Kết luận và khuyến nghị
Chúng tôi cho rằng, các quy định về bất
khả kháng trong pháp luật dân sự Việt Nam,
ngoài sự bất hợp lý về vị trí (đặt tại quy định
về thời hiệu), còn chưa thực sự rõ ràng để
khẳng định bất khả kháng có được coi là căn
cứ miễn nghĩa vụ hoàn trả hay không. Vì
vậy, cần sửa đổi BLDS năm 2015 theo
hướng, bổ sung quy định định nghĩa thế nào
là bất khả kháng và đặt ở phần chung để áp
dụng cho toàn bộ các quan hệ tư. Trên cơ sở
đó, cần bổ sung quy định về căn cứ miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm từng
loại nghĩa vụ cụ thể.
Chúng tôi cho rằng, quy định của khoản
2 Điều 351 BLDS năm 2015 chưa đủ để
khẳng định bất khả kháng có thể được dùng
làm căn cứ miễn trách nhiệm đối với mọi
hành vi vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng hay không; bất khả kháng chỉ nên được
dùng làm căn cứ miễn trách nhiệm gánh vác
hậu quả mà hành vi vi phạm gây ra mà thôi,
chứ không thể được dùng để miễn thực hiện
nghĩa vụ. Bất khả kháng chỉ nên được coi là
sự kiện miễn trách nhiệm khi sự kiện đó
ngăn cản hoàn toàn khả năng thực hiện nghĩa
vụ cả trong thời gian xảy ra sự kiện bất khả
kháng sau đó. Đối với nghĩa vụ hoàn trả tài
sản, đặc biệt là hoàn trả tiền vay, bất khả
kháng chỉ ngăn cản người có nghĩa vụ hoàn
trả thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời
gian xảy ra sự kiện bất khả kháng mà thôi.
Sau khi hết khoảng thời gian xảy ra sự kiện
bất khả kháng, người có nghĩa vụ vẫn có thể
thực hiện được nghĩa vụ hoàn trả tài sản của
mình (chỉ trừ trường hợp người đó bị phá
sản) và vì vậy, bất khả kháng chỉ có thể được
sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm do
hành vi vi phạm nghĩa vụ hoàn trả, chứ
không thể được coi là căn cứ miễn thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả. Nói cách khác, trong các
hợp đồng có quy định về nghĩa vụ hoàn trả
tài sản, đặc biệt là tiền, bất khả kháng chỉ nên
được coi là căn cứ để miễn thực hiện các
nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận phát sinh từ
hợp đồng (chủ yếu là lãi, phân chia tài sản
tăng thêm, hoa lợi, lợi tức ) và miễn trách
nhiệm gách vác hậu quả phát sinh từ hành vi
vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tài sản.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bất khả kháng và nghĩa vụ hoàn trả tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1 Nghĩa vụ trả lại tài sản cũng có thể tồn tại trong rất nhiều loại hợp đồng thương mại, trong đó một bên giao
tài sản cho bên kia sử dụng để thực hiện nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận, ví dụ như hợp đồng nhượng quyền
thương mại, hợp đồng phân phối, hợp đồng đại lý xăng dầu... Tuy nhiên, đây không phải là nghĩa vụ chính
trong các loại hợp đồng này. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ nghiên cứu các hợp đồng mà
nghĩa vụ hoàn trả là nghĩa vụ cơ bản và được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS).
BẤT KHẢ KHÁNG Và NGHĨA VỤ HOàN TRẢ TàI SẢN
Ngô Quốc Chiến *
* PGS. TS. Giảng viên Trường Đại học Ngoại thương.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bất khả kháng, nghĩa vụ hoàn
trả, miễn trách nhiệm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 16/04/2020
Biên tập : 21/042020
Duyệt bài : 23/04/2020
Article Infomation:
Key words: Force majeure; obligation
of restitution; exemption of civil
liability
Article History:
Received : 16 Mar. 2020
Edited : 21 Apr. 2020
Approved : 23 Apr. 2020
Tóm tắt:
Bất khả kháng là một trong những căn cứ miễn trách nhiệm dân
sự, theo đó khi bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa
vụ của mình do xảy ra một hoàn cảnh khách quan, không dự báo
được và không thể khắc phục được dù đã nỗ lực hết khả năng
thì bên có nghĩa vụ đó không phải chịu trách nhiệm đối với việc
không thực hiện nghĩa vụ của mình. Câu hỏi đặt ra là bất khả
kháng có phải là nguyên tắc chung, áp dụng cho mọi quan hệ
dân sự? Liệu nguyên tắc này có những ngoại lệ trong một số loại
quan hệ cụ thể? Bài viết này không nhằm phân tích thế nào là
bất khả kháng, mà tập trung nghiên cứu sự kiện bất khả kháng
có được coi là căn cứ miễn trách nhiệm trong các loại hợp đồng
mà hết thời hạn một bên phải trả lại tài sản cho bên kia.
Abstract:
Force majeure is one of the evidents for the exemption from civil
liability by which the debtor is exonerated from his non-
performance of his obligations due to an objective, unforeseen
and irreversible circumstance, despite all efforts by the debtor.
The question to be treated here is whether force majeure is a
general principle, which is applicable to all civil relations and
whether exceptions to this principle exist in certain types of
relationships? This article does not aim to analyse what is force
majeure, but to focus instead on answering the question whether
force majeure circumstances could be considered as a basis of
civil liability waiver from the non-fulfillment of the obligation
of restitution and reimbursement.
Nghĩa vụ trả lại tài sản, có thể có các tên
gọi khác nhau trong các hợp đồng khác
nhau, nhưng có chung một bản chất là khi
hết hạn hợp đồng thì một bên đã nhận tài sản
từ bên kia có nghĩa vụ trả lại tài sản cho bên
kia. Đó có thể là nghĩa vụ trả nợ trong hợp
đồng vay tài sản, nghĩa vụ trả lại tài sản thuê
trong hợp đồng thuê tài sản, nghĩa vụ trả lại
tài sản thuê khoán trong hợp đồng thuê
khoán tài sản hay nghĩa vụ trả lại tài sản
mượn trong hợp đồng mượn tài sản1. Trong
thực tế, có thể xảy ra trường hợp bên có
nghĩa vụ trả lại tài sản rơi vào hoàn cảnh bất
khả kháng và câu hỏi đặt ra là bất khả kháng
có thể được sử dụng làm căn cứ miễn trách
nhiệm hay không ? Do các hợp đồng nêu
Số 8(408) - T4/202052
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
trên đều là các hợp đồng làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự nên cần nghiên cứu bất khả kháng
với ý nghĩa là căn cứ miễn trách nhiệm dân
sự nói chung (1). Trên cơ sở nguyên tắc
chung đó, chúng tôi sẽ nghiên cứu bất khả
kháng và nghĩa vụ hoàn trả (2).
1. Bất khả kháng-căn cứ miễn trách
nhiệm dân sự
Khi một nghĩa vụ được phát sinh trên cơ
sở hợp đồng hoặc trên cơ sở luật định thì chủ
thể có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Tuy nhiên, thực tế có thể xảy ra trường hợp
bên có nghĩa vụ không thể thực hiện nghĩa vụ
đó dù đã áp dụng mọi biện pháp hợp lý. Pháp
luật Việt Nam cũng như pháp luật của nhiều
nước đều có quy định về các căn cứ miễn trách
nhiệm, và một trong số đó là bất khả kháng.
Quy định về bất khả kháng là căn cứ miễn
trách nhiệm dân sự, hoãn thực hiện nghĩa vụ,
điều chỉnh nghĩa vụ được quy định cả trong
Bộ luật dân sự (BLDS) với ý nghĩa là một đạo
luật nền tảng điều chỉnh các quan hệ tư, và
trong nhiều đạo luật chuyên ngành, như Luật
Thương mại năm 2005, Luật Xây dựng năm
2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Hàng
không dân dụng năm 2014
BLDS năm 2015 có một quy định chung
về bất khả kháng được đặt trong phần về thời
hạn và thời hiệu. Cụ thể, Điều 156 điều
chỉnh vấn đề về thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu
yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều
156, thời gian xảy ra bất khả kháng không
được tính vào thời hiệu. Nhằm mục đích đó,
Điều 156 đưa ra định nghĩa thế nào là bất
khả kháng; theo đó, “Sự kiện bất khả kháng
là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết và khả năng cho phép”. Thông
thường, một quy định chuyên biệt được đặt
trong một điều luật chuyên biệt (về thời gian
không tính vào thời hiệu khởi kiện) thì chỉ
áp dụng cho quy định đó, nhưng trong thực
tế, quy định của Điều 156 đã được áp dụng
làm căn cứ miễn trách nhiệm dân sự nói
chung. Ngoài định nghĩa tại Điều 156 nêu
trên, BLDS năm 2015 không có bất kỳ định
nghĩa nào khác về bất khả kháng, mà chỉ có
các quy định về bất khả kháng là căn cứ
miễn trách nhiệm dân sự nói chung2 và trách
nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng3 và trong
từng chế định cụ thể thuộc hai lĩnh vực này.
Đây là một điều khác biệt của pháp luật Việt
Nam so với pháp luật ở một số quốc gia trên
thế giới4.
Ngoài các quy định chung và chuyên
biệt được quy định trong BLDS, chúng ta
còn thấy bất khả kháng được quy định trong
các đạo luật chuyên ngành là căn cứ miễn
trách nhiệm, kéo dài thực hiện hợp đồng,
điều chỉnh hợp đồng, điều chỉnh dự án đầu
tư... Cụ thể, bất khả kháng được quy định là
căn cứ để: miễn trách nhiệm đối với hành vi
vi phạm5; kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện
hợp đồng6; điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng
sử dụng vốn nhà nước7; điều chỉnh hợp đồng
xây dựng8; giãn tiến độ đầu tư9; miễn tiền
2 Khoản 2 Điều 351 BLDS năm 2015.
3 Khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015.
4 Pháp luật của Pháp có các quy định định nghĩa về bất khả kháng trong từng lĩnh vực hợp đồng và ngoài
hợp đồng. Xem bình luận so sánh của chúng tôi: Van Dai DO et Quoc Chien NGO, 2018, “La réforme du
droit de la responsabilité civile: regards croisés vietnamo-français” (Sửa đổi pháp luật về trách nhiệm dân
sự: so sánh pháp luật Việt Nam và Pháp), Revue internationale de droit comparé (Tạp chí quốc tế về luật
so sánh), eISSN 1953-8111, số 1 năm 2018, tr.119-148.
5 Điểm b khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005.
6 Điều 296 Luật Thương mại năm 2005.
7 Khoản 1 Điều 61 Luật Xây dựng năm 2014.
8 Điểm d khoản 2 Điều 143 Luật Xây dựng năm 2014.
9 Khoản 3 Điều 46 Luật Đầu tư năm 2014.
53Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thuê đất trong thời gian tạm ngừng hoạt động
để khắc phục hậu quả do bất khả kháng gây
ra10; miễn trách nhiệm khi không vận chuyển
hành lý cùng với hành khách trên một
chuyến bay11; miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại đối với người bảo hiểm12 Các văn
bản luật chuyên ngành này không định nghĩa
thế nào là bất khả kháng và vì vậy, quy định
của BLDS sẽ được áp dụng theo nguyên tắc
luật chung được áp dụng để bổ khuyết cho
luật chuyên ngành.
Như vậy, định nghĩa về bất khả kháng
tại Điều 156 BLDS năm 2015 sẽ được sử
dụng chung để xác định thế nào là bất khả
kháng trong các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng; còn khi nào bất khả kháng được coi là
căn cứ miễn trách nhiệm thì tùy vào từng
quan hệ cụ thể được quy định trong chính
BLDS và trong các đạo luật chuyên ngành
như đã nêu ở trên. Một câu hỏi tiếp theo cần
được trả lời là bất khả kháng được quy định
tại Điều 156 BLDS năm 2015 có thể được
sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tài sản
trong một số hợp đồng cụ thể hay không?
2. Bất khả kháng – căn cứ miễn thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả tài sản?
Như đã trình bày ở trên, nghĩa vụ hoàn
trả tồn tại trong rất nhiều quan hệ tài sản. Cụ
thể, trong hợp đồng vay tài sản, “khi đến hạn
trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay
tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng”. Đây là quy định chung tại Điều 463
BLDS năm 2015. Sau đó, Điều 466 BLDS
quy định rõ hơn về nghĩa vụ hoàn trả; theo
đó, “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ
tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải
trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng,
trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trường
hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả
bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa
điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho
vay đồng ý”. Đối với hợp đồng thuê tài sản,
bên thuê “phải trả lại tài sản thuê trong tình
trạng như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên...”13.
Đối với hợp đồng thuê khoán tài sản, khi
chấm dứt hợp đồng thuê khoán, bên thuê
khoán “phải trả lại tài sản thuê khoán ở tình
trạng phù hợp với mức độ khấu hao đã thoả
thuận”14. Trong hợp đồng mượn tài sản, bên
mượn “phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn
mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được”15.
Bên mượn tài sản phải “trả lại tài sản mượn
đúng thời hạn; nếu không có thoả thuận về
thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả
lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt
được”16. Tương tự, trong hợp đồng gửi giữ tài
sản, “bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo
quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi
khi hết thời hạn hợp đồng”17. Nếu không có
thỏa thuận khác, bên giữ phải trả lại chính tài
sản đã nhận và cả hoa lợi nếu có tại nơi gửi
giữ theo đúng thời hạn18.
Do các hợp đồng nêu trên đều là là các
hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự và
để biết bất khả kháng có thể được dùng làm
căn cứ miễn trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng đó
hay không thì có thể áp dụng quy định chung
về trách nhiệm dân sự. Cụ thể, khoản 2 Điều
351 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp
bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa
vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải
chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”. Tuy nhiên, quy định này đề cập tới
10 Khoản 1 Điều 47 Luật Đầu tư năm 2014.
11 Điểm e khoản 2 Điều 149 Luật Hàng không dân dụng năm 2014.
12 Điểm b khoản 2 Điều 183 Luật Hàng không dân dụng năm 2014.
13 Khoản 1 Điều 481 BLDS năm 2015.
14 Điều 493 BLDS năm 2015.
15 Điều 494 BLDS năm 2015.
16 Khoản 3 Điều 496 BLDS năm 2015.
17 Điều 554 BLDS năm 2015.
18 Điều 559 BLDS năm 2015.
Số 8(408) - T4/202054
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nghĩa vụ dân sự nói chung, chứ không phải
một nghĩa vụ dân sự cụ thể nào, nên không
đủ rõ để chúng ta trả lời được câu hỏi bất khả
kháng có thể được sử dụng làm căn cứ miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm mọi
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, trong đó có
nghĩa vụ trả lại tài sản, hay không.
Vì vậy, câu trả lời cần được tìm trong
chính các chế định liên quan đến các hợp
đồng chuyên biệt này. Chúng tôi thấy rằng,
tất cả các chế định trên đều quy định về
nghĩa vụ trả lại tài sản, nhưng không quy
định trường hợp miễn trách nhiệm khi bên
có nghĩa vụ hoàn trả không thực hiện nghĩa
vụ của mình. Chỉ riêng đối với hợp đồng
thuê khoán tài sản và hợp đồng gửi giữ tài
sản thì BLDS có quy định về bất khả kháng.
Đối với hợp đồng thuê khoán tài sản, BLDS
quy định về bất khả kháng nhưng quy định
này chỉ liên quan đến giảm tiền thuê khoán.
Cụ thể, việc giảm tiền thuê khoán do các bên
thỏa thuận và nếu các bên không có thỏa
thuận và nếu hoa lợi, lợi tức bị mất ít nhất là
một phần ba do sự kiện bất khả kháng thì
bên thuê khoán có quyền yêu cầu giảm hoặc
miễn tiền thuê khoán19. Trường hợp đối
tượng của thuê khoán là gia súc thì trong
thời hạn thuê khoán gia súc, bên thuê khoán
được hưởng một nửa số gia súc sinh ra và
phải chịu một nửa thiệt hại về gia súc thuê
khoán do sự kiện bất khả kháng20. Đối với
hợp đồng gửi giữ tài sản, BLDS có quy định
về bất khả kháng nhưng chỉ liên quan đến
miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp tài sản gửi giữ bị mất hoặc bị hư
hỏng do bất khả kháng; cụ thể, bên gửi tài
sản có quyền “yêu cầu bồi thường thiệt hại,
nếu bên giữ làm mất, hư hỏng tài sản gửi
giữ, trừ trường hợp bất khả kháng”21. Vì vậy,
có thể thấy, các quy định về bất khả kháng
trong hợp đồng thuê khoán chỉ áp dụng đối
việc điều chỉnh các nghĩa vụ phát sinh từ
thỏa thuận của các bên, không áp dụng đối
với nghĩa vụ hoàn trả vốn là nghĩa vụ luật
định. Đối với hợp đồng thuê khoán, bất khả
kháng chỉ là căn cứ miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Có thể thấy rằng, khi pháp luật chỉ quy
định miễn trách nhiệm trong các tình huống
cụ thể (giảm tiền thuê khoán, giảm số gia súc
đượng hưởng trong hợp đồng thuê khoán và
miễn trách nhiệm bồi thường trong hợp đồng
gửi giữ tài sản), điều này có nghĩa là bất khả
kháng sẽ không được dùng để làm căn cứ
miễn trách nhiệm đối với các nghĩa vụ khác.
Tuy nhiên, việc này không thể thực hiện
được đối với những hợp đồng mà luật hoàn
toàn không có quy định về bất khả kháng đối
với những nghĩa vụ cụ thể phát sinh từ các
hợp đồng ấy (hợp đồng vay tài sản, hợp đồng
thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản...).
Theo chúng tôi, cần phân biệt hai loại
nghĩa vụ có thể phát sinh từ các hợp đồng
trên. Loại nghĩa vụ thứ nhất là nghĩa vụ mà
các bên thỏa thuận làm phát sinh trong quan
hệ của mình. Chẳng hạn, đối với hợp đồng
thuê tài sản, các bên có thể thỏa thuận làm
phát sinh nghĩa vụ giao tài sản gì, số lượng,
chủng loại, thời gian, tiền thuê, thời hạn trả
tiền thuê, phương thức thanh toán... Loại
nghĩa vụ thứ hai là nghĩa vụ luật định mà các
bên không thể định đoạt khác và nếu các bên
định đoạt khác thì sẽ làm mất đi bản chất của
quan hệ hợp đồng đó. Nghĩa vụ hoàn trả tài
sản thuộc loại thứ hai. Nói cách khác, nếu
chẳng hạn trong hợp đồng mượn tài sản mà
các bên thỏa thuận bên mượn tài sản không
phải trả lại tài sản cho bên cho mượn thì hợp
đồng này không còn là hợp đồng mượn tài
sản nữa, mà có thể sẽ trở thành hợp đồng
tặng cho tài sản.
Đối với loại nghĩa vụ thứ nhất, bất khả
kháng có thể được sử dụng làm căn cứ miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm; còn đối
với loại nghĩa vụ thứ hai, mà cụ thể là nghĩa
19 Khoản 3 Điều 488 BLDS năm 2015.
20 Điều 491 BLDS năm 2015.
21 Khoản 2 Điều 556 BLDS năm 2015.
55Số 8(408) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vụ hoàn trả, bất khả kháng không thể được
sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm. Tòa
án ở một số nước cũng đã quyết định theo
hướng này. Cụ thể, trong một tranh chấp liên
quan đến nghĩa vụ trả nợ của người bảo lãnh
thay cho người được bảo lãnh, Tòa án Tối
cao Pháp đã quyết định rằng bất khả kháng
không được coi là căn cứ miễn nghĩa vụ trả
nợ. Cụ thể, người vay không thực hiện được
nghĩa vụ trả nợ nên ngân hàng gọi bảo lãnh
và yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ trả nợ thay cho người mà mình bảo lãnh.
Người bảo lãnh viện dẫn trường hợp bất khả
kháng theo quy định tại Điều 1128 BLDS
Pháp22. Vấn đề gây tranh cãi ở đây không
phải việc người bảo lãnh bị ốm23 đến mức
không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ mà sự
kiện bất khả kháng đó có thể được coi là căn
cứ miễn trách nhiệm hay không. Tòa án Tối
cao Pháp cho rằng “người có nghĩa vụ trả
một khoản tiền theo hợp đồng nhưng không
thực hiện nghĩa vụ của mình không thể được
miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
này kể cả khi bị bất khả kháng”24.
3. Kết luận và khuyến nghị
Chúng tôi cho rằng, các quy định về bất
khả kháng trong pháp luật dân sự Việt Nam,
ngoài sự bất hợp lý về vị trí (đặt tại quy định
về thời hiệu), còn chưa thực sự rõ ràng để
khẳng định bất khả kháng có được coi là căn
cứ miễn nghĩa vụ hoàn trả hay không. Vì
vậy, cần sửa đổi BLDS năm 2015 theo
hướng, bổ sung quy định định nghĩa thế nào
là bất khả kháng và đặt ở phần chung để áp
dụng cho toàn bộ các quan hệ tư. Trên cơ sở
đó, cần bổ sung quy định về căn cứ miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm từng
loại nghĩa vụ cụ thể.
Chúng tôi cho rằng, quy định của khoản
2 Điều 351 BLDS năm 2015 chưa đủ để
khẳng định bất khả kháng có thể được dùng
làm căn cứ miễn trách nhiệm đối với mọi
hành vi vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng hay không; bất khả kháng chỉ nên được
dùng làm căn cứ miễn trách nhiệm gánh vác
hậu quả mà hành vi vi phạm gây ra mà thôi,
chứ không thể được dùng để miễn thực hiện
nghĩa vụ. Bất khả kháng chỉ nên được coi là
sự kiện miễn trách nhiệm khi sự kiện đó
ngăn cản hoàn toàn khả năng thực hiện nghĩa
vụ cả trong thời gian xảy ra sự kiện bất khả
kháng sau đó. Đối với nghĩa vụ hoàn trả tài
sản, đặc biệt là hoàn trả tiền vay, bất khả
kháng chỉ ngăn cản người có nghĩa vụ hoàn
trả thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời
gian xảy ra sự kiện bất khả kháng mà thôi.
Sau khi hết khoảng thời gian xảy ra sự kiện
bất khả kháng, người có nghĩa vụ vẫn có thể
thực hiện được nghĩa vụ hoàn trả tài sản của
mình (chỉ trừ trường hợp người đó bị phá
sản) và vì vậy, bất khả kháng chỉ có thể được
sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm do
hành vi vi phạm nghĩa vụ hoàn trả, chứ
không thể được coi là căn cứ miễn thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả. Nói cách khác, trong các
hợp đồng có quy định về nghĩa vụ hoàn trả
tài sản, đặc biệt là tiền, bất khả kháng chỉ nên
được coi là căn cứ để miễn thực hiện các
nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận phát sinh từ
hợp đồng (chủ yếu là lãi, phân chia tài sản
tăng thêm, hoa lợi, lợi tức) và miễn trách
nhiệm gách vác hậu quả phát sinh từ hành vi
vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tài sản.
Trong thời gian tới, rất có thể sẽ có
nhiều tranh chấp phát sinh từ sự kiện bất khả
kháng do đại dịch Covid gây ra. Vì vậy, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần
sớm ban hành văn bản hướng dẫn để giải
quyết vấn đề này n
22 Đã được sửa đổi năm 2016 và trở thành Điều 1148, quy định như sau: “Bên có nghĩa vụ không phải bồi
thường thiệt hại đối với việc thực hiện nghĩa vụ hoặc đối với hành vi vi do bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan”.
23 Tất cả các cấp tòa của Pháp đều khẳng định đây là trường hợp bất khả kháng.
24 Cass.com., 16 sept. 2014, n° de pourvoi: 13-20306, Bulletin 2014, IV, n° 118.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bat_kha_khang_va_nghia_vu_hoan_tra_tai_san.pdf