BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
1. Ở nhiều quốc gia, việc giết chết động
vật bị nhiễm bệnh một cách êm thấm/nhân đạo
(euthanasia) được khuyên dùng do có nguy cơ
truyền lây sang người, tiên lượng của bệnh cũng
như phụ thuộc vào loài vi khuẩn lao gây bệnh.
2. Tuân thủ điều trị và nguy cơ bệnh truyền
sang người nên được thảo luận với chủ sở hữu
trước khi điều trị, đặc biệt nếu có các thành viên
suy giảm miễn dịch trong hộ gia đình.
3. Sử dụng ống thông thực quản hoặc viên
nang gelatine để tạo điều kiện thuận lợi tuân thủ
quy trình điều trị.
4. Điều trị dựa trên sự kết hợp của hai hoặc
ba loại thuốc kháng sinh, thường là rifampicin,
cộng với một loại macrolide và fluoroquinolone.
Sự lựa chọn thuốc kháng sinh nên dựa trên loại
vi khuẩn mycobacteria hoặc xét nghiệm mức độ
nhạy cảm kháng sinh, nếu có thể.
5. Điều trị lâu dài (> 6 tháng) được khuyến
cáo, vì điều trị không đủ liệu trình sẽ dẫn đến
tái phát hoặc phát triển sự kháng thuốc của vi
khuẩn lao.
6. Phẫu thuật cắt bỏ các nốt lao có thể chữa trị
có hiệu quả trong một số trường hợp của FLS, do
bản chất phát triển tại chỗ của bệnh. Phẫu thuật
bóc tách khối u hoặc phẫu thuật bỏ mô hoại tử
có thể cần trong một số trường hợp bệnh nghiêm
trọng (nhiễm trùng NTM), nhưng sự bung chỉ vết
thương là một nguy cơ thường thấy ./
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh lao ở mèo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
88
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 4 - 2019
Mycobacteria là một nhóm vi khuẩn đặc
biệt với những tính chất đặc trưng, có khả năng
gây bệnh cho người và một số loài động vật.
Chúng là những trực khuẩn Gram dương, hiếu
khí, có lớp vỏ sáp dày và có tính kháng axit.
Họ vi khuẩn lao (Mycobacteriaceae) bao gồm
nhiều loài vi khuẩn gây bệnh và không gây
bệnh. Một số Mycobacteria có thể gây bệnh ở
động vật, là tác nhân gây bệnh nguyên phát,
hoặc trở thành vi khuẩn gây bệnh trong một số
hoàn cảnh nhất định.
I. CÁC LOẠI NHIỄM TRÙNG LAO
THƯỜNG GẶP Ở MÈO
Các bệnh nhiễm trùng do Mycobacterium
spp gây ra ở mèo có thể được chia thành
ba nhóm chính sau: (1) Phức hợp bệnh lao
(Tuberculosis complex: TB complex) là dạng
bệnh hình thành những u hạt (granuloma)
trong cơ thể (2) Hội chứng hủi/phong/ cùi
(Feline leprosy syndrome: FLS) tạo các u
hạt trên da và (3) Nhiễm vi khuẩn lao không
điển hình (Nontuberculous hoặc atypical
Mycobacteria: NTM) thường gây nhiễm ở các
tổ chức dưới da.
1.1. Phức hợp bệnh lao
TB complex do các vi khuẩn M. bovis
và M. microti gây ra, M. tuberculosis hiếm
khi gây nhiễm ở mèo. Các nhiễm trùng do
M. bovis và M. microti có thể phổ biến ở
mèo trong khu vực bệnh lao đang lưu hành.
Số liệu của VLA (Veterinary Laboratories
Agency) cho thấy 337 mẫu bệnh phẩm mèo
đương tính Ziehl-Neelsen nhận được trong
khoảng thời gian 2005-2007 có M. microti
19%, M. bovis 12%, M. avium (MAC) 7%,
M. malmonoense 1%, mycobacterium chưa
phân loại 4%, và nuôi cấy âm tính chiếm
55%.
Các yếu tố nguy cơ bao gồm tiếp xúc với
vật chủ lưu nhiễm (ví dụ: nhiều loài gậm
nhấm nhỏ thuộc họ Cricetidae) hoặc môi
trường bị ô nhiễm (bởi một số loài ăn thịt
nhỏ thuộc họ Mustelidae). Một số trường
hợp liên quan nhiễm trùng trực tiếp từ bò sữa
do uống sữa bò mắc bệnh lao dẫn tới mắc
bệnh lao ruột rất điển hình.
Mèo là một vật chủ truyền lây, nhưng
nguy cơ lây truyền từ mèo sang người được
coi là rất thấp.
1.2. Hội chứng phong/hủi
FLS chủ yếu do M. lepraemurium gây ra. Vi
khuẩn này không thể nuôi cấy được với các kỹ
thuật nuôi cấy thông thường. Các yếu tố nguy
cơ bao gồm tiếp xúc với loài gặm nhấm nhỏ.
Tiềm năng truyền lây bệnh này từ mèo sang
người là không đáng kể.
1.3. Nhiễm trùng lao không điển hình
NTM có thể được gây ra bởi một số lượng
lớn các loài vi khuẩn lao hoại sinh có mặt trong
môi trường. Nhóm NTB bao gồm M. avium, M.
chelonae-abscessus, M. fortuitum / peregrinum
group, M. smegmatis và M. phlei. Một số NTB
khác cũng có thể gây bệnh ở mèo như M.
genavense, M. simiae, M. thermoresistible, M.
flavescens, M. xenopi, M. malmoense, M. alvei
và M. terrae complex.
Trong những loài này, chỉ có M. avium có khả
năng truyền lây được sang người, đặc biệt là ở
những người có triệu chứng suy giảm miễn dịch.
1.4. Các nguy cơ nhiễm trùng lao
Các yếu tố nguy cơ chính là: lối sống ngoài
trời, sống trong khu vực lưu hành các loài
vi khuẩn lao và thường tiếp xúc với những
loài gặm nhấm nhỏ (do tập quán săn bắt).
BEÄNH LAO ÔÛ MEØO
Trần Đình Từ
Hội Thú y Việt Nam
89
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 4 - 2019
Nhiều trường hợp nhiễm bệnh được báo cáo
ở mèo có năng lực miễn dịch, nhưng một số
trường hợp nhiễm M. avium đã được báo cáo ở
mèo bị suy giảm miễn dịch. Mèo Xiêm và mèo
Abyssinian có thể dễ bị nhiễm M. avium.
Nhiễm trùng thường bắt đầu ở da (do các động
vật gặm nhấm cắn hoặc nhiễm bẩn vết thương) và
có thể lây lan vào bên trong hệ thống cơ thể. Nhiễm
trùng FLS hiếm khi trở thành một bệnh hệ thống.
Nhiễm trùng toàn thân (phổi, gan, hạch bạch
huyết, xương, mắt và thần kinh trung ương) mà
không có sự tham gia của lao da là rất hiếm, và
phần lớn là do các loài vi khuẩn lao phức tạp
(TB complex) hoặc M. avium complex gây ra.
II. DẤU HIỆU LÂM SÀNG
2.1. Tổn thương da
Xuất hiện nốt da đơn độc hoặc nhiều nốt da,
loét da và các mạch dẫn không lành, sưng hạch
bạch huyết vùng.
2.2. Viêm lớp mỡ dưới da (panniculitis) dạng
hạt lan rộng
Được thấy ở mèo nhiễm NTM hoặc bị vấy
nhiễm vết thương sau phẫu thuật.
2.3. Sốt, dấu hiệu hô hấp (ho, khó thở), viêm
màng bồ đào (uveitis), sưng đau nhiều cơ
quan, sưng các hạch bạch huyết, các dấu hiệu
đau xương và khó đi lại (lameness) có thể xảy
ra trong các trường hợp bệnh hệ thống
Khi bị nhiễm bệnh qua đường ăn uống các
thực phẩm nhiễm khuẩn (như uống sữa bò bị
nhiễm M.bovis chưa được thanh trùng) thì ruột
thường bị viêm u hạt dẫn tới tiêu chảy, nôn mữa,
giảm thể trọng. Nhiễm bệnh qua da (qua vết cắn
do săn bắt hoặc môi trường vấy nhiễm vi khuẩn)
thường xảy ra hơn. Trong trường hợp này, vết
thương không lành và trên da hình thành những
nốt sưng cứng gắn liền với sưng hạch lâm ba.
Trường hợp bệnh lan truyền vào phổi sẽ xuất hiện
các triệu chứng ho và khó thở tiến triển. Nhiễm
trùng toàn thân thường tiến triển chậm, mèo phát
triển chứng mệt mỏi, đờ đẫn và gầy mòn.
Nhiễm trùng lao thường phổ biến ở mèo đực
trưởng thành do hay săn bắt các động vật nhỏ
hơn. Vi khuẩn lao xâm nhập qua vết thương
thường ở vùng đầu, mặt và tứ chi. Sau khi bị
nhiễm trùng da vùng đầu, sưng hạch lâm ba dưới
cằm. Trong một số trường hợp, nhiễm trùng tại
chỗ có thể lan ra các tổ chức khác ở dưới da như
cơ và xương, dẫn tới đi lại khó khăn.
III. CHẨN ĐOÁN
3.1. Tổn thương da với biểu hiện viêm u hạt
khi khảo sát tế bào học hoặc mô bệnh học nên
được nghi ngờ là nhiễm khuẩn lao
3.2. Sử dụng phương pháp nhuộm kháng axit
(acid-fast) bằng thuốc nhuộm Ziehl-Neelsen
Phải được thực hiện trên tế bào học hoặc
mẫu mô học với những biến đổi u hạt.
- Sự hiện diện của vi khuẩn có tính kháng
axit có thể là mycobacteria. Tuy vậy, chưa có
thể nhận dạng được loài vi khuẩn lao gây bệnh.
- Sự vắng mặt của vi khuẩn có tính kháng
axit cũng không loại trừ nhiễm trùng vi khuẩn
lao. Các mẫu bệnh phẩm nên được gửi để nuôi
cấy và/hoặc thực hiện PCR cho các khảo sát
tiếp theo (giữ một số mẫu bệnh phẩm trong kho
đông lạnh vô trùng cho việc nuôi cấy vi khuẩn
lao, nếu cần).
Nuôi cấy trên những môi trường đặc hiệu cho
vi khuẩn lao (tại phòng thí nghiệm tham chiếu)
và thực hiện phản ứng PCR và giải trình tự DNA
từ những mẫu tươi mới là xét nghiệm chẩn đoán
được lựa chọn để khẳng định nhiễm trùng lao
và xác định loài mycobacteria. PCR cũng có thể
được thực hiện trên mẫu mô đã đúc paraffin.
Nghi ngờ nhiễm trùng lao dựa trên các biểu
hiện lâm sàng, nhưng các triệu chứng không phải
là những thông tin có ý nghĩa chẩn đoán bệnh lao
ở mèo. Chẩn đoaán X-quang được sử dụng để
xac định sự lan truyền của bệnh ở phổi, xương và
các cơ quan vùng bụng. Các xét nghiệm máu cho
thấy hiện tượng thiếu máu và tăng canxi-huyết.
Xét nghiệm da tuberculin được coi là không đáng
tin cậy ở mèo và không được sử dụng.
90
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 4 - 2019
IV. BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
1. Ở nhiều quốc gia, việc giết chết động
vật bị nhiễm bệnh một cách êm thấm/nhân đạo
(euthanasia) được khuyên dùng do có nguy cơ
truyền lây sang người, tiên lượng của bệnh cũng
như phụ thuộc vào loài vi khuẩn lao gây bệnh.
2. Tuân thủ điều trị và nguy cơ bệnh truyền
sang người nên được thảo luận với chủ sở hữu
trước khi điều trị, đặc biệt nếu có các thành viên
suy giảm miễn dịch trong hộ gia đình.
3. Sử dụng ống thông thực quản hoặc viên
nang gelatine để tạo điều kiện thuận lợi tuân thủ
quy trình điều trị.
4. Điều trị dựa trên sự kết hợp của hai hoặc
ba loại thuốc kháng sinh, thường là rifampicin,
cộng với một loại macrolide và fluoroquinolone.
Sự lựa chọn thuốc kháng sinh nên dựa trên loại
vi khuẩn mycobacteria hoặc xét nghiệm mức độ
nhạy cảm kháng sinh, nếu có thể.
5. Điều trị lâu dài (> 6 tháng) được khuyến
cáo, vì điều trị không đủ liệu trình sẽ dẫn đến
tái phát hoặc phát triển sự kháng thuốc của vi
khuẩn lao.
6. Phẫu thuật cắt bỏ các nốt lao có thể chữa trị
có hiệu quả trong một số trường hợp của FLS, do
bản chất phát triển tại chỗ của bệnh. Phẫu thuật
bóc tách khối u hoặc phẫu thuật bỏ mô hoại tử
có thể cần trong một số trường hợp bệnh nghiêm
trọng (nhiễm trùng NTM), nhưng sự bung chỉ vết
thương là một nguy cơ thường thấy ./.
CHÚ CHÓ DORADO
Ngày 11/9/2001, ông lão mù Omar Eduardo Rivera bị mắc kẹt vào một trong những tình
huống nguy hiểm nhất trên thế giới. Ông Rivera làm việc trên tầng 71 của tòa tháp Trung tâm
Thương mại Thế giới, và đến đây cùng
chú chó Dorado của mình như thường
lệ vào buổi sáng định mệnh đó.
Khi chiếc máy bay đầu tiên do bọn
khủng bố điều khiển đâm vào tòa tháp,
ông Rivera biết rằng mình đang lâm vào
vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Ông
nghĩ rằng một ông lão mù như mình
không thể nào chạy thoát được, thế nên
ông đã tháo dây cho chú chó Dorado và
ra lệnh cho chú chạy ra ngoài để sống sót.
Ban đầu chú chó này nghe theo mệnh
lệnh của chủ nhân, nhưng 10 phút sau,
ông Rivera cảm nhận thấy chú chó trung
thành đang cọ vào chân ông. Dorado đã quay trở lại cùng với chủ nhân đang gặp nạn, và với sự
trợ giúp của một đồng nghiệp của Rivera hướng dẫn ông mò mẫm đi xuống cầu thang thoát hiểm.
Họ phải mất hơn một giờ đồng hồ mới đi hết được 72 tầng cầu thang bộ và thoát ra ngoài
an toàn. Ngay khi họ vừa thoát ra, cả tòa tháp đổ ập xuống với hàng ngàn người mắc kẹt bên
trong. Ông Rivera khẳng định rằng chính chú chó trung thành Dorado đã cứu mạng ông.
Theo Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)
Dorado đã quay lại cứu chủ nhân bị mù đang gặp nạn
91
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 4 - 2019
PHÖÔNG PHAÙP MÔÙI CHAÅN ÑOAÙN XAÙC ÑÒNH NHANH BEÄNH DAÏI
Trần Đình Từ
Hội Thú y Việt Nam
Giữa năm 2018, CDC (Center for Disease
Control and Prevention, USA) công bố đã nghiên
cứu phát triển thành công một xét nghiệm mới
để chẩn đoán phát hiện bệnh dại.
Chẩn đoán phát hiện nhanh chóng và chính
xác bệnh dại là điều kiện tiên quyết trong điều
trị dự phòng sau phơi nhiễm ở người và kiểm
soát bệnh dại ở động vật. Hiện tại, chỉ có xét
nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA)
được WHO và OIE khuyến nghị sử dụng để
chẩn đoán bệnh dại.
Xét nghiệm mới này được thiết kế để sử dụng
trên động vật, có thể chẩn đoán bệnh dại dễ dàng
và chính xác hơn, theo một nghiên cứu được
công bố gần đây trên PLOS One. Xét nghiệm
LN34 đơn giản và dễ sử dụng hơn các xét nghiệm
hiện dùng. Trong quá trình nghiên cứu thí điểm,
phương pháp này không tạo âm tính giả, ít dương
tính giả hơn các xét nghiệm trước đây. Nó có thể
cho phép các bác sĩ và bệnh nhân đưa ra quyết
định sáng suốt hơn khi nào cần phải tiêm chủng
phòng bệnh dại, một bệnh gần như luôn luôn gây
tử vong một khi có triệu chứng xuất hiện.
Xét nghiệm LN34 có thể thực hiện trên các
thiết bị Real time RT-PCR được sử dụng rộng
rãi trong các phòng thí nghiệm ở Hoa Kỳ và
nhiều nước khác trên toàn thế giới mà không
cần đào tạo thêm nguồn nhân lực. Nó có thể
cho kết quả ngay cả khi mô não động vật đã
bị phân hủy. “Tiêu chuẩn vàng” hiện nay trong
chẩn đoán xét nghiệm bệnh dại ở động vật là
phương pháp kháng thể huỳnh quang trực tiếp
(DFA), chỉ có thể được đánh giá bởi các nhân
viên phòng thí nghiệm có kỹ năng chuyên môn
cao, được đào tạo chuyên sâu và cần phải có
kính hiển vi huỳnh quang.
Mặc dù RT-PCR được sử dụng rộng rãi để xác
định sự hiện diện của nhiều mầm bệnh virus, nhưng
chưa có xét nghiệm RT-PCR nào được chấp nhận
sử dụng trong chẩn đoán xác định bệnh dại. Các
chuyên gia ở CDC đã phát triển thành công một
kỹ thuật multiplex real-time RT-PCR phát hiện
được tất cả các loài lyssavirus. Kỹ thuật mới này
có tên là LN34 sử dụng kết hợp các cặp mồi thoái
hóa và đầu dò được sửa đổi để đạt được độ bao
phủ toàn bộ chi Lyssavirus trong khi vẫn duy trì
được độ nhậy và độ đặc hiệu của xét nghiệm. Các
mồi và đầu dò của xét nghiệm LN34 được thiết kế
nhằm bắt cặp vào vùng gene leader không mã hóa,
có độ bảo tồn cao và một phần của trình tự mã hóa
nucleoprotein (gene N) của bộ gene lyssavirus để
đảm bảo độ bền vững của xét nghiệm.
Xét nghiệm LN34 có thể phát hiện tất cả
các biến thể virus gây bệnh dại (RABV) và các
lyssavirus khác, phân lập từ hầu hết các khu
vực trên thế giới cũng như đại diện của 13 loài
Lyssavirus. Xét nghiệm LN34 cũng được sử
dụng thành công trong chẩn đoán trước và sau
chết của hơn 200 mẫu bệnh phẩm cũng như các
mẫu giám sát có nguồn gốc thực địa.
Trong một nghiên cứu gần đây triển khai tại
14 phòng thí nghiệm trên toàn cầu cùng tham
gia đánh giá gần 3.000 mẫu não động vật tiếp
nhận từ Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Phi và Châu
Á, trong đó hơn 1.000 trường hợp được biết
chắc chắn là bị nhiễm virus dại. Các mẫu này
đến từ hơn 60 loài động vật có vú nghi mắc
bệnh dại, bao gồm chó, gấu trúc, chồn hôi, cáo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
benh_lao_o_meo.pdf