Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện
Một là, cần xác định đối tượng bị xử
phạt VPHC một cách đồng bộ và chính xác,
theo đó, cần sửa đổi Nghị định số 134 trên
cơ sở phân hóa đối tượng bị xử phạt. Cụ thể,
nếu đơn vị điện lực là tổ chức vi phạm thì sẽ
xử phạt giống như tổ chức. Ngược lại, nếu
đơn vị điện lực là cá nhân vi phạm thì chỉ xử
phạt giống như cá nhân.
Hai là, cần bảo đảm thống nhất quy
định về thời hiệu và thời hạn xử phạt VPHC,
do đó, cần sửa đổi Luật Xử lý VPHC và cả
Nghị định số 134 theo hướng: “Đối với cá
nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết
định đưa ra xét xử theo thủ tục TTHS, nhưng
sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc
đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có dấu
hiệu VPHC thì bị xử phạt hành chính; trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã
ra quyết định phải gửi quyết định cho người
có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp
này, thời hiệu xử phạt VPHC là ba tháng,
kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt
nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ
vi phạm”.
Ba là, nhằm bảo đảm sự thống nhất
giữa quy định của Nghị định số 134 với
Luật Xử lý VPHC về biện pháp khắc phục
hậu quả, cần bãi bỏ quy định của Nghị
định số 134: “buộc bồi thường toàn bộ số
tiền bị thiệt hại” là một biện pháp khắc
phục hậu quả.
Bốn là, nếu cần hướng dẫn các nội
dung cụ thể trong Luật Xử lý VPHC nhằm
tạo ra cách áp dụng pháp luật thống nhất
trong toàn ngành thì Bộ Công thương cần
ban hành thông tư điều chỉnh chứ không thể
dùng công văn hành chính thông thường. Là
một thành viên của WTO thì tính công khai,
minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật
phải được đề cao. Để gia nhập WTO, Việt
Nam đã phải dành hẳn một điều khoản cam
kết bãi bỏ hoàn toàn việc dùng công văn để
điều chỉnh các chính sách về thương mại,
dịch vụ. Về mặt pháp lý, công văn cũng
không phải là một hình thức quyết định quản
lý nên không thể được sử dụng để quản lý,
điều hành
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Nhằm đảm bảo hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực thì xử phạt hành chính
được xem là một giải pháp hữu hiệu. Bài viết phân tích một số
bất cập, hạn chế trong các quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực, đồng thời đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện.
Cao Vũ Minh*
* TS. GV. Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract:
To ensure the effectiveness of the struggle and the prevention
of the fight against administrative violations in the field of
electricity, the administrative sanction is seen as a viable solution.
This article provides analysis of a number of the shortcomings
and limitations of the legal provisions on administrative sanction
in the field of electricity and recommendations for further
improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, vi phạm hành chính, xử phạt
vi phạm hành chính, điện lực.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/12/2017
Biên tập : 08/01/2018.
Duyệt bài : 15/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Law on Handling of
Administrative Violations of 2012,
administrative violation, sanctioning of
an administrative violation, electricity.
Article History:
Received : 07 Dec. 2017
Edited : 08 Jan. 2018
Approved : 15 Jan. 2018
BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN LỰC
Điện lực là ngành năng lượng quan
trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn, điện lực
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đầu tư
thích đáng. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước, đồng thời ngăn chặn, phòng ngừa,
xử lý các vi phạm hành chính (VPHC) trong
lĩnh vực điện lực, ngày 17/10/2013, Chính
phủ ban hành Nghị định số 134/2013/NĐ-CP
quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực điện
lực (Nghị định số 134). Tuy nhiên, những quy
định hiện hành về xử phạt VPHC trong lĩnh
vực điện lực vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều quy
định pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, từ đó gây
khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 7(359) T4/2018
1. Một số bất cập trong quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực
Thứ nhất, quy định trong Nghị định số
134 về đối tượng bị xử phạt VPHC trong
lĩnh vực điện lực chưa phù hợp với Luật
Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2012) (Luật Điện lực), Luật Xử lý VPHC
năm 2012.
Khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý VPHC quy
định: “Xử phạt VPHC là việc người có thẩm
quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo
quy định của pháp luật về xử phạt VPHC”.
Như vậy, theo quy định của Luật Xử lý
VPHC, đối tượng bị xử phạt VPHC chỉ có
thể là cá nhân hoặc tổ chức. Tuy nhiên, theo
quy định của Điều 3 Nghị định số 134 thì
đối tượng bị xử phạt VPHC trong lĩnh vực
điện lực không chỉ là cá nhân, tổ chức mà
còn có thể là đơn vị điện lực.
Theo quy định của Luật Xử lý VPHC,
đối với cùng một hành vi vi phạm, mức
tiền phạt của tổ chức gấp hai lần mức tiền
phạt của cá nhân. Do đó, việc xác định tư
cách chủ thể vi phạm là cá nhân hay tổ chức
đóng vai trò rất quan trọng, nhằm xác định
chính xác mức tiền phạt. Điều 3 Nghị định
số 134 quy định: “mức phạt tiền trong lĩnh
vực điện lực tối đa là 50.000.000 đồng đối
với cá nhân, 100.000.000 đồng đối với tổ
chức hoặc đơn vị điện lực”. Với quy định
này, Nghị định số 134 đã khẳng định đơn vị
điện lực là một tổ chức và bị xử phạt gấp hai
lần mức tiền phạt của cá nhân đối với cùng
một hành vi vi phạm. Tuy nhiên, phân tích
quy định của Luật Điện lực cho thấy, đơn vị
điện lực có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cụ
thể như sau:
Khoản 2 Điều 3 Luật Điện lực quy
1 Báo Dân Việt, Sử dụng điện “chùa”: Phát hiện nhiều, xử lý ít, ngày 17/05/2017.
định: “Đơn vị điện lực là tổ chức, cá nhân
thực hiện hoạt động phát điện, truyền tải
điện, phân phối điện, điều độ hệ thống điện,
điều hành giao dịch thị trường điện lực, bán
buôn điện, bán lẻ điện, tư vấn chuyên ngành
điện lực và những hoạt động khác có liên
quan”. Như vậy, căn cứ vào chủ thể tham
gia, có thể chia đơn vị điện lực thành hai
loại: i) đơn vị điện lực là tổ chức thực hiện
hoạt động liên quan đến điện lực; ii) đơn
vị điện lực là cá nhân thực hiện hoạt động
liên quan đến điện lực. Vì vậy, trong một số
trường hợp, đơn vị điện lực có thể được hiểu
là cá nhân chứ không đơn thuần chỉ là tổ
chức. Trường hợp đơn vị điện lực là một cá
nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực điện
lực thì các cơ quan nhà nước sẽ xử phạt như
thế nào? Nếu xử phạt như tổ chức thì không
công bằng vì trường hợp này đơn vị điện lực
là một cá nhân. Ngược lại, nếu xử phạt như
một cá nhân thì lại mẫu thuẫn với quy định
của Nghị định số 134.
Thứ hai, quy định về thời hiệu và thời
hạn xử phạt VPHC còn mâu thuẫn, gây khó
khăn cho việc xử lý các hành vi vi phạm liên
quan đến trộm cắp điện
Trong các hành vi vi phạm liên quan
đến lĩnh vực điện lực thì trộm cắp điện diễn
ra rất thường xuyên và chiếm tỉ lệ lớn. Hành
vi trộm cắp điện không chỉ làm thất thoát tài
sản Nhà nước mà còn có thể dẫn đến sự cố
lưới điện, gây mất an toàn, đe dọa tính mạng
con người.
Theo thống kê, trong năm 2016, Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã phát hiện
4.560 vụ trộm cắp điện với sản lượng điện
truy thu lên đến hơn 15,9 triệu kWh, tương
ứng 45,237 tỷ đồng1. Số vụ trộm cắp điện tuy
có giảm so với các năm trước, nhưng hình
thức trộm cắp điện lại tinh vi và khó phát
hiện. Trong 7 tháng đầu năm 2017, Tổng
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 7(359) T4/2018
công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) phát
hiện 423 vụ trộm cắp điện với sản lượng
điện truy thu lên đến 1,5 triệu kWh, tương
đương 4,626 tỷ đồng, trong đó đã xử lý 409
vụ, truy thu gần 1,4 triệu kWh, tương ứng
hơn 4,2 tỷ đồng. Tuy đã giảm 183 vụ so với
cùng kỳ năm 2016 nhưng nạn trộm cắp điện
ở khu vực miền Nam vẫn diễn biến hết sức
phức tạp2.
Các lĩnh vực trộm
cắp điện
Tổng số vụ
trộm cắp điện
lực lượng chức
năng phát hiện
Quản lý - tiêu dùng 3.922
Công nghiệp - Sản xuất 297
Thương mại - dịch vụ 103
Nông - Lâm - Thủy sản 64
Các đối tượng khác 174
Tổng 4.560
Thống kê các vụ trộm cắp điện và lĩnh vực
trộm cắp điện trong năm 2016
Theo quy định của Nghị định số 134,
hành vi trộm cắp điện dưới 20.000kWh sẽ
bị xử phạt hành chính, trộm cắp trên 20.000
kWh thì bị chuyển hồ sơ để truy cứu trách
nhiệm hình sự (TNHS). Tuy nhiên, trên
thực tế, việc truy cứu TNHS đối với chủ thể
trộm cắp điện gặp rất nhiều khó khăn. Do
công tác giám định tư pháp, xác định thời
gian, số lượng điện năng bị mất còn nhiều
vướng mắc, chứng cứ để truy tố không rõ
ràng dẫn đến khó khăn trong việc truy cứu
TNHS. Trong năm 2016, có 74 vụ trộm cắp
trên 20.000 kWh điện, cơ quan chức năng
chuyển hồ sơ cho các cơ quan tiến hành tố
tụng đề nghị xử lý hình sự 25 vụ, tuy nhiên
không có vụ nào được khởi tố3. Theo quy
2 VOV Giao thông, Chống trộm cắp điện ở miền Nam: Phạt hành chính vẫn là chính, ngày 27/09/2017.
3 Báo Dân Việt, Phát hiện 4.560 vụ trộm cắp điện, ngày 16/03/2017.
định của pháp luật hiện hành, trong trường
hợp có quyết định không khởi tố vụ án hình
sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án của cơ quan có thẩm quyền
hoặc trả lại hồ sơ thì cơ quan nhà nước sẽ
áp dụng mức tiền phạt quy định tại điểm k
khoản 9 Điều 12 Nghị định số 134 (phạt tiền
từ 45.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng)
và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại
điểm d khoản 12 Điều 12 Nghị định số 134
(buộc bồi thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại
do hành vi trộm cắp điện gây ra). Thời hạn
xử phạt trong trường hợp này căn cứ theo
quy định của Điều 63 Luật Xử lý VPHC.
Theo quy định của Điều 63 Luật Xử
lý VPHC, đối với vụ việc do cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự (TTHS) thụ lý, giải
quyết, nhưng sau đó lại có quyết định không
khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ
vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu VPHC, thì
trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết
định, cơ quan tiến hành TTHS phải chuyển
các quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang
vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị
xử phạt VPHC đến người có thẩm quyền xử
phạt VPHC. Trong trường hợp này, thời hạn
ra quyết định xử phạt VPHC là 30 ngày, kể từ
ngày nhận được các quyết định kể trên kèm
theo hồ sơ vụ vi phạm. Trường hợp cần xác
minh thêm thì thời hạn tối đa không quá 45
ngày. Quy định về thời hạn xử phạt VPHC
là cần thiết nhằm mục đích ràng buộc trách
nhiệm pháp lý của chủ thể có thẩm quyền
phải nhanh chóng, kịp thời ra quyết định
xử phạt VPHC. Tuy nhiên, quy định về thời
hạn xử phạt đối với vi phạm trong lĩnh vực
điện lực do cơ quan tiến hành TTHS chuyển
đến có thể bị “vô hiệu hóa” bởi các quy định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 7(359) T4/2018
về thời hiệu xử phạt vi phạm trong lĩnh vực
điện lực là 01 năm kể từ thời điểm “chấm
dứt hành vi vi phạm” hoặc “thời điểm phát
hiện hành vi vi phạm” 4.
Liên quan đến thời hiệu xử phạt
VPHC đối với cá nhân có hành vi trộm
cắp điện do cơ quan tiến hành tố tụng
chuyển đến, điểm c, khoản 1, Điều 6 Luật
Xử lý VPHC quy định: “Trường hợp xử
phạt VPHC đối với cá nhân do cơ quan
tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu
được áp dụng theo quy định tại điểm a và
điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến
hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào
thời hiệu xử phạt VPHC”. Quy định như
trên về thời hiệu xử phạt VPHC trong lĩnh
vực điện lực đối với cá nhân do cơ quan
tiến hành tố tụng chuyển đến tiềm ẩn rất
nhiều bất ổn. Giả sử, một cá nhân thực
hiện hành vi trộm cắp điện nên bị chuyển
hồ sơ để truy cứu TNHS nhưng sau đó lại
có quyết định không khởi tố vụ án hình
sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều
tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, thì lúc
này, cơ quan tiến hành TTHS chuyển hồ sơ
vụ vi phạm để chủ thể có thẩm quyền xử
phạt hành chính về hành vi trộm cắp điện
theo điểm k khoản 9 Điều 12 Nghị định số
134. Vấn đề cần nói đến là nếu cơ quan có
thẩm quyền xử phạt VPHC nhận được hồ
sơ, vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng
chuyển đến chưa quá 01 năm kể từ thời
điểm “chấm dứt hành vi vi phạm” hoặc
“thời điểm phát hiện hành vi vi phạm” thì
vẫn có thể xử phạt hành chính. Nhưng nếu
đã quá 01 năm thì việc xử phạt có được
tiến hành hay không?
Điều 63 Luật Xử lý XLVPHC chỉ
quy định về thời hạn ra quyết định xử
phạt VPHC là 30 ngày (hoặc 45 ngày
trong trường hợp cần xác minh thêm), kể
4 Điều 6 Luật Xử lý VPHC và Điều 2 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định: “thời hiệu xử phạt vi phạm trơng lĩnh vực
điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là 01 năm”.
từ ngày nhận được các quyết định không
khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết
định đình chỉ điều tra hoặc quyết định
đình chỉ vụ án mà không hề đề cấp đến vấn
đề thời hiệu. Tham khảo điểm c, khoản 1,
Điều 6 Luật Xử lý VPHC thì “thời gian
cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét
được tính vào thời hiệu xử phạt VPHC”.
Điều đó có nghĩa nếu quá thời hiệu xử phạt
VPHC quy định tại điểm c, khoản 1, Điều
6 thì người có thẩm quyền không ra quyết
định xử phạt VPHC. Việc không ra quyết
định xử phạt VPHC trong trường hợp này
là hoàn toàn không hợp lý và cũng không
phù hợp với nguyên tắc xử phạt VPHC
quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 3 Luật
Xử lý VPHC là: “mọi VPHC phải được
phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử
lý nghiêm minh”.
Như đã trình bày, với quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý VPHC
thì sẽ có hai khả năng xảy ra. Khả năng
thứ nhất là vụ việc do cơ quan tiến hành
tố tụng chuyển đến vẫn nằm trong thời
hiệu 01 năm thì người có thẩm quyền sẽ
ra quyết định xử phạt VPHC. Khả năng
thứ hai là vụ việc do cơ quan tiến hành
tố tụng chuyển đến quá thời hiệu 01 năm
thì người có thẩm quyền sẽ không được ra
quyết định xử phạt VPHC. Như vậy, quy
định nêu trên sẽ dẫn đến một nghịch lý là
hành vi trộm cắp điện với số lượng rất lớn
(20.000kWh) có thể không bị xử lý hình
sự lẫn xử phạt hành chính.
Thứ ba, quy định của Nghị định số 134
về biện pháp khắc phục hậu quả chưa phù
hợp với các quy định pháp luật có liên quan
VPHC trong lĩnh vực điện lực ngoài
việc gánh chịu hình thức xử phạt, còn bị áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Nghị
định số 134 không liệt kê các biện pháp khắc
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 7(359) T4/2018
phục hậu quả trong một điều luật cụ thể mà
quy định “tản mạn” trong nhiều điều khoản
khác nhau. Về kỹ luật lập pháp, cách quy
định này chưa khoa học và không tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình thống kê, sưu
tra, tìm kiếm nhằm phổ biến, tuyên truyền,
xử phạt các vi phạm liên quan.
Bên cạnh đó, việc Nghị định số 134
còn quy định về biện pháp khắc phục hậu
quả “buộc bồi thường toàn bộ số tiền bị thiệt
hại”5 là chưa thật sự hợp lý. Theo quy định
của Khoản 2 Điều 20 Luật Điện lực, việc
mua bán điện trên thị trường điện lực được
thực hiện theo hai hình thức: i) mua bán
thông qua hợp đồng có thời hạn giữa bên
bán điện và bên mua điện; ii) mua bán giao
ngay giữa bên bán điện và bên mua điện
thông qua đơn vị điều hành giao dịch thị
trường điện lực. Như vậy, quan hệ giữa
bên bán điện và khách hàng sử dụng điện
là một quan hệ dân sự. Ngoài ra, Điều 46
Luật Điện lực còn quy định về quyền của
khách hàng sử dụng điện được bồi thường
thiệt hại do bên bán điện gây ra và có nghĩa
vụ bồi thường khi gây thiệt hại cho bên
bán điện theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, cơ chế bồi thường này phải được
thực hiện thông qua thủ tục tố tụng dân
sự chứ không phải thông qua thủ tục hành
chính. Cụ thể, trong trường hợp này, bên
bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án
để yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động
điện lực. Vì lẽ đó, thẩm quyền “buộc bồi
thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại” sẽ do
Tòa án quyết định thông qua thủ tục tố tụng
chứ không thể thông qua thủ tục hành chính
bằng biện pháp khắc phục hậu quả. Vì vậy,
Nghị định số 134 “cho phép” nhiều chủ
thể, thậm chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
5 Điểm d khoản 12 Điều 12 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.
6 Điều 37, 38 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.
7 Chúng tôi đồng ý với ý kiến của PGS,TS. Nguyễn Cửu Việt khi cho rằng, ngoài chủ thể chính thức được trao quyền giải
thích pháp luật là Ủy ban thường vụ Quốc hội thì Chính phủ, các Bộ vẫn tiến hành giải thích chính thức nhưng dưới
“vỏ bọc” là “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành”. Xem thêm Nguyễn Cửu Việt, “Vài nét về khái niệm giải thích
pháp luật, quy định về giải thích pháp luật và thực tiễn giải thích pháp luật ở Việt Nam”, trong sách Giải thích pháp
luật, một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb. Hồng Đức, H., 2009, tr. 144.
huyện, Chánh Thanh tra Sở Công thương,
Trưởng đoàn Thanh tra chuyên ngành cấp
sở6 có quyền áp dụng “buộc bồi thường
toàn bộ số tiền bị thiệt hại” như một biện
pháp khắc phục hậu quả là không phù hợp
với quy định của Luật Điện lực.
Thứ tư, việc sử dụng công văn để hướng
dẫn cho Luật Xử lý VPHC và Nghị định số
134 là không đúng về thể thức văn bản
Hiện nay, ngoài chủ thể chính thức
được trao quyền giải thích pháp luật là Ủy
ban thường vụ Quốc hội thì Chính phủ, các
bộ vẫn tiến hành giải thích pháp luật với
các hình thức văn bản khác nhau như nghị
định của Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng7.
Do đó, để bảo đảm tính thống nhất trong hệ
thống pháp luật, những cơ quan này không
được sử dụng công văn để giải thích pháp
luật mà phải ban hành văn bản quy phạm
pháp luật để hướng dẫn thực hiện thống nhất
pháp luật. Đáng tiếc quy định này đã không
được tuân thủ nghiêm chỉnh trong xử phạt
hành chính liên quan đến điện lực.
Điều 66 Luật Xử lý VPHC quy định:
“người có thẩm quyền xử phạt VPHC phải
ra quyết định xử phạt VPHC trong thời hạn
07 ngày, kể từ ngày lập biên bản VPHC. Đối
với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà
không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối
với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61
của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử
phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên
bản”. Tuy nhiên, kể từ khi ban hành Luật
Xử lý VPHC cho đến nay, chưa có văn bản
pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là vụ
việc “có nhiều tình tiết phức tạp”. Do đó,
quá trình thực thi áp dụng quy định này chưa
bảo đảm tính thống nhất, gây lúng túng, khó
khăn cho các chủ thể có thẩm quyền xử phạt.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 7(359) T4/2018
Nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp
luật thống nhất trong xử phạt VPHC liên
quan đến điện lực, ngày 31/03/2016, Bộ
Công thương ban hành Công văn số 2797/
BCT-ĐTĐL hướng dẫn một số vấn đề vướng
mắc trong quá trình phát hiện, xử lý hành
vi trộm cắp điện (Công văn số 2797). Công
văn số 2797 “giải thích”, đồng thời đưa ra
hướng dẫn tất cả các vụ việc trộm cắp điện
được xem là trường hợp “vụ việc có nhiều
tình tiết phức tạp” và áp dụng thời hạn ra
quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ
ngày lập biên bản.
Hành vi trộm cắp điện thường rất đa
dạng, có nhiều trường hợp chủ thể vi phạm
áp dụng khoa học công nghệ cao để điều
khiển, can thiệp vào các thiết bị đo đếm
điện. Việc tính toán số lượng điện bị trộm
cắp thường rất phức tạp, cần phải có thời
gian để tính toán. Trong nhiều trường hợp,
bắt buộc phải chờ kết quả kiểm định thiết bị
đo đếm điện. Vì vậy, quy định thời hạn xử
phạt 30 ngày đối với hành vi trộm cắp điện
là hợp lý. Tuy nhiên, việc hướng dẫn, giải
thích Luật Xử lý VPHC bằng Công văn số
2797 là không có cơ sở pháp lý.
Trong hoạt động của mình, khi nhận
thấy có những quy định pháp luật chưa rõ,
có thể tạo ra những cách hiểu khác nhau thì
cơ quan cấp trên có thể tự mình hoặc theo
đề nghị của cấp dưới ban hành công văn để
nói rõ quan điểm của mình đối với quy định
đó. Nếu vấn đề đó đã có quy định trong một
văn bản quy phạm pháp luật hay đã được
giải quyết trong một văn bản cá biệt thì cấp
trên cần chỉ rõ văn bản đó để cấp dưới có thể
tránh được những sai phạm, áp dụng không
thống nhất pháp luật. Trong trường hợp này,
nội dung công văn có vai trò định hướng cho
cấp dưới trong việc lựa chọn quy phạm cụ
thể để áp dụng hoặc giải thích, hướng dẫn
về nội dung thiếu cụ thể trong những văn
bản có liên quan. Tuy nhiên, trong công văn
chỉ được đưa ra những hướng dẫn trên tinh
thần của những văn bản pháp luật đang có
hiệu lực pháp luật chứ không đặt ra các quy
định mới.
2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện
Một là, cần xác định đối tượng bị xử
phạt VPHC một cách đồng bộ và chính xác,
theo đó, cần sửa đổi Nghị định số 134 trên
cơ sở phân hóa đối tượng bị xử phạt. Cụ thể,
nếu đơn vị điện lực là tổ chức vi phạm thì sẽ
xử phạt giống như tổ chức. Ngược lại, nếu
đơn vị điện lực là cá nhân vi phạm thì chỉ xử
phạt giống như cá nhân.
Hai là, cần bảo đảm thống nhất quy
định về thời hiệu và thời hạn xử phạt VPHC,
do đó, cần sửa đổi Luật Xử lý VPHC và cả
Nghị định số 134 theo hướng: “Đối với cá
nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết
định đưa ra xét xử theo thủ tục TTHS, nhưng
sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc
đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có dấu
hiệu VPHC thì bị xử phạt hành chính; trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã
ra quyết định phải gửi quyết định cho người
có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp
này, thời hiệu xử phạt VPHC là ba tháng,
kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt
nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ
vi phạm”.
Ba là, nhằm bảo đảm sự thống nhất
giữa quy định của Nghị định số 134 với
Luật Xử lý VPHC về biện pháp khắc phục
hậu quả, cần bãi bỏ quy định của Nghị
định số 134: “buộc bồi thường toàn bộ số
tiền bị thiệt hại” là một biện pháp khắc
phục hậu quả.
Bốn là, nếu cần hướng dẫn các nội
dung cụ thể trong Luật Xử lý VPHC nhằm
tạo ra cách áp dụng pháp luật thống nhất
trong toàn ngành thì Bộ Công thương cần
ban hành thông tư điều chỉnh chứ không thể
dùng công văn hành chính thông thường. Là
một thành viên của WTO thì tính công khai,
minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật
phải được đề cao. Để gia nhập WTO, Việt
Nam đã phải dành hẳn một điều khoản cam
kết bãi bỏ hoàn toàn việc dùng công văn để
điều chỉnh các chính sách về thương mại,
dịch vụ. Về mặt pháp lý, công văn cũng
không phải là một hình thức quyết định quản
lý nên không thể được sử dụng để quản lý,
điều hành
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 7(359) T4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bat_cap_trong_quy_dinh_ve_xu_phat_vi_pham_hanh_chinh_trong_l.pdf