costa Rica, Ecuador, và Panama.
5.Vùng Nam Đại Dương, quản lý như một khu vực được bảo vệ rất lớn bởi Ủy ban
bảo tồn tài nguyên sinh vật biển của Nam Cực.
6. Khu bảo tồn biển giữa Nam Phi và Modambich.
7. Đảo Rùa nằm trên đường biên giới của Malaysia và Philip
, được biết đến là nơi bảo
tồn loài Rùa Xanh (Chelonia mydas). Đảo này hiện nay đã được công nhận “Khu
bảo tồn Di sản Đảo Rùa được ký kết giữa Philippines và Malaysia từ năm 1996.
Hình 2. Đảo Rùa (Malaysia và Philippines)
2. Công viên biển hòa bình
Theo IUCN định nghĩa "công viên biển hòa bình" là: Khu bảo vệ liên quốc gia
được chính thức dành riêng cho việc bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học và tài
nguyên thiên nhiên và văn hóa có liên quan, và để thúc đẩy hòa bình và hợp tác
quốc tế trên biển, hải đảo tại những nơi còn có xung đột, mâu thuẫn.
Công viên biển hòa bình có những lợi ích sau đây:
-Biểu tượng của sự hợp tác đang diễn ra giữa các quốc gia với mục đích hòa bình;
-Điểm nhấn cho các cuộc thảo luận giữa các nước láng giềng mặc dù các quốc gia
có thể đang có chia rẽ sâu sắc về kinh tế, xã hội, môi trường, hoặc lợi ích khác;
-Tăng cường an ninh và kiểm soát các nguồn tài nguyên trong khu vực biên giới
biển để các chủ sở hữu hợp pháp có thể có lợi hơn từ chúng;
-Phát triển cơ hội cho du lịch sinh thái biển và phát triển bền vững liên doanh quốc
tế trên một khu vực qui mô rộng hơn;
-Một địa điểm phong phú và linh hoạt của các mối quan hệ đối với các nhà quản lý
bảo tồn biển từ các quốc gia tham gia, các cơ quan chính phủ, địa phương và phi
chính phủ quốc tế, và cộng đồng các nhà tài trợ.
Hiện trạng Công viên biển Hòa bình-MPP (hình 3).
1. Mô hình MPP điểm về HTQT: "Công viên biển hòa bình Hồng Hải" áp dụng
theo đúng nghĩa đen với những gì Israel và Jordan đã được công nhận trong phía
Bắc Vịnh Aqaba, một vùng biển nửa kín được chia sẻ bởi các quốc gia này. Là
một phần của hiệp ước hòa bình của họ đã ký năm 1994 để bình thường hóa quan
hệ, hai quốc gia Israel và Jordan đã phát triển MPP Hồng Hải, thể hiện tại hai Khu
bảo tồn biển: Aqaba của Jordan và khu Eilat của Israel. Việc thành lập MPP Hồng
Hải kêu gọi các quốc gia đối tác có những nỗ lực nghiên cứu về san hô và và sinh
vật biển, và thực hiện các chính sách và quy định phối hợp để bảo vệ các rạn san
hô và tài nguyên sinh vật biển.
2.Công viên biển hòa bình Triều Tiên:
Những bài học từ các MPP Hồng hải, cũng như từ nhiều công viên hòa bình trên
mặt đất, đang được áp dụng trong các nỗ lực thành lập một công viên hòa bình
biển trên bán đảo Triều Tiên. Năm 2005, chính phủ Hàn Quốc đã có kế hoạch bắt
đầu xây dựng MPP với Bắc Triều Tiên trong vùng biển phía tây bán đảo Triều
Tiên- nhằm mục đích giúp đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững và hòa bình
trong khu vực, là biểu tượng của "3 chữ P": bảo vệ sinh thái toàn vẹn, hòa bình và
thịnh vượng kinh tế.
3. Các ứng cử viên MPP.
Các nhà nghiên cứu từ Israel, Jordan, và Hoa Kỳ đề xuất một số MPP tiềm năng
dự kiến trên toàn Đại dương thế giới chủ yếu tại các vùng còn có các xung đột,
khủng hoảng:
3. Phía Đông đảo quốc Caribbean;
4.Vùng biển Địa Trung Hải (Gaza/Jordan/Israel);
5. Vùng ven biển Pakistan và Ấn Độ (vùng ven đồng bằng sông Indus);
6. Vùng biển Adriatic (thuộc các nước cộng hòa Nam Tư cũ);
7. Vùng biển ở Cyprus (Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ);
8. Các vùng biển đảo tranh chấp khu vực Biển Đông (Spratly, Paracel, Pratas).
(thứ tự MPP trên bản đồ được kí hiệu mầu tím với các số hiệu từ 1- 8, hình 3)
Hình 3. Phân bố TBMPA và MPP trên thế giới
3. Khu biển đặc biệt nhậy cảm-PSSA
PSSA là một khu vực cần bảo vệ đặc biệt thông qua các hành động của tổ chức
Hàng hải quốc tế IMO, vì vùng biển có giá trị cao về sinh thái, kinh tế xã hội, hoặc
khoa học và có thể dễ bị tổn thương - thiệt hại của các hoạt động hàng hải quốc tế.
Công cụ PSSA-khu vực biển bảo vệ đặc biệt, bây giờ được xem như là một công
cụ chính trong chiến lược phát triển bền vững biển của IMO. Công cụ PSSA là
công cụ bảo vệ quốc tế, hài hòa nhiều công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển
và là một công cụ bảo vệ khu vực biển rộng có nhiều giá trị về tài nguyên môi
trường và từ các mối đe dọa hàng hải cụ thể, nó cũng là sự lựa chon của nhiều
quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Đã có 12 vùng PSSA chính thức trên thế giới
đã được công nhận từ năm 1990 và chứng minh được lợi ích của công cụ này
trong quản lý môi trường biển-hàng hải quốc tế. Vùng thứ 13 – Bonifacio (Pháp-
Ý) đã được công nhận về nguyên tắc.
Trong đó có các vùng (hình 4):
số 1:-Wadden Sea (3 nước Đan Mạch, Hà Lan, Đức) năm 2002
số 2: - Biển Baltích (8 nước Latvia, Thụy điển, Estonia, Litva, Phần Lan, Đan
Mạch, Đức, Ba Lan)- năm 2005
số 3: Vùng ven các nước Tây Âu (6 nước Bỉ, Pháp, Ai len, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Anh, 2004);
số 4: Eo Bonifacio (2 nước Pháp-Ý, 2010)
số 5: Eo biển Torres- (2 nước Úc và Papua New Guinea, 2005).
Hình 4: Các PSSA liên quốc gia trên thế giới
III. Đánh giá hiện trạng, phân vùng và đề xuất mô hình HTQT các vùng cận
biên của biển Việt Nam
Hiện nay vùng biển Việt Nam có 1 di sản thế giới, 1 khu RAMSAR, 6 khu
dự trữ sinh quyển thế giới UNESCO, 16 khu bảo tồn biển MPA quốc gia (hình 5).
Việt Nam đã và đang tích cực hội nhập quốc tế toàn diện nên việc thiết lập
TBMPA là những bước đi đúng đắn trong công tác bảo vệ môi trường và bảo tồn
đa dạng sinh học. Khu BTB xuyên biên giới đầu tiên (TPA) đang được tiến hành
trên đất liền - khu bảo tồn xuyên biên giới (Chư Mom Ray-Virachay - Dong Am
Phan) - (Việt Nam – Lào – Campuchia) - bảo vệ thiên nhiên dãy Trường Sơn.
Các vùng biển cận biên của Việt Nam dựa theo các quyết định, chính sách
về bảo tồn biển, đa dạng sinh học biển có thể phân chia ra 4 khu vực cận biên:
1. Khu vực vịnh Bắc Bộ: Hiện có 4 khu bảo tồn biển quốc gia đã được thành lập:
Khu bảo tồn biển Đảo Trần (Quảng Ninh), Khu bảo tồn biển Cô Tô (Quảng Ninh),
Khu bảo tồn Bạch Long Vỹ (Hải Phòng), Khu bảo tồn biển Cồn Cỏ (Quảng Trị).
Các vùng biển cận biên tại vịnh Bắc Bộ hiện không còn tranh chấp về biên giới –
lãnh thổ với Trung Quốc, bởi vậy ta có thể đề xuất với Trung Quốc:
- Xây dựng 1 số TBMPA hoặc PSSA thí điểm phía Bắc vịnh ,
- Xây dựng TBMPA hay PSSA thuộc dải ven biển Việt Nam và Trung Quốc,
- Xây dựng toàn vịnh Bắc Bộ thành 1 TBMPA hay PSSA
2. Khu vực biển quần Hoàng Sa:
Vùng này có tính đa dạng sinh học cao, tuy còn vấn đề tranh chấp chủ quyền với
Trung Quốc, nhưng Việt Nam có thể đề xuất xây dựng MPP tại khu vực này.
Hình 5. Các khu bảo vệ-bảo tồn thiên nhiên vùng biển Việt Nam
3. Khu vực quần đảo Trường Sa:
Khu bảo tồn biển Nam Yết, quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa), đang đề xuất thêm
khu bảo tồn biển Đảo Thuyền Chài.
- Vùng biển đảo Trường Sa đang có sự tham gia và chiếm giữ các đảo của
nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ như Trung Quốc; Việt Nam, Philippine,
Malaysia, Brunei và Đài Loan.
- Các quốc gia ASEAN và Trung Quốc có ký kết Tuyên bố ứng xử của các
bên liên quan DOC.
- Các xung đột, va chạm thường xuyên xảy ra và rất khó sớm có giải pháp
chính trị để phân chia lãnh thổ biển rõ rang.
- Đề xuất các bên lien quan sớm xem xét, lồng ghép mô hình hợp tác MPP
Trường Sa cho tiểu vùng hay toàn vùng biển quần đảo Trường Sa như là 1
bước tiến trong công tác bảo tồn thiên nhiên.
4. Khu vực vịnh Thái Lan:
Khu bảo tồn đảo Phú Quốc (Kiên Giang).
Vùng cận biên này có thể đề xuất với tất cả hay riêng rẽ quốc gia Campuchia,
Malaysia, Thái Lan để xây dựng TBMPA hay PSSA.
IV. Thảo luận và kiến nghị:
- Việt Nam chưa có kế hoạch xây dựng khu TBMPA, MPP, PSSA với các
quốc gia láng giềng. Lợi ích của các khu TBMPA là bảo vệ môi trường
biển, đa dạng sinh học biển và hợp tác quốc tế vì hòa bình-hữu nghị, đặc
biệt đối với các vùng biển cận biên
- Công tác bảo tồn-bảo vệ tài nguyên biển của Việt Nam tại các vùng biển
cận biên còn chưa có tính liên thông quốc tế. Môi trường biển thì lại không
có biên giới như trên đất liền, mà liên kết chặt chẽ với các vùng biển quốc
gia lân cận. Việc HTQT và lựa chọn mô hình là rất quan trọng cho các vùng
cận biên nhằm tuân thủ các công ước, điều ước quốc tế về biển, về môi
trường và đa dạng sinh học.
- Chúng ta cần có các chính sách riêng cho phù hợp với cả 4 vùng vịnh Bắc
Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa, vịnh Thái Lan. Đây là chính sách quan hệ quốc
tế quan trọng, định hướng cho công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và khai
thác tài nguyên biển hợp lý.
- Nghiên cứu, cập nhật kinh nghiệm, chính sách cho các vùng biển cận biên
trên thế giới dùng làm cơ sở khoa học cho đàm phán ngoại giao song
phương và đa phương
- Đề nghị các CQ quản lý về biển, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Công
An và các bộ ngành liên quan thiết lập cơ chế HTQT phục vụ nghiên cứu
cơ sở khoa học cho việc thiết lập các vùng TBMPA với các nước lân cận.
Lựa chọn và phát triển các mô hình, công cụ HTQT trong bảo vệ tài nguyên
môi trường biển phù hợp cần thiết phục vụ HTQT về biển và hải đảo.
V. Tài liệu tham khảo
1. Sandwith, T. and ext., 2001. Transboundary marine protected areas for
Peace and Cooperation. IUCN, Cambridge, UK. www.iucn.org.
2. WWF, 2006. Towards a framework for Transboundary marine protected
areas. 33 pp.
3. IMO, 2007. PSSA guidelines.
4. QĐ Chính phủ, 2010. Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam.
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dadangsinhhocxuyenbiengioivn_dvtoan_3911_2099139.pdf