Như vậy, mục đích ban đầu của các nhà
lập hiến khi tạo nên chính thể cộng hòa hỗn
hợp cũng không đạt được trong thực tiễn sinh
hoạt chính trị ở những quốc gia theo chính thể
này, vì các nhà lập hiến muốn xây dựng một
chế định tổng thống có thực quyền để kiềm
chế sự độc tài của Nghị viện số đông. Tuy
nhiên, với những phân tích trên và thực tiễn
chính trị đã chứng minh thì chính Tổng thống
mới là chủ thể tạo ra sự bất ổn trong chính
trường do có quá nhiều quyền hành, vô hình
chung đã lấn át đi vai trò của Nghị viện. Ngoài
ra, chính thể này cũng mong muốn tạo ra một
quyền hành pháp mạnh, thống nhất nhưng
trong trường hợp “chung sống chính trị” nêu
trên, quyền hành pháp bị chia sẻ giữa Tổng
thống và Thủ tướng nên nhiều khi chỉ mang
lại sự mâu thuẫn, sự tranh giành quyền lực và
bất ổn
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ quyền của chủ nợ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO VỆ QUYỀN CỦA CHỦ NỢ
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Tóm tắt:
Có thể nói khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn trong trả
nợ, yêu cầu hỗ trợ của tổ chức xử lý nợ của doanh nghiệp chỉ là
giải pháp tình thế. Vấn đề là phải làm thế nào tìm ra nguyên nhân
và bất cập về bảo vệ chủ nợ trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp để hạn chế tối đa thiệt hại cho chủ nợ. Hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp là nền tảng cơ bản bảo vệ quyền chủ nợ bền vững
và buộc doanh nghiệp, người quản lý, điều hành doanh nghiệp tôn
trọng quyền của chủ nợ và người liên quan.
* GV. Bộ môn Luật Kinh doanh, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Thị Lan Hương*
Abstract
It can be seen that an enterprise shall face with difficulties for
debt repayments, the supports of the debt-settling organization
for enterprises is just a temporary solution. The raised question
is how to find out the causes and inadequacies related to creditor
protection in business activities to minimize the creditors’ losses.
Improvement of the law on enterprises is the fundamental ground
to protect the right of creditors and compel enterprises, managers
and executives to respect the rights of creditors and related
stakeholders.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: doanh nghiệp, công ty cổ
phần, nợ, con nợ, ngân hàng thương
mại, quyền truy cập thông tin, nghĩa vụ
của lòng trung thành
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 22/01/2019
Biên tập : 18/02/2019
Duyệt bài : 27/02/2019
Article Infomation:
Keywords: Enterprise, Join Stock
Corporation, Debt, Debtor, Commercial
Bank, right to acess information, duty of
loyalty
Article History:
Received : 22 Jan. 2019
Edited : 18 Feb. 2019
Approved : 27 Feb. 2019
1. Nợ và triết lý vay nợ của doanh nghiệp
1.1 Nợ của doanh nghiệp
Theo Từ điển Investopedia, nợ là
khoản tiền vay của một bên từ một bên khác.
Vay nợ là hình thức được nhiều công ty và
cá nhân sử dụng để giao dịch. Khoản vay
được thu xếp cho bên vay với điều kiện phải
hoàn trả sau đó cùng với lãi suất1. Trên thực
tế, quan hệ vay nợ phát sinh khi một bên có
1 https://www.investopedia.com/terms/d/debt.asp
nhu cầu huy động vốn, một bên có nhu cầu
cho vay hoặc bán chịu hàng hóa.
Dưới góc độ kinh tế, nợ phát sinh
trong quan hệ tín dụng - quan hệ sử dụng
vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Trong quan hệ này, chủ nợ cho vay nhằm
tìm kiếm lợi ích kinh tế từ khoản lãi suất
hoặc duy trì quan hệ kinh doanh, còn chủ thể
vay nhằm mục đích đầu tư kinh doanh.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 5(381) T3/2019
Dưới góc độ pháp lý, khoản nợ phát
sinh từ hợp đồng vay, theo đó bên vay có
quyền sử dụng vốn trong một thời hạn thỏa
thuận, còn bên cho vay có quyền được hoàn
trả gốc và lãi theo cam kết.
Ở Việt Nam, quy định về nợ của
doanh nghiệp liên quan đến chế định về hợp
đồng vay trong Bộ luật Dân sự, Luật Doanh
nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Phá sản,
Luật Kế toán, Luật Kiểm toán. Cụ thể là
doanh nghiệp khi tham gia quan hệ tín dụng
có nghĩa vụ hoàn trả khoản vay hoặc khoản
nợ do mua chịu hàng hóa. Trong hoạt động
kinh doanh, doanh nghiệp có nghĩa vụ hạch
toán khoản nợ trên tài khoản kế toán theo
Luật Kế toán, hoặc khoản nợ được chi trả
theo trình tự thanh toán nợ trong xử lý phá
sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản
Như vậy, thông thường, trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, khoản
nợ phát sinh dựa trên các giao dịch của
doanh nghiệp trong vay vốn, mua chịu hàng
hóa. Về bản chất, nó là trái vụ doanh nghiệp
hình thành dựa trên thỏa thuận trong hợp
đồng và chủ nợ có quyền yêu cầu hoàn trả
và thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền
lợi của mình.
1.2 Triết lý bảo vệ chủ nợ
Bảo vệ chủ nợ bằng tài sản của doanh
nghiệp
Triết lý bảo vệ chủ nợ bằng tài sản
của doanh nghiệp bắt nguồn từ quan hệ tín
dụng. Khoản vốn vay được sử dụng nhằm
tạo lợi ích cho chủ sở hữu. Do trong công ty
trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty cổ
phần (CTCP) người góp vốn hoặc cổ đông
với tư cách là chủ sở hữu nhưng chỉ chịu
TNHH trong phần vốn góp, nên chủ nợ chỉ
có quyền đòi nợ công ty và công ty có nghĩa
vụ trả nợ bằng chính tài sản của mình. Đây
là quan điểm phổ biến theo Luật Công ty của
2 Tham khảo: Sealy and S. Worthington, Cases and Materials in Company Law, 8th Edition (Oxford University Press
2008) pp. 372 – 374; và E. Ferran, Company Law and Corporate Finance (Oxford, New York: Oxford University Press
1999), pp. 44 - 45
3 Quan điểm của học giả Nhật Bản trong cuốn Luật Công ty, Nxb. Hội Quản lý thuế, Bản mới, 1995(青木英夫著『会
社法』税務経理協会、新訂版、1995) trang 25.
các nước, trong đó có Việt Nam.
Ở Anh, Mỹ, theo truyền thông, nguyên
tắc vốn pháp định có vị trí quan trọng trong
bảo vệ chủ nợ. Nguyên tắc này bao trùm
lên việc phát hành cổ phần tăng vốn điều lệ,
đồng thời quy định duy trì vốn của công ty
bằng quy định buộc công ty hạn chế chuyển
nhượng tài sản của công ty cho cổ đông2. Ở
Nhật Bản, khoản bảo đảm chi trả cho trái
chủ chỉ là tài sản của công ty3. Còn ở Việt
Nam, khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định về nghĩa vụ của thành
viên công ty TNHH có hai thành viên trở
lên: “Thành viên công ty có nghĩa vụ góp
đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết và chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn đã
góp vào công ty”, cổ đông là người sở hữu
cổ phần của công ty được phân chia cổ tức
và cũng chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của CTCP trong phạm
vi vốn đã góp (điểm c, khoản 2 Điều 110).
Chế độ TNHH tạo ra lợi thế cho thành
viên công ty và cổ đông với tư cách là người
góp vốn - chủ sở hữu công ty, nhưng cũng
chính chế độ trách nhiệm này ảnh hưởng đến
hoạt động của công ty do phải điều chỉnh
quan hệ lợi ích giữa chủ nợ và chủ sở hữu
để duy trì cùng một lúc cả nguồn vốn góp và
vốn vay sử dụng cho hoạt động kinh doanh.
Thông thường, khoản vốn vay nhằm
thực hiện dự án đầu tư để tạo lập nên tài sản
cố định của doanh nghiệp hoặc để bổ sung
vốn cho hoạt động. Lợi nhuận của doanh
nghiệp hình thành từ việc sử dụng tài sản tạo
lập từ cả vốn của chủ sở hữu và vốn vay. Khi
sử dụng khoản vốn vay, doanh nghiệp phải
trả lãi vay, khoản lãi này cấu thành chi phí
của doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp chỉ
có lãi sau khi hạch toán các chi phí trong
đó có chi phí lãi vay. Chi phí lãi vay càng
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 5(381) T3/2019
lớn thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng ít,
do đó, doanh nghiệp phải cân nhắc sử dụng
khoản vốn vay hợp lý nhằm bảo đảm an toàn
tài chính của doanh nghiệp, tránh nguy cơ
thua lỗ, phá sản gây thiệt hại cho cả chủ nợ
và cả chủ sở hữu.
Quyền lợi ưu tiên của chủ nợ so với
chủ sở hữu
Lợi ích của chủ nợ đối với khoản vay
thực chất được bảo đảm bằng giá trị sinh lời
của tài sản đầu tư của doanh nghiệp. Xét mối
quan hệ giữa chủ sở hữu và chủ nợ, hai chủ
thể này đều có quyền lợi phát sinh từ công
ty. Tuy nhiên, chủ sở hữu có quyền lợi theo
quan hệ góp vốn, còn chủ nợ có quyền lợi
theo quan hệ tín dụng. Hai nhóm quan hệ
này song hành tồn tại với doanh nghiệp, các
quan hệ này là độc lập nhưng trong một số
trường hợp vị trí chủ thể này có thể được
hoán đổi.
Tài sản của doanh nghiệp được hình
thành từ hành vi góp vốn của người góp vốn
có thể là thành viên công ty hoặc cổ đông.
Khoản nợ do doanh nghiệp vay về mặt kế
toán, được quản lý tách bạch với vốn chủ
sở hữu. Khoản nợ hình thành trong quan hệ
tín dụng giữa doanh nghiệp và người cho
vay là khoản nợ phải được hoàn trả dựa trên
nguyên tắc tín dụng. Điều này có nghĩa là,
doanh nghiệp sau khi được giải ngân vốn
vay phải có kế hoạch thu xếp nguồn tiền để
trả khoản nợ khi đến hạn bằng chính tài sản
của doanh nghiệp hoặc bằng các nguồn vốn
hợp pháp khác.
Do kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp không phải lúc nào cũng đạt mục
đích như mong muốn, vốn chỉ được thu hồi
sau một thời hạn nhất định, có thể nhiều năm
sau khi đầu tư. Bởi vậy, quyền đòi nợ của
chủ nợ được bảo đảm từ khối tài sản của
doanh nghiệp bằng những bằng chứng pháp
lý theo thỏa thuận khi thiết lập quan hệ tín
dụng, theo đó chủ nợ có quyền ưu tiên xử lý
tài sản bảo đảm để thu nợ.
Luật Công ty ở các nước cũng như
Luật Doanh nghiệp Việt Nam ghi nhận
nguyên tắc ưu tiên lợi ích của chủ nợ trong
quan hệ với chủ sở hữu. Ở Việt Nam, CTCP
chỉ được chi trả cổ tức khi đủ điều kiện: (i)
Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của
pháp luật; (ii) Đã trích lập các quỹ công ty
và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của
pháp luật và Điều lệ công ty; (iii) ngay sau
khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo
đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác đến hạn (khoản 2 Điều 132
Luật Doanh nghiệp). Trong công ty TNHH
2 thành viên trở lên, điều kiện để chia lợi
nhuận cho các thành viên là khi công ty kinh
doanh có lãi, đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và
các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định
của pháp luật và bảo đảm thanh toán đủ các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn trả
khác sau khi chia lợi nhuận (Điều 69 Luật
Doanh nghiệp năm 2014).
Như vậy, chủ nợ có quyền lợi ưu tiên
so với chủ sở hữu trong quan hệ với khối tài
sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thực
hiện được quyền này, chủ nợ phải biết hoặc
phải được biết thông tin về tài chính doanh
nghiệp để có thể thực hiện quyền hoặc yêu
cầu bảo vệ quyền của mình.
Chủ nợ áp dụng biện pháp bảo vệ
Chủ nợ có thể áp dụng biện pháp tự
bảo vệ hoặc yêu cầu được bảo vệ. Biện
pháp tự bảo vệ dựa trên nguyên tắc thỏa
thuận thống nhất ý chí giữa chủ nợ và doanh
nghiệp vay hoặc mua chịu hàng hóa. Đối với
trường hợp thỏa thuận trong vay nợ và mua
bán chịu hàng hóa, bên cho vay và người
bán chịu hàng hóa phải thỏa thuận với doanh
nghiệp để bảo đảm thu hồi khoản cho vay
hoặc khoản mua bán chịu. Theo đó, doanh
nghiệp vay hoặc mua chịu hàng hóa phải
thực hiện theo cam kết thỏa thuận trong hợp
đồng vay hoặc hợp đồng bán chịu.
Bộ luật Dân sự quy định các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và biện
pháp này cũng được cụ thể hóa trong hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD).
Theo đó, khi cho vay hoặc khi bán chịu hàng
hóa, chủ nợ phải nhận biết rủi ro mất khả
năng thanh toán của doanh nghiệp để yêu
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 5(381) T3/2019
cầu doanh nghiệp phải thực hiện biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Doanh nghiệp
có thể sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu
để thế chấp hoặc cầm cố cho khoản vay
hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán
theo hợp đồng mua bán. Theo đó, chủ nợ có
quyền ưu tiên thanh toán khi nhận thế chấp,
cầm cố theo trình tự, thủ tục luật định.
Đối với biện pháp yêu cầu được bảo
vệ, việc áp dụng biện pháp thuộc về trách
nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong
bảo vệ chủ nợ. Bộ luật Dân sự ghi nhận
quyền khởi kiện khi một bên vi phạm hợp
đồng và gây thiệt hại. Theo đó, các chủ nợ
có quyền đòi nợ phát sinh từ các giao dịch
vay nợ, bán chịu hàng hóa đều có thể thực
hiện quyền này. Đối với trường hợp doanh
nghiệp phát hành trái phiếu, người mua trái
phiếu được bảo vệ bằng quy định của pháp
luật về điều kiện đối với doanh nghiệp phát
hành trái phiếu. Còn đối với trường hợp lâm
vào tình trạng phá sản, Luật Phá sản cũng là
cơ sở pháp lý để chủ nợ có quyền yêu cầu
tòa án xử lý phá sản doanh nghiệp để thu
hồi nợ. Tuy nhiên, đối với trường hợp phá
sản doanh nghiệp, chủ nợ được chi trả theo
thứ tự ưu tiên, nên tài sản của doanh nghiệp
được bán có thể không thể thanh toán hết
các khoản nợ theo yêu cầu của chủ nợ.
Như vậy, căn cứ vào đặc thù của
khoản vay, bên cho vay phải nhận biết
quyền lợi của mình trong giao dịch và các
rủi ro phát sinh khi thiết lập quan hệ vay nợ
đối với doanh nghiệp và cân nhắc các biện
pháp bảo vệ phù hợp. Hiện nay, tình trạng
vay nợ đầu tư thường gắn với lợi ích của
nhóm công ty, và tình trạng nợ xấu của các
TCTD, đặc biệt của các ngân hàng thương
mại (NHTM) cũng liên quan đến hoạt động
đầu tư này. Bởi vậy, trong xử lý nợ của các
doanh nghiệp và của các NHTM, ngoài biện
pháp nêu trên, cần thiết có sự hỗ trợ của các
tổ chức đặc biệt4.
4 Các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, ngân hàng xử lý nợ như Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Công ty
Quản lý nợ và khai thác tài sản NHTM (AMC) và Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC). Trong phạm vi bài viết
này không đề cập cụ thể.
2. Một số bất cập trong bảo vệ chủ nợ và
một số kiến nghị
2.1 Quyết định vay vốn đầu tư tạo rủi ro
cho chủ nợ
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
liên tục, đầu tư là hình thức để tạo lập tài
sản, tạo ra doanh thu và lợi nhuận thường
xuyên của doanh nghiệp, theo đó, khoản vay
có thể phát sinh bất cứ lúc nào theo nhu cầu
đầu tư của doanh nghiệp được cấu thành
trong tài sản của doanh nghiệp và được hạch
toán trên các tài khoản kế toán của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp có thể vay vốn để thực
hiện mục đích: (i) thực hiện các dự án đầu tư
mới tạo lập tài sản cố định; (ii) bổ sung vốn
lưu động; (iii) tái cơ cấu khoản nợ
Doanh nghiệp có thể vay vốn trước khi
thực hiện dự án, trong khi thực hiện dự án và
khi tài sản hình thành từ dự án được đưa vào
khai thác. Tuy nhiên, khoản vốn chỉ được
thu hồi khi tài sản hình thành từ dự án tạo ra
doanh thu. Khoản vốn vay đầu tư cùng với
một phần vốn của chủ sở hữu trở thành các
loại chi phí tạo ra tài sản cố định để thực hiện
sản xuất, kinh doanh tạo ra doanh thu. Kế
hoạch đầu tư của doanh nghiệp thường phụ
thuộc vào cơ hội kinh doanh, theo đó, hoạt
động vay có thể nằm trong phương án đầu
tư do cơ quan chủ sở hữu quyết định hoặc
cơ quan quản lý quyết định nhưng cũng có
thể là quyết định riêng lẻ của người quản lý,
điều hành trong phạm vi thẩm quyền được
giao. Khoản vay phải được sử dụng vào mục
đích của doanh nghiệp và bộ máy quản lý,
điều hành theo thẩm quyền phải hạch toán
khoản vay, kiểm soát việc sử dụng vốn vay
và trả nợ.
Từ phía chủ nợ, nếu không thẩm định
chặt chẽ đề xuất vay vốn, xem xét khả năng
trả nợ thì bản thân chủ nợ phải gánh chịu
rủi ro nguy cơ mất vốn. Trên thực tế, nhiều
doanh nghiệp vay vốn có thế chấp tài sản cố
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 5(381) T3/2019
định cho ngân hàng nhưng ngân hàng cũng
không dễ dàng xử lý để thu nợ. Đặc biệt,
nếu kinh doanh khó khăn, tài sản đầu tư lớn
nhưng khả năng tạo doanh thu còn hạn chế
sẽ khiến chủ nợ có thể buộc phải xử lý tài
sản bảo đảm để thu hồi vốn.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc
vay nợ nhằm thực hiện dự án đầu tư phải
được quyết định gắn với khả năng tài chính
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nghĩa
vụ bảo vệ chủ nợ từ quyết định dự án đầu tư
có hiệu quả và triển khai thực hiện dự án đầu
tư. Bảo vệ chủ nợ chính là bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của người
góp vốn.
Doanh nghiệp vừa phải duy trì hoạt
động kinh doanh vừa phải thực hiện nghĩa
vụ tài chính với chủ nợ và người góp vốn.
An toàn tài chính được thể hiện ở tình trạng
doanh nghiệp kinh doanh có lãi, hoàn trả
được các khoản nợ đến hạn và có phân chia
lợi nhuận cho người góp vốn. Hoạt động
kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố cung
cầu thị trường, khả năng nhạy bén kinh
doanh của người lãnh đạo, lợi thế của ngành,
lĩnh vực kinh doanh. Việc tuân thủ pháp luật
và tuân thủ nguyên tắc kinh doanh để bảo
đảm an toàn vốn và tài sản của doanh nghiệp
là trách nhiệm của các cơ quan trong nội bộ
doanh nghiệp và người quản lý, điều hành.
Luật Doanh nghiệp dường như bỏ ngỏ
quyền chủ nợ được bảo vệ bằng an toàn tài
chính từ vốn của chủ sở hữu. Mặc dù Luật
quy định điều kiện về chi trả lợi nhuận cho
người góp vốn, cổ tức cho cổ đông sau khi
hoàn thành nghĩa vụ tài chính trong đó có
trích lập các quỹ công ty nhưng lại không
ghi nhận yêu cầu của chủ nợ. Do đó, chủ
nợ chưa được bảo vệ bằng quyền yêu cầu
bảo vệ trên cơ sở pháp luật. Nếu coi doanh
nghiệp là một mắt xích tạo ra tài sản thì cũng
cần phải buộc doanh nghiệp duy trì mức độ
an toàn tài chính tối thiểu. Bằng cách này,
chủ nợ gián tiếp được bảo vệ. Ngoài ra, giới
5 Có thể tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản: Luật Công ty quy định chủ nợ có quyền phản đối về việc giảm vốn điều
lệ và qũy của CTCP, trong thời hạn nhất định, chủ nợ có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến việc giảm vốn
và bảng cân đối kế toán (Điều 449 Luật Công ty năm 2015, sửa đổi năm 2017).
hạn an toàn nợ của doanh nghiệp cũng phải
được yêu cầu khi doanh nghiệp vay vốn từ
NHTM hoặc phát hành trái phiếu. Đây là
những điều kiện buộc doanh nghiệp phải
đáp ứng. Luật Doanh nghiệp cần có quy
định mang tính nguyên tắc làm cơ sở quy
định của Luật chuyên ngành về nghĩa vụ bảo
đảm an toàn tài chính của doanh nghiệp5.
2.2 Quyết định vay vốn và kiểm soát thực
hiện quyết định
Vay vốn là một hoạt động của doanh
nghiệp nằm trong việc triển khai thực hiện
dự án đầu tư. Trong phương án đầu tư được
thông qua, thu xếp nguồn vốn được xem như
một nội dung vô cùng quan trọng. Giá trị
khoản vay để đầu tư có thể do cơ quan chủ
sở hữu, cơ quan quản lý hoặc cơ quan điều
hành quyết định tùy thuộc vào thẩm quyền
quyết định theo quy định của pháp luật hoặc
quy định trong nội bộ doanh nghiệp. Bảo
đảm việc tuân thủ pháp luật trong quyết
định vay nợ của cơ quan trong nội bộ doanh
nghiệp cũng chính là cơ sở để bảo vệ chủ
nợ, hạn chế những rủi ro phát sinh do quyết
định đầu tư không hiệu quả, vay vốn không
đúng mục đích gây thiệt hại cho chủ nợ và
cho chính doanh nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp, trong CTCP,
Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) gồm tất cả
cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan
quyết định cao nhất (khoản 1 Điều 135),
ĐHĐCĐ có thẩm quyền quyết định đầu tư
hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn
hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu
Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ
hoặc một giá trị khác (điểm d khoản 2 Điều
135); Còn Hội đồng quản trị (HĐQT) có
quyền thông qua hợp đồng vay và cho vay
có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính
gần nhất của công ty, nếu Điều lệ công ty
không quy định một tỷ lệ hoặc giá trị khác
(điểm d khoản 2 Điều 149). Ngoài ra, Luật
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 5(381) T3/2019
Doanh nghiệp còn quy định hợp đồng, giao
dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây
phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận
nhằm tránh xung đột lợi ích và bảo vệ tài
sản của công ty. Cụ thể là hợp đồng, giao
dịch do ĐHĐCĐ chấp thuận có liên quan
đến các đối tượng là: (i) Cổ đông, người đại
diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 10%
tổng số cổ phần phổ thông của công ty và
những người có liên quan của họ; (ii) Thành
viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc
và người có liên quan của họ; (iii) Doanh
nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 159 (khoản
1 Điều 162)
Bên cạnh đó, HĐQT chấp thuận
các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn
35% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ
lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty.
Trường hợp này, người đại diện công ty ký
hợp đồng phải thông báo cho các thành viên
HĐQT, Kiểm soát viên về các đối tượng có
liên quan đối với hợp đồng, giao dịch đó;
đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc
nội dung chủ yếu của giao dịch. HĐQT
quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc
giao dịch trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo trừ trường hợp Điều lệ
công ty quy định một thời hạn khác; thành
viên có lợi ích liên quan không có quyền
biểu quyết (khoản 2 Điều 162).
Với những quy định nêu trên, việc vay
nợ nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh của công ty đều phải được các
thành viên HĐQT và kiểm soát viên biết và
cũng là đối tượng của giám sát nội bộ. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là, thực tiễn vay nợ để
thực hiện dự án đầu tư do người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp đàm phán
và ký kết, những rủi ro có thể phát sinh cho
chủ nợ nếu hoạt động vay nợ do người đại
diện thực hiện không được kiểm soát, giám
sát bởi các cơ quan nội bộ có thẩm quyền.
Với tư cách là tổ chức kinh doanh,
doanh nghiệp phải tổ chức bộ máy kế toán,
thực hiện hạch toán chính xác và đầy đủ các
chi phí có liên quan đến dự án đầu tư có vay
vốn và hoạt động kinh doanh nói chung.
Kết quả báo cáo tài chính do doanh nghiệp
lập phải là dữ liệu xác định khả năng tài
chính và là nội dung chủ thể cho vay xem
xét quyết định cho vay. Việc doanh nghiệp
không tuân thủ quy định về kế toán, lập báo
cáo tài chính, bảng cân đối kế toán và có
hành vi gian lận báo cáo tài chính là những
nguyên nhân dẫn đến hậu quả người cho vay
không thể biết thực chất hoạt động của doanh
nghiệp và quyết định sai lầm trong cho vay
đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, đối với
các công ty niêm yết có nghĩa vụ công bố
báo cáo tài chính có xác nhận của Công ty
kiểm toán độc lập, có không ít các trường
hợp kết quả do doanh nghiệp đưa ra có sai
lệch lớn so với kết quả kiểm toán. Điều này
dẫn đến, tuy việc quyết định vay vốn đúng
thẩm quyền, nhưng nếu bên cho vay không
yêu cầu chặt chẽ về biện pháp bảo đảm trả
nợ thì khả năng cho vay dẫn đến mất vốn
hoàn toàn có thể xảy ra. Ngoài ra, trong nội
bộ doanh nghiệp, tổ chức và người có liên
quan không thực hiện đúng trách nhiệm
trong việc kiểm soát sử dụng vốn vay cũng
có thể là nguyên nhân dẫn đến thất thoát, sử
dụng kém hiệu quả vốn vay, gây thiệt hại
đến tài sản của doanh nghiệp, đến chủ nợ và
đến lợi ích của cả người góp vốn.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp quy định:
“Doanh nghiệp có nghĩa vụ tổ chức công tác
kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung
thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy
định của pháp luật về kế toán, thống kê”
(Điều 8). Quy định này không có nghĩa chủ
nợ có thể tiếp cận được thông tin chính xác về
hoạt động vay nợ của doanh nghiệp.
Chủ nợ chỉ có thể xem xét các thông
tin về công ty vay vốn từ các tài liệu công
khai là Báo cáo tài chính và Bảng cân đối
kế toán nhưng cũng chỉ giới hạn ở các công
ty niêm yết phải thực hiện chế độ báo cáo
thông tin theo Luật Chứng khoán.
Để hạn chế rủi ro nói chung cho chủ
nợ, doanh nghiệp đi vay cần thiết phải bảo
đảm những điều kiện tối thiểu giúp cho chủ
thể nhận biết tình trạng an toàn trong cho
vay. Theo đó, cần thiết phải quy định quyền
yêu cầu cung cấp thông tin về tình trạng
vay nợ của doanh nghiệp đi vay. Quyền này
cần được ghi nhận trong một điều khoản
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 5(381) T3/2019
của Luật Doanh nghiệp và nghĩa vụ cung
cấp thông tin cho chủ nợ của doanh nghiệp.
Theo đó, khi doanh nghiệp vi phạm, bên cho
vay có quyền hủy bỏ hợp đồng để tránh xảy
ra thiệt hại cũng như thực hiện quyền khởi
kiện khi doanh nghiệp vay vi phạm.
2.3 Vi phạm nghĩa vụ trung thực của
người đại diện doanh nghiệp trong vay nợ
Người đại diện theo pháp luật hoặc
người đại diện được ủy quyền của doanh
nghiệp ký tên trong hợp đồng hoặc phương
án huy động vốn khác, thì trách nhiệm đối
với khoản nợ do người đại diện ký kết vẫn
thuộc về doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực
tế, người đại diện doanh nghiệp có thể thực
hiện quyền vay nợ trái với các quy định của
pháp luật và quyết định của cơ quan chủ sở
hữu dẫn đến thiệt hại có thể phát sinh cho
chủ nợ. Trong quan hệ với chủ nợ, người đại
diện doanh nghiệp phải cung cấp thông tin
về doanh nghiệp, đây là cơ sở chứng minh
thực hiện đúng trách nhiệm trung thực trong
quan hệ với người cho vay. Còn đối với chủ
nợ buộc phải yêu cầu doanh nghiệp thông
qua người đại diện cung cấp các thông tin
liên quan đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp, thông tin chính xác về dự án đầu tư
và giải ngân khoản vay và các thông tin liên
quan bảo đảm quyền thu hồi nợ.
Hiện nay, trong các công ty tư nhân,
nhiều CTCP niêm yết là các công ty có quy
mô lớn về vốn chủ sở hữu, cũng như quy mô
tài sản và doanh thu. Tuy nhiên, điều đáng nói,
không ít công ty nằm trong tình trạng không
an toàn do người đại diện theo pháp luật thỏa
thuận ký kết các hợp đồng vay tạo rủi ro cho
các chủ thể cho vay. Trên thực tế, trong quá
trình xử lý nợ xấu của NHTM, một trong
những nguyên nhân liên quan đến nợ xấu đó
là khoản nợ xấu phát sinh do tranh chấp về tài
sản bảo đảm với bên thứ ba, khoản tiền từ bán
tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán khoản
nợ, rủi ro trong bảo đảm tài sản hình thành
trong tương lai Những thỏa thuận lỏng lẻo
về các biện pháp bảo đảm làm tăng thêm rủi
6 Lan Nhi, Những dự án bất động sản khiến “bông hồng vàng“ Phú Yên chìm trong thua lỗ; Trí thức trẻ 22/8/2018;
T.Phương, Cục nợ 2.400 tỉ đồng của đại gia Phú Yên đấu giá nhiều lần vẫn ế; Báo Người Lao động ngày 11/11/2018.
ro mất vốn của chủ thể cho vay. Chẳng hạn,
trường hợp CTCP Thuận Thảo Nam Sài Gòn,
Công ty này đã vay vốn đầu tư của NHTM
nhưng không tính toán được khả năng thu lợi
nhuận nên nhiều dự án đầu tư không hiệu quả
dẫn đến mất khả năng trả nợ. Do đó, NHTM
buộc phải xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay,
khoản nợ của Công ty này tại Ngân hàng Đầu
tư phát triển Việt Nam (BIDV) được bán cho
Tổ chức Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC)
và được tổ chức này bán đấu giá nhưng tài sản
bảo đảm vẫn chưa bán được sau nhiều phiên
tổ chức6. Vấn đề về nghĩa vụ trung thực của
người quản lý điều hành, đặc biệt là người
đại diện đàm phán ký kết không chỉ đặt ra đối
với cơ quan, người có thẩm quyền trong nội
bộ doanh nghiệp mà đối với cả người cho vay
trong cung cấp thông tin về tính khả thi của
dự án đầu tư và giá trị thực của tài sản bảo
đảm. Trong thời gian qua, hàng loạt các đại án
liên quan đến người quản lý, điều hành trong
các Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đông Á,
Ngân hàng Đại Dương rung lên hồi chuông
cảnh báo về nghĩa vụ trung thực của người đi
vay với tư cách là ngân hàng. Do đó, cần phải
quy định chi tiết về nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong vay nợ, đặc biệt là quy định công khai,
minh bạch thông tin trong vay nợ nhằm bảo
đảm kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ nghĩa vụ
trung thực của người quản lý điều hành trong
hoạt động vay nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
của doanh nghiệp và bảo đảm quyền đòi nợ
của chủ nợ.
Còn đối với các doanh nghiệp quy mô
nhỏ và quản trị theo kiểu gia đình, rủi ro đối
với chủ nợ cũng không ít do chủ nợ không
nắm vững pháp luật dẫn đến việc có thể có
sự lạm dụng của người đại diện của doanh
nghiệp trong vay nợ, dẫn đến khả năng khó
thu hồi được vốn cho vay. Chẳng hạn, trường
hợp người đại diện theo pháp luật của “Công
ty vận tải Phượng Hoàng cùng vợ ký giấy vay
tiền của bà Phạm Thị Sen nhiều lần với số tiền
là 3,1 tỷ đồng. Sau đó, số tiền vay được 2 bên
lập Hợp đồng tín dụng vay vốn giữa bên vay
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 5(381) T3/2019
là Công ty Phượng Hoàng do ông Nguyễn
Văn Thắng làm giám đốc và bên cho vay là
bà Phạm Thị Sen. Bà Sen đã nhiều lần đề nghị
ông Thắng trả nợ, nhưng ông Thắng có dấu
hiệu trốn tránh trách nhiệm trả nợ với lý do
đây là nợ của công ty và không có quy định
thời hạn trả nợ”7.
Như vậy, thực hiện nghĩa vụ trung thực
là buộc người quản lý, điều hành doanh nghiệp
phải trung thực trong công bố phương án đầu
tư về tính khả thi, khả năng tạo lợi nhuận cũng
như chứng minh khả năng hoàn trả vốn vay
của doanh nghiệp. Các cơ quan quản trị nội bộ
trong doanh nghiệp có nghĩa vụ quyết định tập
thể, thực hiện quyền giám sát, kiểm soát theo
thẩm quyền để giảm bớt tình trạng vay vốn tạo
rủi ro cho chủ thể cho vay. Căn cứ vào thẩm
quyền quyết định và mức độ vi phạm liên quan
quyết định đầu tư và vay vốn, tùy theo mức
độ gây thiệt hại cho chủ nợ cũng như vốn và
tài sản của doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần
phải kịp thời phát hiện, khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại xảy ra cho doanh nghiệp. Đây
cũng chính là biện pháp quan trọng bảo vệ vốn
và tài sản của doanh nghiệp và bảo vệ chủ nợ.
Tình trạng kinh doanh không hiệu quả
của doanh nghiệp phát sinh từ nguyên nhân
quyết định đầu tư không tính toán đến khả
năng thu hồi vốn và rủi ro. Luật Doanh nghiệp
7 Tham khảo: “Vụ Tổng Giám đốc Công ty Phượng Hoàng bị “tố” quỵt nợ: Chủ nợ khốn khổ vì bị “con nợ” kiện ngược”,
ngày 27/7/2017, từ
là cơ sở để xác định trách nhiệm khi người
quản lý, điều hành vi phạm gây thiệt hại cho
doanh nghiệp, chủ sở hữu và người liên quan.
Luật Doanh nghiệp cần có quy định chặt chẽ
về nghĩa vụ báo cáo định kỳ về hoạt động kinh
doanh, trong đó có hoạt động vay nợ của cơ
quan điều hành làm cơ sở kiểm soát và giám
sát hoạt động đầu tư, trên cơ sở đó, bản thân
doanh nghiệp có thể xác định trách nhiệm của
người điều hành trong từng giai đoạn của quá
trình đầu tư.
Bởi vậy, để hạn chế tình trạng đầu tư dự
án gây thiệt hại đến tài sản của doanh nghiệp và
ảnh hưởng đến việc trả nợ, Luật Doanh nghiệp
cần có quy định cụ thể về nguyên tắc xác định
trách nhiệm cá nhân quản lý, điều hành nhằm
ngăn chặn nguy cơ lạm dụng quyền quản lý,
điều hành để trục lợi cá nhân, làm thiệt hại cho
tài sản doanh nghiệp và chủ nợ. Bên cạnh đó,
cần thiết phải có chế tài mạnh đối với vi phạm
của doanh nghiệp liên quan đến lập và công bố
báo cáo tài chính bằng xác định trách nhiệm
cá nhân của người quản lý điều hành đối với
việc lập và công bố báo cáo tài chính sai lệch,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi lạm dụng vị
trí quản lý, điều hành trục lợi cá nhân và tăng
nặng hình phạt liên quan các vi phạm về chế
độ kế toán doanh nghiệp
trong tình huống này, Thủ tướng lấn át quyền
lực của Tổng thống, Tổng thống chỉ là hư
quyền và trở nên “nhạt nhòa” bên cạnh Nghị
viện và Thủ tướng.
Như vậy, mục đích ban đầu của các nhà
lập hiến khi tạo nên chính thể cộng hòa hỗn
hợp cũng không đạt được trong thực tiễn sinh
hoạt chính trị ở những quốc gia theo chính thể
này, vì các nhà lập hiến muốn xây dựng một
chế định tổng thống có thực quyền để kiềm
chế sự độc tài của Nghị viện số đông. Tuy
nhiên, với những phân tích trên và thực tiễn
chính trị đã chứng minh thì chính Tổng thống
mới là chủ thể tạo ra sự bất ổn trong chính
trường do có quá nhiều quyền hành, vô hình
chung đã lấn át đi vai trò của Nghị viện. Ngoài
ra, chính thể này cũng mong muốn tạo ra một
quyền hành pháp mạnh, thống nhất nhưng
trong trường hợp “chung sống chính trị” nêu
trên, quyền hành pháp bị chia sẻ giữa Tổng
thống và Thủ tướng nên nhiều khi chỉ mang
lại sự mâu thuẫn, sự tranh giành quyền lực và
bất ổn
MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ...
(Tiếp theo trang 27)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ve_quyen_cua_chu_no_trong_hoat_dong_kinh_doanh_cua_doanh.pdf