Quyền riêng tư của người tiêu dùng
sẽ không thể được bảo vệ một cách nghiêm
túc nếu các quyền nhân thân, quyền bí mật
đời tư trong luật dân sự không được thực thi.
Điều cần làm trước tiên là ghi nhận và thực
hiện những nguyên tắc thực hành thông tin
đúng mực FIPPs của tất cả các chủ thể thu
thập, quản lý và sử dụng các thông tin cá
nhân, kể cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Từ góc độ pháp lý, để giải quyết vấn
đề bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu
dùng, cần kiểm soát chặt chẽ các điều khoản
sử dụng dịch vụ để bảo đảm sự “đồng ý” hay
“cho phép” truy cập và khai thác các dữ liệu
cá nhân mang tính thực chất; cần mở rộng
thêm phạm vi kiểm soát các điều kiện giao
dịch chung, không nên chỉ dừng ở 9 hàng
hóa, dịch vụ như hiện nay bởi nguy cơ mất
an toàn thông tin của người tiêu dùng có thể
xảy ra ở bất cứ các giao dịch nào.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ thông tin người tiêu dùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO VỆ THÔNG TIN NGƯỜI TIÊU DÙNG
Tóm tắt:
Bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung và bảo vệ thông tin người tiêu
dùng nói riêng đã được pháp luật Việt Nam quy định tại nhiều văn
bản khác nhau. Mặc dù vậy, các quy định và việc thực thi chúng
chưa đủ mạnh. Vì vậy, phân tích những điểm còn hạn chế đồng thời
kiến nghị giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả việc bảo vệ thông tin
người tiêu dùng trong điều kiện kinh tế số đang phát triển ở Việt
Nam là việc làm có ý nghĩa.
Ngô Vĩnh Bạch Dương*
* NCVC. Viện Nhà nước và Pháp luật.
Abstract
The protection of personal data in general and the protection of
consumer information in particular are regulated by various
legal normative documents. However, the regulations and their
enforcements are thought to be insufficient. Therefore, it is
meaningfully required analysis of the shortages and recommended
remedies to improve the effectiveness of consumer information
protection in the developing digital economy context of Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: người tiêu dùng, quyền riêng
tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân; bảo vệ
thông tin người tiêu dùng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/11/2018
Biên tập : 18/12/2018
Duyệt bài : 24/12/2018
Article Infomation:
Keywords: consumer, consumer
privacy, privacy protection, consumer
information protection
Article History:
Received : 18 Nov. 2018
Edited : 18 Dec. 2018
Approved : 24 Dec. 2018
1. Thông tin của người tiêu dùng
Trong cơ chế thị trường, để giành
được lợi thế, các nhà cung cấp phải phục vụ
tốt nhất cho các khách hàng của mình. Để
xác lập và tiến hành giao dịch, người tiêu
dùng và doanh nghiệp phải cung cấp cho
nhau những thông tin tối thiểu về mình như
tên, địa chỉ liên lạc, đối tượng giao dịch, địa
chỉ giao hàng, phương tiện thanh toán... Khi
đó, người tiêu dùng luôn được khuyến khích
cung cấp nhiều thông tin để thuận lợi hơn
cho việc tư vấn lựa chọn sản phẩm phù hợp.
Chẳng hạn với một sản phẩm thời trang,
nhà thiết kế không chỉ cần đến tên, tuổi của
người tiêu dùng mà còn là công việc, địa vị
xã hội, các thông số hình thể để có được
một sản phẩm phù hợp nhất với túi tiền, nhu
cầu, thẩm mỹ của họ. Sự đa dạng trong nhu
cầu của con người cũng như trong sự phát
triển của các loại hình hàng hóa, dịch vụ
càng làm cho việc khai thác thông tin khách
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 12(388) T6/2019
hàng trở nên cần thiết nhưng cũng phức tạp,
đa dạng hơn. Trong nhiều trường hợp, thông
tin còn tế nhị và riêng tư hơn như tình trạng
bệnh tật, sở thích, thói quen cá nhân...
Người tiêu dùng, theo nghĩa phổ
biến, đó là các cá nhân mua hàng hóa dịch
vụ với mục đích tiêu dùng và không có ý
định tái cung cấp1. Theo đó, những thông
tin của người tiêu dùng cũng có thể được
hiểu là những thông tin cá nhân. Điểm khác
biệt giữa các thông tin cá nhân với thông
tin người tiêu dùng là ở chỗ, thông tin của
người tiêu dùng được thu thập và lưu trữ bởi
các doanh nghiệp trong quá trình xác lập
giao dịch với người tiêu dùng hoặc qua các
khảo sát thị trường của họ.
Những thông tin khách hàng đã thu
thập được lưu trữ, quản lý có thể cho phép
doanh nghiệp một mặt đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng trong một giao dịch
trước mắt, nhưng mặt khác nó cũng tạo
điều kiện để doanh nghiệp có thể dễ dàng
tiếp cận với khách hàng cũ của mình thông
qua việc khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng
sẵn có. Lưu trữ thông tin khách hàng chính
là một phương thức để duy trì mối quan hệ
bạn hàng ổn định cho nhà cung cấp đối với
khách hàng truyền thống, bảo đảm giữ vững
thị phần của họ một cách tiết kiệm. Thay vì
phải mở rộng quảng bá thương hiệu, tiếp
thị sản phẩm, doanh nghiệp chỉ cần dò tìm
trong cơ sở dữ liệu sẵn có và liên lạc với
khách hàng cũ. Đồng thời, để mở rộng thị
phần, doanh nghiệp cũng cần điều tra, thu
thập thông tin để đánh giá được thị hiếu,
khuynh hướng mua sắm của khách hàng để
từ đó có những điều chỉnh thích hợp hoạt
động kinh doanh của mình hướng tới những
khách hàng tiềm năng.
Xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu
1 Theo Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 2010, tại Điều 3.1. “người tiêu dùng” không được định nghĩa là các
cá nhân mà chỉ là “người” một cách chung chung. Điều này hàm ngụ có thể các tổ chức hoặc nhóm cá nhân mua hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cũng được xem là “người tiêu dùng”.
khách hàng là những thao tác quan trọng
đối với doanh nghiệp mà kinh tế học gọi là
“quản lý quan hệ khách hàng” (hay customer
relationship management - CRM). Thông
qua CRM, các doanh nghiệp tiếp cận và giao
tiếp với khách hàng có hệ thống và hiệu quả
nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn. Các mục
tiêu mà CRM hướng tới là tìm kiếm, thu
hút, giành niềm tin khách hàng mới, duy trì
những đối tác đã có, lôi kéo khách hàng cũ
trở lại, giảm chi phí tiếp thị và mở rộng dịch
vụ khách hàng. Thông qua hệ thống quan hệ
khách hàng, các thông tin của khách hàng
sẽ được cập nhật và được lưu trữ trong hệ
thống quản lý cơ sở dữ liệu. Bằng việc dò
tìm, phân tích dữ liệu, doanh nghiệp có thể
xác định danh sách khách hàng tiềm năng và
lâu năm để đề ra những chiến lược chăm sóc
khách hàng hợp lý. Hiện nay, rất nhiều các
doanh nghiệp phát hành thẻ tích điểm nhằm
ưu đãi khách hàng truyền thống của mình,
đồng thời có thể cập nhật nhanh chóng cơ sở
dữ liệu khách hàng hiện có và thu hút thêm
khách hàng mới. Ngoài ra, thông qua cơ sở
dữ liệu của mình, doanh nghiệp còn có thể
xử lý các vấn đề vướng mắc của khách hàng
nhanh chóng và hiệu quả.
2. Thông tin của người tiêu dùng và quyền
riêng tư
Khi ý thức tư hữu của con người được
hình thành, bất luận sự tương tác giữa con
người với nhau có mức độ cao như thế nào,
thì nhu cầu về sự riêng tư, kín đáo, không
chia sẻ một khía cạnh, một vấn đề nào đó
của cá nhân luôn tồn tại. Ngay cả khi hội
nhập vào xã hội một cách tích cực, minh
bạch hóa thông tin ở mức cao như trong các
mạng xã hội, người ta vẫn luôn mong muốn
mình không bị theo dõi bởi người khác.
Người ta luôn cố gắng dành cho mình quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 12(388) T6/2019
tiết lộ, chia sẻ về bản thân mình với những
đối tượng nhất định chứ không phải tất cả
mọi người. Con người hiện đại sẽ tiếp tục
phải tự cân bằng nhu cầu riêng tư với mong
muốn chia sẻ, liên kết với người khác phù
hợp với môi trường sống của mình2.
Quyền riêng tư (right to privacy),
đến nay đã được thừa nhận rộng rãi là một
quyền con người, được pháp luật các quốc
gia và quốc tế bảo vệ. Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền (UDHR) năm 1948 khẳng định:
"không ai phải chịu sự can thiệp một cách
tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi
ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh
dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có
quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự
can thiệp và xâm phạm như vậy"3. Quyền
riêng tư được tái khẳng định trong Công
ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính
trị (ICCPR 1966). Điều luật này ngăn chặn
những hành vi xâm phạm tùy tiện và bất hợp
pháp vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín,
danh dự, uy tín của mọi người mà có thể do
các quan chức nhà nước hay do những chủ
thể khác gây ra4.
Quyền riêng tư, dù vậy, không phải là
quyền tuyệt đối, nó có thể bị hạn chế trong
những trường hợp nhất định vì lợi ích chung
của xã hội. Lẽ đương nhiên, những hạn chế,
can thiệp này phải được minh định trong luật
và thực thi một cách nghiêm ngặt. Để bảo
đảm bảo vệ đời tư hiệu quả, mỗi cá nhân cần
có quyền được biết những thông tin cá nhân
của mình được thu thập, lưu giữ bởi chủ thể
nào, ở đâu và nhằm mục đích gì. Thêm vào
đó, mỗi cá nhân cũng cần có quyền yêu cầu
sửa chữa hoặc xóa bỏ thông tin cá nhân của
mình nếu thông tin đang được lưu trữ không
chính xác, hoặc bị thu thập hay lưu trữ một
cách trái pháp luật. Bảo vệ quyền riêng tư
2 Xem thêm: Alan Westin, Privacy and Freedom, Bodley Head, 1970, trang 7.
3 UDHR 1948, Điều 12.
4 ICCPR 1966, Điều 17.1.
đối với thông tin cá nhân của con người
thường được các quốc gia quy định thành
pháp luật bảo vệ dữ liệu cá nhân (personal
data protection) hay còn gọi là bảo vệ bí mật
đời tư (personal confidence).
Về phạm vi, bảo vệ dữ liệu cá nhân
hẹp hơn việc bảo vệ quyền riêng tư ở chỗ
dữ liệu cá nhân chỉ liên quan đến “dữ liệu”
tức là việc thu thập và sử dụng các thông tin
cá nhân mà không bao gồm các quyền về tự
do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nơi
ở. Bảo vệ dữ liệu cá nhân khởi đầu dùng để
chỉ việc bảo vệ dữ liệu có liên quan đến cá
nhân trước sự lạm dụng. Bảo vệ dữ liệu cá
nhân dựa trên nguyên tắc mỗi người đều có
quyền tự quyết định là ai, khi nào và dữ liệu
cá nhân nào của mình được phép cho người
khác biết.
Thông tin của người tiêu dùng là một
bộ phận của lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Điểm khác biệt giữa bảo vệ thông tin người
tiêu dùng và bảo vệ dữ liệu cá nhân là ở phạm
vi của nó: thông tin người tiêu dùng được
thu thập, quản lý bởi các doanh nghiệp nhằm
thực hiện hoặc hướng tới thực hiện các hoạt
động bán hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng; các
dữ liệu cá nhân, ngược lại, có phạm vi rộng
hơn, nó không bị giới hạn bởi các hoạt động
cung cấp hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng mà
còn cả những lĩnh vực không liên quan đến
thương mại. Ví dụ, linh mục có thể thu thập
thông tin từ người xưng tội; cảnh sát có thể
thu thập thông tin về nhân thân của những
người liên quan đến vi phạm pháp luật hoặc
những người tham gia tố tụng khác. Như
vậy, bảo vệ thông tin của người tiêu dùng có
cơ sở từ quyền riêng tư của con người.
Người tiêu dùng, trong đa số các
trường hợp, sẽ buộc phải cung cấp những
thông tin cá nhân cho các doanh nghiệp để
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 12(388) T6/2019
phục vụ các giao dịch. Với mục tiêu giành
lợi thế cạnh tranh, nhìn chung cơ sở dữ liệu
khách hàng thường được các doanh nghiệp
bảo mật chặt chẽ. Tuy vậy, vấn đề trọng
tâm của tất cả các doanh nghiệp chính là lợi
nhuận, họ sẽ không thể chi tiêu một cách
vô hạn định cho công tác bảo mật thông tin
khách hàng, ngoài ra, cạnh tranh không phải
lúc nào cũng được duy trì một cách tuyệt
đối, các doanh nghiệp vẫn thường có xu
hướng liên kết, hợp tác hoặc thỏa hiệp, chia
sẻ tài nguyên thông tin để cùng thu được lợi
nhuận cao hơn.
Cần nhìn nhận là cơ sở dữ liệu cá nhân
được hình thành chủ yếu từ sự tin cậy của
khách hàng trong quan hệ đối với doanh
nghiệp, bởi vậy, việc chia sẻ thông tin khách
hàng giữa các doanh nghiệp được xem là
hành vi bội tín với khách hàng. Ngoài ra,
những thông tin cá nhân do doanh nghiệp thu
thập được nếu sơ ý hoặc cố ý tiết lộ cho bên
thứ ba thì hoàn toàn có thể đem lại những
bất lợi cho khách hàng. Chẳng hạn, sẽ rất
khó khăn cho một người trong giao tiếp xã
hội nếu bác sĩ của anh ta tiết lộ rằng anh ta
mắc bệnh xã hội, mọi người sẽ có đánh giá
không tốt về anh ta cho dù việc mắc bệnh
không có nguyên nhân từ các tệ nạn xấu.
Một ví dụ khác về sự bất tiện trong đời sống
của người tiêu dùng là khi số điện thoại hoặc
email bị tiết lộ, anh ta có thể bị quấy rầy khi
phải nhận những cuộc gọi, tin nhắn, thư điện
tử quảng cáo không mong muốn. Việc tiết lộ
hay chia sẻ thông tin này cũng có thể bị lợi
dụng bởi những kẻ xấu nhằm bôi nhọ danh
dự khách hàng hoặc đánh cắp tài sản của
họ thông qua việc sử dụng các thông số tài
khoản hoặc thẻ tín dụng, thẻ mua hàng của
5 Chưa có khái niệm tương tự ở Việt Nam nên trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi tạm dịch fair information practices
là những hoạt động thông tin đúng mực để diễn tả tính chất tử tế, tôn trọng quyền con người, tôn trọng pháp luật và tôn
trọng các giá trị đạo đức, nhân văn.
6 US Secretary's Advisory Committee on Automated Personal Data Systems, Records, Computers and the Rights of
Citizens, Chapter IV: Recommended Safeguards for Administrative Personal Data Systems (1973).
họ. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu của việc tiết
lộ hoặc chia sẻ thông tin khách hàng, kể cả
thông tin tốt, mà không được sự đồng thuận
của họ, chính là vi phạm quyền riêng tư của
người tiêu dùng.
3. Những phương thức cơ bản bảo vệ
thông tin người tiêu dùng
Bảo vệ thông tin người tiêu dùng là
một nhiệm vụ của nhiều lĩnh vực như đạo
đức, pháp luật. Ngay trong lĩnh vực pháp
luật, bảo vệ thông tin người tiêu dùng cũng
là một lĩnh vực liên ngành. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy, bảo vệ thông tin người tiêu
dùng chủ yếu được đặt trong nhóm quy định
về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Các phương thức điều chỉnh lĩnh vực
pháp luật này đều hướng tới việc thu thập,
khai thác cơ sở dữ liệu thông tin cá nhân
một cách đàng hoàng, chính đáng, tôn trọng
quyền con người, tôn trọng pháp luật và các
giá trị đạo đức, nhân văn. Nói cách khác,
pháp luật hướng tới sự đúng mực trong việc
hình thành và khai thác thông tin cá nhân.
Những hoạt động thông tin đúng mực
(fair information practices - FIPs)5 là khái
niệm lần đầu tiên được xuất hiện năm 1973
trong Báo cáo của Ủy ban cố vấn ngoại
trưởng về hệ thống dữ liệu cá nhân tự động
(US Secretary's Advisory Committee on
Automated Personal Data Systems)6. Một
báo cáo tương tự của Ủy ban này vào năm
1977 đã đưa ra một số nguyên tắc quan trọng
về những hoạt động thông tin đúng mực.
Những nguyên tắc này (fair information
practice principles –FIPPs) bao gồm cả
những yêu cầu về nội dung như mục đích,
giới hạn, chất lượng thu thập thông tin; và
thủ tục thông tin như trình tự truy cập và
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 12(388) T6/2019
chấp thuận xử lý thông tin7. Các nguyên tắc
hoạt động thông tin đúng mực này sau đó đã
được sử dụng rộng rãi trong pháp luật bảo vệ
quyền con người và tiếp tục phát triển.
Đến năm 1980, OECD đã biên soạn
bản hướng dẫn về các nguyên tắc của những
hoạt động thông tin đúng mực (Guidelines
on Fair Information Practice Principles –
FIPPs). Bộ FIPPs của OECD gồm 8 nguyên
tắc, tuy không phải là một đạo luật nhưng
chúng có ý nghĩa rất quan trọng trong bảo
vệ quyền riêng tư cũng như bảo vệ dữ liệu
cá nhân của các nước với tính cách là nguồn
tham khảo. Các nguyên tắc FIPPs của OECD
bao gồm:
Thu thập có giới hạn: Việc thu thập dữ
liệu cá nhân và bất kỳ dữ liệu nào như vậy
cần được thực hiện bằng các phương tiện
hợp pháp và công bằng, và khi thích hợp,
với những kiến thức hoặc sự đồng ý của đối
tượng dữ liệu.
Chất lượng dữ liệu: Dữ liệu cá nhân
có liên quan đến mục đích mà chúng có thể
được sử dụng và mức độ cần thiết cho các
mục đích, phải chính xác, đầy đủ và phải
được cập nhật.
Mục đích thu thập được xác định chi
tiết: Các mục đích thu thập dữ liệu cá nhân
phải được xác định không muộn hơn thời
gian thu thập dữ liệu và sau đó sử dụng giới
hạn trong việc thực hiện những mục đích đó;
sẽ là không phù hợp nếu việc thu thập như
trên khi thay đổi mục đích.
Sử dụng giới hạn: Dữ liệu cá nhân
không được tiết lộ, làm sẵn để sử dụng cho
các mục đích khác hơn so với những mục
đích ban đầu, ngoại trừ trường hợp có sự
đồng ý của chủ dữ liệu hoặc do pháp luật
quy định
An toàn dữ liệu: Dữ liệu cá nhân phải
7 Fred H. Cate: The Failure ofFair Information Practice Principles, in trong cuốn: Consumer protection in the age of
“information economy”, edited by Jane K. Winn, Ashgate Publishing Ltd. 2006, p. 341
được bảo vệ bằng các biện pháp bảo vệ an
ninh hợp lý chống lại các rủi ro như mất mát
hoặc truy cập trái phép, sử dụng, tiêu hủy,
sửa đổi, bổ sung hoặc tiết lộ dữ liệu.
Nguyên tắc công khai: Cần có một
chính sách chung cởi mở về sự phát triển,
thực hành và các chính sách đối với dữ liệu
cá nhân; phương tiện cho việc thiết lập cơ sở
dữ liệu cá nhân và mục đích chính của việc
sử dụng chúng, cũng như danh tính và địa
chỉ người điều khiển dữ liệu phải được xác
định trước.
Sự tham gia của cá nhân: Một cá nhân
có quyền nhận được xác nhận từ người quản
lý dữ liệu về việc có hoặc không có dữ liệu
liên quan đến anh ta; được thông báo khi dữ
liệu liên quan đến mình trong khoảng thời
gian hợp lý, với một thái độ tử tế và theo
hình thức dễ hiểu đối với anh ta, không phải
chịu lệ phí một cách quá đáng; được thông
báo lý do nếu các yêu cầu trên không được
chấp nhận và được quyền phản đối các lý
do đó; được phản đối các dữ liệu liên quan
đến mình và yêu cầu xóa, sửa chữa hoặc cập
nhật dữ liệu đó.
Trách nhiệm giải trình: Người quản lý
dữ liệu phải có được trách nhiệm tuân thủ
các biện pháp để bảo đảm hiệu lực cho các
nguyên tắc đã nêu ở trên.
Năm 1995, Liên minh châu Âu ban
hành chỉ thị số 95/46/EC về bảo vệ dữ liệu.
Đây là một chỉ thị rộng được thông qua bởi
Liên minh châu Âu; được thiết kế để bảo vệ
sự riêng tư của tất cả các dữ liệu cá nhân của
công dân EU được thu thập và sử dụng cho
mục đích thương mại, đặc biệt nó liên quan
đến xử lý, sử dụng hay trao đổi những dữ
liệu đó. Nói cách khác, Chỉ thị 95/46 dành
trọng tâm cho việc bảo vệ thông tin người
tiêu dùng. Ngoài những nguyên tắc FIPPs
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 12(388) T6/2019
như hướng dẫn của OECD, Chỉ thị 95/46 còn
thành lập một khuôn khổ rộng lớn, trong đó
đặt ra những giới hạn về việc thu và sử dụng
các dữ liệu cá nhân, và đòi hỏi mỗi nước
thành viên thiết lập một cơ quan độc lập chịu
trách nhiệm cho việc bảo vệ dữ liệu quốc gia.
Chỉ thị nghiêm cấm việc chuyển giao thông
tin cá nhân được bảo vệ bên ngoài EU, trừ
khi nước tiếp nhận áp dụng bảo vệ pháp lý
tương tự. Mỗi quốc gia EU đã thành lập một
cơ quan bảo vệ dữ liệu có thẩm quyền điều tra
các khiếu nại, phạt tiền, khởi tố tội phạm và
yêu cầu các doanh nghiệp thay đổi việc thực
hành xử lý thông tin.
Năm 2016, Nghị viện châu Âu ban
hành Quy định chung về bảo vệ dữ liệu
(General Data Protection Regulation –
GDPR) và có hiệu lực từ ngày 25/5/2018.
Theo GDPR, việc thu thập dữ liệu và xử lý
dữ liệu phải có sự đồng thuận của các cá
nhân trừ khi có ít nhất một căn cứ hợp pháp
để thực hiện. Những căn cứ hợp pháp là:
- Nếu chủ thể dữ liệu đã đồng ý xử lý
dữ liệu cá nhân của mình;
- Thực hiện các nghĩa vụ theo hợp
đồng với chủ thể dữ liệu hoặc cho các nhiệm
vụ theo yêu cầu của đối tượng dữ liệu đang
trong quá trình ký kết hợp đồng;
- Tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của
một chủ thể quản lý dữ liệu;
- Bảo vệ lợi ích sống còn của chủ thể
dữ liệu hoặc cá nhân khác;
- Thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích công
cộng hoặc chính quyền;
- Vì lợi ích hợp pháp của người kiểm
soát dữ liệu hoặc bên thứ ba, trừ khi những
8 GDPR, điều 6.
9 GDPR, điều 7.3. và 7.4.
10 GDPR, điều 83.4
11 GDPR, điều 83.5 và 83.6.
12 BEUC, Thông cáo báo chí ngày 27/11/2018 tại: https://www.beuc.eu/publications/consumer-groups-across-europe-
file-complaints-against-google-breach-gdpr/html, truy cập ngày 30/11/2018.
lợi ích này bị chồng lấn với lợi ích của chủ
thể dữ liệu hoặc quyền của người đó theo
Hiến chương về các quyền cơ bản của EU
(đặc biệt là trường hợp quyền trẻ em)8.
- Người chủ thể dữ liệu có quyền rút
lại việc đã đồng thuận của mình với điều
kiện rút lại không khó khăn hơn điều kiện
mà họ đã chấp thuận. Người xử lý dữ liệu
không được từ chối quyền rút lại của chủ
dữ liệu9.
Việc không tuân thủ GDPR sẽ bị phạt
rất nặng. Cụ thể, sai phạm đối với các chuẩn
mực cốt lõi về xử lý dữ liệu, vi phạm các
quyền cá nhân hoặc chuyển dữ liệu ra khỏi
EU mà không đảm bảo các bảo vệ tương
đương sẽ bị phạt tới 20 triệu Euro hoặc 4%
doanh thu hàng năm trên toàn cầu10. Sai
phạm trong việc tuân thủ với các yêu cầu
về kỹ thuật và tổ chức như đánh giá tác
động, thông báo sự cố mất an toàn thông tin
sẽ bị phạt tới 10 triệu Euro hoặc 2% doanh
thu hàng năm trên toàn cầu11. Vụ kiện gần
đây nhất trong khuôn khổ GDPR là Tổ
chức người tiêu dùng châu Âu European
Consumer Organisation (BEUC) đã kiện
Google vì đã theo dõi vị trí của người tiêu
dùng mà không được sự đồng thuận thực tế
của họ. BEUC nại ra rằng, Google đã "lừa
đảo" làm người dùng bật tùy chọn về “ghi
nhớ lịch sử di chuyển” và không thông báo
đầy đủ cho người dùng về việc bật như vậy
để làm gì. Như vậy, sự đồng ý không được
tự nguyện đưa ra. Vụ việc này có thể làm
Google đối mặt với án phạt 4% doanh thu
hàng năm và có thể lên đến 4 tỷ đô la. Trước
đó, Facebook cũng đã bị tố giác về vi phạm
điều kiện bảo mật thông tin và làm ảnh
hưởng đến 25 triệu người dùng12.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 12(388) T6/2019
Đến nay, đã có khoảng 90 quốc gia
trên thế giới ban hành luật có liên quan đến
bảo vệ thông tin cá nhân dưới những hình
thức khác nhau13. Có nước ban hành luật
riêng về bảo vệ dữ liệu và được cụ thể hóa
trong các luật chuyên ngành khác; cũng có
nước ghi nhận quy định chung trong hiến
pháp, luật dân sự và cụ thể hóa rải rác trong
các luật như trường hợp của Việt Nam với
Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 38) và Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 (Điều 6).
4. Bảo vệ thông tin người tiêu dùng ở
Việt Nam
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Bảo
vệ người tiêu dùng và nhiều văn bản pháp
luật chuyên ngành như các luật về viễn
thông, công nghệ thông tin, giao dịch điện tử
của Việt Nam đều đã có quy định về quyền
cơ bản của công dân và bảo vệ thông tin cá
nhân. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia
đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của
mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an toàn”14.
Điều 38 Bộ luật Dân sự quy định:
“Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ” hay “Thư
tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông
tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm
an toàn và bí mật”15.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng
xác định nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức trong
bảo đảm bí mật thông tin và không được
chia sẻ thông tin của người khác mà mình
tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch
điện tử nếu không được sự đồng ý của họ,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác16.
13 Graham Greenleaf: Global data privacy laws: 89 countries, and accelerating, Queen Mary University of London,
School of LawLegal Studies Research Paper No. 98/2012, p. 1.
14 Hiến pháp 2013, Điều 21.1.
15 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 38.
16 Luật Giao dịch điện tử 2005, Điều 46.2.
17 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Điều 6.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 quy định: “Người tiêu dùng được
bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình
khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền yêu cầu.
Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển
giao thông tin của người tiêu dùng thì doanh
nghiệp có trách nhiệm:
a) Thông báo rõ ràng, công khai trước
khi thực hiện với người tiêu dùng về mục
đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin
của người tiêu dùng;
b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục
đích đã thông báo với người tiêu dùng và
phải được người tiêu dùng đồng ý;
c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ
khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin
của người tiêu dùng;
d) Tự mình hoặc có biện pháp để người
tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi
phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của
người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự
đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”17.
Luật An toàn thông tin mạng năm 2015
quy định việc “cập nhật, sửa đổi và hủy bỏ
thông tin cá nhân” thì chủ thể thông tin cá
nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân xử
lý thông tin cá nhân cập nhật, sửa đổi, hủy
bỏ thông tin cá nhân của mình mà tổ chức,
cá nhân đó đã thu thập, lưu trữ, hoặc ngừng
cung cấp thông tin cá nhân của mình cho
bên thứ ba. Theo đó, ngay khi nhận được
yêu cầu, tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá
nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 12(388) T6/2019
thông báo lại cho chủ thể thông tin cá nhân
hoặc cung cấp cho chủ thể thông tin cá nhân
quyền tiếp cận để tự cập nhật, sửa đổi, hủy
bỏ thông tin cá nhân của mình do tổ chức,
cá nhân xử lý thông tin cá nhân đang lưu
trữ. Tổ chức, cá nhân xử lý thông tin còn
phải áp dụng các biện pháp phù hợp để bảo
vệ thông tin cá nhân; thông báo lại cho chủ
thể thông tin cá nhân đó trong trường hợp
chưa thực hiện được yêu cầu do yếu tố kỹ
thuật hoặc yếu tố khác. Luật cũng quy định
tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân phải
hủy bỏ thông tin cá nhân đã được lưu trữ khi
đã hoàn thành mục đích sử dụng hoặc hết
thời hạn lưu trữ và thông báo cho chủ thể
thông tin cá nhân biết, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác18. Luật cũng quy định
thiết lập kênh thông tin trực tuyến, xử lý các
phản ánh của người dân về các vấn đề bảo
vệ thông tin cá nhân19.
Gần đây nhất, Luật An ninh mạng
năm 2018 cũng quy định về phòng chống
gián điệp mạng, bảo vệ thông tin thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời
sống riêng tư trên không gian mạng. Đồng
thời Luật cũng quy định trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này20.
Từ các quy định trên, có thể thấy quy
định của pháp luật Việt Nam trong bảo vệ
thông tin người tiêu dùng đã theo khá sát
với các nguyên tắc FIPPs. Đồng thời, chúng
cũng không có quá nhiều khác biệt với
GDPR ở điều kiện chấp nhận cho phép thu
thập, xử lý dữ liệu của người tiêu dùng.
Bên cạnh các quy định về quyền và
nghĩa vụ của người chủ dữ liệu, người thu
18 Luật An toàn thông tin mạng, Điều 18.
19 Luật An toàn thông tin mạng, Điều 20.1.
20 Luật An ninh mạng 2018, Điều 17.
21 Nghị định 174/2013/NĐ-CP, Điều 66.5.a.
22 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, Điều 288.
23 Nghị định 174/2013/NĐ-CP, Điều 73.
24 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, Điều 159.
thập, xử lý dữ liệu, pháp luật Việt Nam còn
quy định những chế tài xử phạt đối với các
hành vi phát tán, chia sẻ thông tin cá nhân,
tùy theo mức độ, hành vi mà tổ chức, cá nhân
vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm hành chính hoặc
xử lý trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn, theo
Nghị định 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ,
hành vi mua bán trao đổi trái phép thông tin
riêng của người sử dụng dịch vụ viễn thông,
có thể bị phạt từ 50 - 70 triệu đồng21. Những
người có hành vi vi phạm này, tùy vào tính
chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông”
với khung hình phạt cao nhất là 7 năm tù22.
Những hành động chiếm đoạt tài
khoản viễn thông, ứng dụng, dịch vụ gia
tăng trên mạng, chia sẻ mật khẩu, mã truy
cập có thể bị phạt đến 20 triệu đồng; trộm
cắp, mua bán, trao đổi, tiết lộ, sử dụng trái
phép thông tin thẻ tín dụng của người khác
hoặc truy cập bất hợp pháp vào mạng hoặc
thiết bị số của người khác chiếm quyền điều
khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động
của thiết bị số; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại,
làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các
dịch vụ có thể bị phạt từ 30 đến 50 triệu
đồng bên cạnh việc bồi thường thiệt hại23.
Việc xâm phạm bí mật hoặc an toàn
thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác của
người khác có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến
50 triệu đồng, bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 3 năm, bị phạt tù từ 1 đến 3 năm, hoặc
chịu hình phạt bổ sung về cấm đảm nhiệm
chức vụ từ 1 đến 5 năm24.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 12(388) T6/2019
Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng đã
có các chế tài khá nghiêm khắc với các đối
tượng thu thập, sử dụng trái phép các thông
tin cá nhân của người tiêu dùng. Tuy nhiên
trên thực tế, hầu như chưa có vụ việc nào
trong lĩnh vực này được xử lý nếu không
gây thiệt hại cho nạn nhân.
5. Những rủi ro trong bảo vệ thông tin
người tiêu dùng
Như đã trình bày trên đây, bảo vệ
thông tin của người tiêu dùng là một phần
của bảo vệ quyền riêng tư của con người.
Khi lựa chọn một mô hình hay cách thức
điều chỉnh nào, chúng ta cũng cần đến hệ
thống các nguyên tắc FIPPs. Sẽ tương đối
khó khăn và không hiệu quả nếu chúng ta
tách bạch việc bảo vệ quyền riêng tư của
người tiêu dùng thành một nhóm quy định
riêng bên ngoài những quyền con người.
Khi một người tham gia vào các hoạt
động giao dịch hoặc tương tác trên truyền
thông xã hội, có rất nhiều thông tin cá nhân
có thể bị rò rỉ. Đó có thể là ngày tháng năm
sinh, nơi làm việc, nơi học tập, địa chỉ gia
đình, các thành viên trong gia đình mình,
thậm chí là số chứng minh thư, số bằng lái
xe, số hộ chiếu... và nguy hiểm hơn nữa là
các thông tin về thẻ tín dụng. Tất cả những
thông tin trên đều có thể bị đánh cắp hoặc
chia sẻ bất hợp pháp và gây ảnh hưởng đến
bản thân và những người thân của họ.
- Nguy cơ đến từ các nhà cung cấp
dịch vụ mạng xã hội
Việc sử dụng mạng xã hội hiện nay là
hoàn toàn miễn phí, nhưng đổi lại theo điều
khoản sử dụng dịch vụ, người dùng sẽ phải
chia sẻ thông tin cá nhân của mình với nhà
cung cấp dịch vụ và có thể là với cả các bên
đối tác của trang mạng này. Tuy không phải
trả tiền, nhưng các quảng cáo của bên thứ ba
thường hướng đến các người dùng phù hợp
với các đặc điểm nhân thân của họ. Những
hành động tương tác (like hay comment) đều
được lưu lại, phân tích thông qua những thuật
toán để làm rõ người dùng này quan tâm đến
điều gì, từ đó, những quảng cáo sẽ xuất hiện
tương ứng. Không sai khi cho rằng, các mạng
xã hội đã “bán dữ liệu cá nhân” của người
dùng cho các hãng quảng cáo.
- Nguy cơ đến từ các điều kiện giao
dịch khó hiểu
Nguy cơ này đến từ một bên thứ ba,
có thể do chính các tổ chức, cá nhân này tự
ý thu thập thông tin về người tiêu dùng. Có
không ít các ứng dụng trò chơi đặt ra các tùy
chọn để người dùng quyết định đồng ý cho
chúng truy cập thông tin cá nhân trên các tài
khoản mạng xã hội thì mới được sử dụng
ứng dụng đó. Chẳng hạn các ứng dụng bói
toán đòi người dùng Facebook phải cho truy
cập danh sách bạn bè, số điện thoại, email
thì người dùng mới được thực hiện việc bói.
Sau khi thu thập được dữ liệu, chủ sở hữu
ứng dụng kia làm điều gì, người dùng khó
có thể kiểm soát. Đã có không ít các vụ hack
tài khoản mạng xã hội để lừa đảo chiếm đoạt
thẻ nạp tiền điện thoại trả trước bị phát hiện
và những hậu quả bất lợi cho người dùng còn
chưa thể biết có dừng lại ở đó hay không.
Hiện nay, các điều kiện giao dịch
chung phải đăng ký tại cơ quan quản lý
ngành công thương chỉ dừng ở phạm vi 9
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu theo Nghị định
99/2011/NĐ-CP của Chính phủ; Quyết định
02/2012/QĐ-TTg; Quyết định 35/2015/
QĐ-TTg, Quyết định 38/2018/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ là: cung cấp điện sinh
hoạt; cung cấp nước sạch sinh hoạt; truyền
hình trả tiền; thuê bao điện thoại cố định;
thuê bao di động trả sau, dịch vụ thông tin
di động mặt đất (hình thức thanh toán: trả
trước); kết nối Internet; vận chuyển hành
khách đường hàng không; vận chuyển hành
khách đường sắt; mua bán căn hộ chung cư,
các dịch vụ sinh hoạt do đơn vị quản lý khu
chung cư cung cấp. Đây là một lượng rất nhỏ
các loại điều kiện giao dịch chung mà người
tiêu dùng phải đối mặt trong các giao dịch.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 12(388) T6/2019
Ngoài thủ tục đăng ký tại các cơ quan
công thương, việc khởi kiện các điều kiện
giao dịch chung không công bằng với người
tiêu dùng chưa thể thực hiện bởi hình thức
khởi kiện tập thể, khởi kiện của tổ chức bảo
vệ người tiêu dùng chưa được thừa nhận
chính thức.
- Dữ liệu không chỉ có trên môi trường
mạng
Có thể thấy môi trường mạng là nơi
có nhiều rủi ro nhất, tuy nhiên dữ liệu cá
nhân nói chung và thông tin người tiêu dùng
nói riêng được khai báo và quản lý ở những
nền tảng khác. Ngay cả trong trường hợp thu
thập thông tin không vì mục đích thương mại
như hồ sơ công dân tại các cơ quan quản lý,
nếu không được kiểm soát, chúng hoàn toàn
có thể bị truy cập và sử dụng cho các mục
đích thương mại, ví dụ: dữ liệu đăng ký khai
sinh hoàn toàn có thể bị lạm dụng, khai thác
trong các hoạt động tiếp thị thực phẩm và
đồ dùng trẻ em. Do vậy, Luật An toàn thông
tin mạng, Luật An ninh mạng, tuy đã rất cố
gắng tiến tới chuẩn mực thế giới nhưng vẫn
không thể coi là đủ. Gần đây, đề xuất của Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc thí
điểm thu giá dịch vụ đối với việc cung cấp,
chia sẻ các dữ liệu dân cư đối với các ngành
như ngân hàng, công chứng và một số lĩnh
vực khác25, về bản chất là bán dữ liệu của
công dân cho doanh nghiệp mà chưa được
sự đồng thuận của họ.
6. Kiến nghị
Quyền riêng tư của người tiêu dùng
sẽ không thể được bảo vệ một cách nghiêm
túc nếu các quyền nhân thân, quyền bí mật
đời tư trong luật dân sự không được thực thi.
25 Hà Nội đề nghị chia sẻ dữ liệu dân cư cho các ngành khác để thu tiền, tại https://thanhnien.vn/thoi-su/ha-noi-de-nghi-
chia-se-du-lieu-dan-cu-cho-cac-nganh-khac-de-thu-tien-979148.html, truy cập ngày 30/11/2018.
Điều cần làm trước tiên là ghi nhận và thực
hiện những nguyên tắc thực hành thông tin
đúng mực FIPPs của tất cả các chủ thể thu
thập, quản lý và sử dụng các thông tin cá
nhân, kể cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Từ góc độ pháp lý, để giải quyết vấn
đề bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu
dùng, cần kiểm soát chặt chẽ các điều khoản
sử dụng dịch vụ để bảo đảm sự “đồng ý” hay
“cho phép” truy cập và khai thác các dữ liệu
cá nhân mang tính thực chất; cần mở rộng
thêm phạm vi kiểm soát các điều kiện giao
dịch chung, không nên chỉ dừng ở 9 hàng
hóa, dịch vụ như hiện nay bởi nguy cơ mất
an toàn thông tin của người tiêu dùng có thể
xảy ra ở bất cứ các giao dịch nào.
Mặc dù các chế tài xử lý của Việt Nam
không nhẹ, nhưng hầu như chỉ được áp dụng
khi có thiệt hại lớn. Các trường hợp khác,
rất ít khi các nạn nhân lên tiếng. Nên chăng,
trao quyền theo dõi, khiếu nại, khởi kiện cho
các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng để kịp
thời phát hiện và lên tiếng, yêu cầu cơ quan
nhà nước bảo vệ. Điều này sẽ tăng khả năng
phát hiện các vi phạm từ chính các đối tượng
được bảo vệ.
Cơ chế khởi kiện tập thể của người tiêu
dùng, khởi kiện của các tổ chức xã hội bảo vệ
người tiêu dùng cũng cần được cân nhắc và
quy định chi tiết bởi không có cơ quan quản
lý nào có thể thực hiện hết việc cho đăng ký
các điều kiện giao dịch chung và kiểm soát
chúng có vi phạm quyền riêng tư của người
tiêu dùng hay không; thu hút sự tham gia của
khu vực tư vào giải quyết vấn đề chung là
cách làm phù hợp hiện nay, không chỉ vì việc
tiết kiệm ngân sách nhà nước■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 12(388) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ve_thong_tin_nguoi_tieu_dung.pdf