Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về bảo vệ người yếu thế trong quan
hệ dân sự
Thứ nhất, cần ban hành văn bản hướng
dẫn áp dụng thống nhất quy định của BLDS
năm 2015.
Thứ hai, sửa đổi BLDS năm 2015 theo
hướng sau:
- Bổ sung quy định về năng lực hành vi
dân sự của người có nhược điểm về thể chất.
Theo đó, cần bổ sung quy định trường hợp cá
nhân có nhược điểm về thể chất như bị mù,
câm, điếc, không có chân, tay vào trường
hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và cần
phải có người đại diện theo pháp luật.
- Mở rộng thêm phạm vi những chủ
thể có quyền yêu cầu tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự như: bạn bè, người
thân, hàng xóm, những người tuy không có
quyền, lợi ích liên quan nhưng có quan hệ
mật thiết với người mất năng lực hành vi
dân sự.
- Quy định cụ thể tính chất liên quan
giữa quyền và lợi ích của người yêu cầu và
người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự nhằm tránh tình trạng tùy tiện trong việc
lợi dụng quyền yêu cầu để hạn chế khả năng
của cá nhân khác trong thực tế đời sống
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ người yếu thế trong pháp luật dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO VỆ NGƯỜI YẾU THẾ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM1
1 Bài viết có sử dụng kết quả của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Chế độ pháp lý bảo vệ người mất năng lực hành
vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự và người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định
của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” do ThS. Nguyễn Thị
Diệu Hương làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 đã hình thành một cơ chế pháp lý trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng “yếu thế” khi tham
gia giao dịch dân sự, đồng thời cũng góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích của các chủ thể có liên quan trong giao dịch dân sự do các đối
tượng nêu trên thực hiện.
Trần Diệu Hương*
* ThS. Vụ Tài chính, Ngân sách, Văn phòng Quốc hội
Abstract
The provisions under the Civil Code of 2015 and those under the
Civil Procedure Code of 2015 have established a legal ground
for protection of the legitimate rights and interests of "vulnerable
subjects” onc they participate in civil transactions, and it also
to protect the rights and interests of relevant entities in civil
transactions conducted by the mentioned-above objects.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bộ luật Dân sự, quan hệ dân
sự, người yếu thế, năng lực hành vi dân
sự
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/11/2018
Biên tập : 15/12/2018
Duyệt bài : 12/12/2018
Article Infomation:
Keywords: Civil Code of 2015, civil
transactions, vulnerable people, civil act
capacity
Article History:
Received : 19 Nov. 2018
Edited : 15 Dec. 2018
Approved : 12 Dec. 2018
1. Quan niệm người yếu thế trong quan
hệ dân sự
Về bản chất, quan hệ dân sự được thiết
lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận và tự do
ý chí giữa các bên. Do đó, các bên tham gia
quan hệ dân sự phải là các chủ thể có khả
năng nhận thức, tự do ý chí, bình đẳng về
khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ. Tuy
nhiên, có những chủ thể vì những lý do nào
đó mà không có khả năng nhận thức đầy đủ,
không có tự do ý chí cũng như khả năng tự
mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ dân sự như những đối tượng khác, do đó,
khi tham gia giao dịch dân sự, họ không thể
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 6(382) T3/2019
tự mình mà phải thông qua người khác để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như
không thể tự mình bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng phát sinh từ các quan hệ
pháp luật dân sự. Chính vì vậy, có thể hiểu
họ chính là những người “yếu thế” trong các
quan hệ pháp luật dân sự. Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 2015 đã có các quy định ghi
nhận và bảo vệ người yếu thế trong quan hệ
pháp luật dân sự, bao gồm: người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
Người mất năng lực hành vi dân sự
Người mất năng lực hành vi dân sự
được hiểu là một người đã từng có năng lực
hành vi dân sự nhưng vì một lý do nào đó
mà năng lực hành vi dân sự của họ không
còn nữa. Người mất năng lực hành vi dân sự
không thể bằng nhận thức để làm chủ, kiểm
soát hành vi của bản thân nên mọi giao dịch
đều thông qua người đại diện hợp pháp của
họ xác lập và thực hiện. Điều 22 BLDS năm
2015 quy định: “1. Khi một người do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án
ra quyết định tuyên bố người này là người
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần.
..
2. Giao dịch dân sự của người mất
năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
Quy định này cho thấy, một người bị
mắc bệnh tâm thần hay mắc các bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình mới chỉ là điều kiện cần, chưa
là điều kiện đủ để xác định người đó đã mất
năng lực hành vi dân sự, pháp luật chỉ thừa
nhận việc giám hộ cho những người này khi
có kết luận của Tòa án. Trong trường hợp lý
do khiến một người bị mất năng lực hành vi
dân sự không còn thì Tòa án sẽ ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự, phục hồi lại năng lực hành
vi dân sự cho họ.
Người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự
Người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự là những người đã từng có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ (người đã thành niên,
có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi) nhưng lại rơi vào tình trạng quy định tại
khoản 1 Điều 24 BLDS năm 2015: “Người
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người
này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự”. Kể từ thời điểm quyết định tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi dân sự của Tòa án
đối với một người có hiệu lực pháp luật cho
đến khi quyết định đó bị hủy bỏ: “Khi không
còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của
chính người đó hoặc của người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân
sự” thì cá nhân đó chỉ được tự mình xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự có giá trị nhỏ
nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày của bản thân họ. Nếu họ muốn tham
gia các giao dịch khác phải có sự đồng ý
của người đại diện hợp pháp. Trên thực tế,
những người nghiện ma túy, các chất kích
thích như rượu, bia... thì việc họ phá tán tài
sản của gia đình và xã hội là điều dễ xảy ra,
nên chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự khá rộng. Không chỉ người có quyền
lợi liên quan mà các cơ quan, tổ chức hữu
quan đều có quyền này. Từ phân tích trên
có thể thấy, quy định của BLDS về năng lực
hành vi dân sự bị hạn chế có ý nghĩa quan
trọng, có tác dụng ngăn ngừa tệ nạn xã hội
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 6(382) T3/2019
cùng các hệ lụy tiêu cực liên quan đến hành
vi của người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.
Người khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi
Theo quy định của Điều 23 BLDS năm
2015, người thành niên do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu
của người này, người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm
thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người
này là người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ,
xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó
hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án
ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
Quy định trên cho thấy, người khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi là người mà
họ chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự nhưng vì lý do thể chất hay tinh thần mà
không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành
vi, đây là cũng là căn cứ phát sinh giám hộ
theo quy định của BLDS năm 2015.
2. Bảo vệ người yếu thế trong pháp luật
dân sự
Để bảo vệ người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, BLDS năm 2015, Bộ luật
Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 đã thiết
lập các biện pháp bảo vệ như: chế độ giám
hộ, chế độ đại diện.
2.1 Chế độ giám hộ
Chế độ giám hộ được BLDS năm 2015
quy định từ Điều 46 đến Điều 63. Theo quy
định của BLDS năm 2015, giám hộ bao gồm
giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử. Đặc
biệt, việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật về hộ tịch. Quy định này là
cần thiết để hợp thức hóa quan hệ giám hộ
giữa người giám hộ và người được giám hộ,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
không chỉ người được giám hộ, người giám
hộ và cả người thứ ba trong quan hệ dân sự.
Nếu như việc giám hộ không ghi nhận rõ
tư cách pháp lý của người được giám hộ và
người giám hộ sẽ dẫn đến sự thiếu chính xác
trong việc xác định trách nhiệm của người
giám hộ đối với người được giám hộ. Ví
dụ, trong trường hợp anh cả/chị cả là người
giám hộ đương nhiên cho em chưa thành
niên nhưng sau đó lại không đủ điều kiện
làm người giám hộ nữa thì anh/chị ruột tiếp
theo là người giám hộ.
Về người giám hộ: Người giám hộ bao
gồm cả cá nhân và pháp nhân. Việc BLDS
năm 2015 bổ sung pháp nhân có thể là người
giám hộ sẽ tạo thuận lợi cho việc thi hành
chế độ giám hộ trên thực tế.
Về giám sát người giám hộ: Trên tinh
thần chủ động, tôn trọng ý chí của những
người thân thích của người được giám hộ,
việc giám sát người giám hộ trước hết được
ghi nhận dựa trên sự thỏa thuận của những
người thân thích của người được giám hộ
để cử ra người giám sát việc giám hộ. Việc
lựa chọn này hướng đến một trong số những
người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp
nhân khác. Điều này bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của những chủ thể này cũng
như bảo đảm việc giám hộ được thực hiện
bằng sự thiện chí, tự nguyện của các chủ thể.
2.2 Chế độ đại diện
Chế độ đại diện được BLDS năm
2015 quy định từ Điều 134 đến Điều 143.
Về cơ bản, các quy định về đại diện của
BLDS năm 2015 đã đáp ứng được những
yêu cầu trong xác lập, thực hiện các quan
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 6(382) T3/2019
hệ dân sự. Những nội dung quan trọng về
đại diện đã được BLDS năm 2015 quy định
cụ thể, rõ ràng như: đại diện trong trường
hợp một cá nhân, pháp nhân có nhiều người
đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền;
đại diện trong trường hợp một cá nhân, pháp
nhân làm đại diện cho nhiều chủ thể khác
nhau; thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba trong trường hợp một
bên hoặc cả hai bên không thực hiện đúng
quy định về đại diện, đặc biệt trong trường
hợp người đại diện thực hiện vượt quá phạm
vi đại diện của mình và người thứ ba có lý
do chính đáng để tin rằng người đại diện có
thẩm quyền để thực hiện hành vi đó; thực
hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên
giao kết hợp đồng với người không có thẩm
quyền đại diện nhưng lại giao kết hợp đồng
với tư cách là người đại diện cho người khác
và người bị cho là người được đại diện yêu
cầu tuyên bố đại diện không có giá trị pháp
lý; đại diện của cộng đồng, dòng họ trong
các giao dịch và trách nhiệm ngoài hợp
đồng; trường hợp pháp nhân là người đại
diện theo ủy quyền của cá nhân hoặc pháp
nhân khác.
2.3 Khôi phục năng lực hành vi khi căn cứ
“yếu thế” không còn
Điều 22, Điều 23 và Điều 24 BLDS
năm 2015 quy định: Người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi sẽ được khôi
phục hành vi dân sự khi các căn cứ để xác
định họ bị mất hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi không còn và theo yêu cầu của
chính họ hoặc của những người có quyền,
lợi ích liên quan, cá nhân, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi. Những quy định này vừa bảo
đảm quyền lợi cho người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, vừa bảo đảm tôn trọng ý
chí tự nguyện của các bên.
3. Một số hạn chế trong quy định của
pháp luật dân sự về bảo vệ người yếu thế
trong quan hệ dân sự
BLDS năm 2015 và Bộ luật TTDS
năm 2015 mặc dù mới áp dụng được gần 3
năm, tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các
quy định pháp luật nội dung và pháp luật tố
tụng liên quan đến vấn đề bảo vệ người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi đã bộc lộ
một số hạn chế sau đây:
3.1 Về chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi
Thuật ngữ “cơ quan, tổ chức hữu
quan” sử dụng trong các Điều 22, 23, 24
BLDS năm 2015 là những khái niệm chưa
rõ ràng. Để bảo đảm áp dụng thống nhất
pháp luật, cần giải thích rõ “cơ quan, tổ chức
hữu quan” là cơ quan, tổ chức nào có quyền
yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố người
mất năng lực hành vi dân sự; khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
3.2 Về giám hộ
Quy định hiện hành theo hướng chỉ
ghi nhận một người là chưa thực sự thuyết
phục. Khoản 2 Điều 47 BLDS năm 2015
quy định “một người chỉ có thể được một
người giám hộ, trừ trường hợp cha mẹ cùng
giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám
hộ cho cháu”. Đối với một số trường hợp,
chúng ta nên xem xét theo hướng cho phép
tách vấn đề giám hộ về chăm sóc cá nhân
và giám hộ về tài sản nếu thấy rằng có thể
giao hai việc này cho hai chủ thể khác nhau
nhằm giám hộ tốt hơn cho người mất năng
lực hành vi dân sự.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 6(382) T3/2019
3.3 Về đại diện
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
chưa có quy định cụ thể về trường hợp vợ,
chồng đại diện cho nhau trong việc thực
hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản riêng của vợ, chồng. Nếu như bên có tài
sản riêng đột nhiên bị mất năng lực hành vi
dân sự thì pháp luật quy định bên còn lại có
quyền quản lý tài sản đó, nhưng việc quản lý
đó có đương nhiên được tiếp tục thực hiện
các giao dịch liên quan đến tài sản riêng nữa
không thì pháp luật chưa quy định rõ nên
chưa có cơ chế để bảo vệ lợi ích hợp pháp
của các bên có liên quan.
Pháp luật hiện hành chưa quy định về
trường hợp người đại diện theo pháp luật
của người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xâm phạm đến lợi ích của người được đại
diện thì ai sẽ khởi kiện bảo vệ lợi ích hợp
pháp cho người được đại diện2.
3.4 Về giải quyết ly hôn trong trường hợp
người mất năng lực hành vi dân sự là bị đơn
Đối với trường hợp khi bị đơn là người
bị bệnh tâm thần thì họ không thể tự mình
thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Khoản
4 Điều 69 Bộ luật TTDS năm 2015 quy
định: “Người mất năng lực hành vi dân sự
thì không có năng lực hành vi TTDS. Việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương
sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho những người này tại Tòa án do người
đại diện hợp pháp của họ thực hiện”. Vậy,
trong trường hợp xin ly hôn thì người đại
diện cho vợ (chồng) bị tâm thần là ai? Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 thì trong trường hợp
một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân
sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết
ly hôn thì Tòa án chỉ định người khác đại
diện cho người bị mất năng lực hành vi dân
sự để giải quyết việc ly hôn. Việc chỉ định
2 Thân Thị Ngọc Bích, Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự trong BLDS năm 2015. Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, 2017.
của Toà án phải căn cứ vào quy định về giám
hộ trong BLDS. Tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật
TTDS năm 2015 cũng có đề cập: khi tiến
hành TTDS, nếu có đương sự là người mất
năng lực hành vi dân sự mà không có người
đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật
của họ thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì
Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham
gia tố tụng.
Tuy nhiên, Toà án chỉ được chỉ
định người giám hộ trong trường hợp có
tranh chấp giữa những người giám hộ quy
định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS năm
2015 về người giám hộ hoặc tranh chấp
về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ
định người giám hộ.
Những quy định trên cho thấy, BLDS
và Bộ luật TTDS năm 2015 không có điều
khoản nào quy định cho trường hợp Tòa
án chỉ định người khác đại diện cho người
bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết
việc ly hôn.
Về trường hợp ly hôn với một bên có
dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh tâm
thần nhưng chưa có quyết định tuyên bố
người này mất năng lực hành vi dân sự, Bộ
luật TTDS năm 2015 và Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 không có quy định về
trường hợp ly hôn với người có dấu hiệu bị
bệnh tâm thần hoặc bị bệnh tâm thần nhưng
chưa có quyết định tuyên bố người này mất
năng lực hành vi dân sự. Khi gặp tình huống
này, Toà án thường yêu cầu đương sự làm
thủ tục xác định tình trạng năng lực pháp
luật của người này để xác định họ có thể
đủ năng lực tham gia tố tụng tại Toà án hay
không. Một trong trong những cách thức đó
là yêu cầu làm thủ tục tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự. Nhưng để
tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 6(382) T3/2019
dân sự vì lý do bị bệnh tâm thần thì cần phải
có tài liệu chứng cứ chứng minh như kết
luận của cơ quan chuyên môn và đó là một
việc dân sự nên đòi hỏi những thủ tục nhất
định theo quy định của Bộ luật TTDS. Trên
thực tế, trong trường hợp đương sự chưa đáp
ứng được yêu cầu về thủ tục, ở đây là kết
luận giám định pháp y tâm thần dẫn đến việc
Tòa án không thể tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự. Tòa án sẽ trả lại
đơn khởi kiện, từ chối thụ lý, tạm đình chỉ
hay đình chỉ đều không rõ ràng vì tất cả các
cách này TTDS hiện hành đều không cho
phép và không nằm trong các trường hợp
trả đơn khởi kiện tại Điều 192, tạm đình chỉ
Điều 214 (Trừ trường hợp áp dụng điểm d
Khoản 1 Điều 214), đình chỉ Điều 217 của
Bộ luật TTDS 2015.
4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về bảo vệ người yếu thế trong quan
hệ dân sự
Thứ nhất, cần ban hành văn bản hướng
dẫn áp dụng thống nhất quy định của BLDS
năm 2015.
Thứ hai, sửa đổi BLDS năm 2015 theo
hướng sau:
- Bổ sung quy định về năng lực hành vi
dân sự của người có nhược điểm về thể chất.
Theo đó, cần bổ sung quy định trường hợp cá
nhân có nhược điểm về thể chất như bị mù,
câm, điếc, không có chân, tay vào trường
hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và cần
phải có người đại diện theo pháp luật.
- Mở rộng thêm phạm vi những chủ
thể có quyền yêu cầu tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự như: bạn bè, người
thân, hàng xóm, những người tuy không có
quyền, lợi ích liên quan nhưng có quan hệ
mật thiết với người mất năng lực hành vi
dân sự.
- Quy định cụ thể tính chất liên quan
giữa quyền và lợi ích của người yêu cầu và
người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự nhằm tránh tình trạng tùy tiện trong việc
lợi dụng quyền yêu cầu để hạn chế khả năng
của cá nhân khác trong thực tế đời sống
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015 Số 91/2015/QH13 ngày 25/11/2015;
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015;
3. Học viện Tư pháp, Giáo trình tố tụng dân sự, Nxb. Công an nhân dân, 2007, tr. 466 và 467;
4. Nguyễn Thị Hạnh, “Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về cử người giám hộ cho người mất năng
lực hành vi dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 01/2013;
5. Nguyễn Thị Thúy Hằng, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 5/2013;
6. TS.Nguyễn Hải An, “Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về người chưa thành niên trong tố tụng
dân sự - Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự đối với
người chưa thành niên”, tham luận tại Hội thảo quốc tế của Ủy ban Tư pháp Quốc hội về xây dựng Tòa Gia
đình, người chưa thành niên và Luật Tổ chức Tòa án, Hải Phòng ngày 27, 28/2/2014;
7. Thân Thị Ngọc Bích, “Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự trong BLDS năm 2015”, Tạp chí Khoa
học trường Đại học Cần Thơ, 2017;
8. Trương Hồng Quang, Nguyễn Thị Lương Trà, “Một số điểm mới về giám hộ và đại diện trong BLDS năm
2015”, Viện Khoa học pháp lý.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ve_nguoi_yeu_the_trong_phap_luat_dan_su_viet_nam.pdf