Tôm chân trắng nuôi ao tại tỉnh Ninh Thuận
bị hội chứng gan tụy hoại tử với những dấu
hiệu bệnh thường được bắt gặp như: gan tụy teo
nhỏ, nhợt nhạt hoặc chuyển màu trắng đục, ruột
không có hoặc có ít thức ăn, tôm bỏ ăn hoặc
kém bắt mồi, vào bờ hoặc rớt đáy, chết từ rải rác
tới hàng loạt.
Kết quả nghiên cứu đã xác định được bệnh
lý rất rõ ràng ở tổ chức gan tụy, trong khi các cơ
quan khác ở tôm bệnh lại không có biểu hiện gì
bất thường. Những biến đổi bệnh lý trong mô và
tế bào tổ chức gan tụy được ghi nhận như: hoại
tử từ cục bộ đến diện rộng ở mô gan tụy, các
tế bào biểu mô bị hoại tử và bị bong tróc làm
cho các ống gan bị trống rỗng và teo nhỏ, nhiều
trường hợp các loại tế bào B, R và F biến mất,
các tế bào máu xâm nhập, chiếm chỗ và bao
vây xung quanh các ống gan đã hoại tử. Các tổn
thương nghiêm trọng ở gan tụy có thể là nguyên
nhân chính gây chết cho tôm bị bệnh này.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh lý của hội chứng hoại tư gan tụy hoại tử ở tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) nuôi tại Ninh Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
78
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
BEÄNH LYÙ CUÛA HOÄI CHÖÙNG HOAÏI TÖ GAN TUÏY HOAÏI TÖÛ ÔÛ TOÂM CHAÂN
TRAÉNG (LITOPENAEUS VANNAMEI) NUOÂI TAÏI NINH THUAÄN
Nguyễn Thị Thùy Giang, Phạm Quốc Hùng
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
TÓM TẮT
Tôm chân trắng nuôi thương phẩm tại tỉnh Ninh Thuận bị hội chứng hoại tử gan tụy với những
dấu hiệu bất thường như: gan tụy teo nhỏ, chai cứng, màu sắc gan tụy đen tối hoặc nhợt nhạt, ruột
rỗng, phân trắng Tôm bị bệnh có thể chết từ rải rác đến hàng loạt, điều này gây ra những tổn thất
lớn cho người nuôi tôm. Nghiên cứu mô bệnh học được tiến hành trên 40 mẫu tôm bị bệnh và 10
mẫu tôm khỏe được thu từ các ao nuôi trong tỉnh Ninh Thuận. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô gan
tụy của tôm bệnh bị hoại tử nghiêm trọng, thể hiện những dấu hiệu bệnh lý rất rõ ràng và đa dạng tùy
vào giai đoạn và mức độ nặng nhẹ của bệnh. Sự hoại tử và biến dạng của tế bào và ống mô gan tụy
có thể diễn ra ở từng vùng hoặc toàn bộ gan tụy. Sự biến mất của các tế bào B và R ở ống mô gan tụy
là một đặc điểm điển hình được ghi nhận. Các tế bào biểu mô gan tụy có hiện tượng bong tróc và rơi
vào bên trong ống mô gan. Sự hoại tử và biến mất của các tế bào biểu mô gan tụy đã để lại những
ống gan tụy trống rỗng và sự biến dạng về cấu trúc của toàn bộ gan tụy. Đồng thời, đã quan sát thấy
sự xâm nhập và bao quanh của tác tế bào máu tại các vùng mô bị thương tổn và các ổ viêm. Không
tìm thấy sự biến đổi bất thường ở các cơ quan khác của tôm. Do đó, sự tổn thương nghiêm trọng ở tổ
chức gan tụy của tôm có thể là nguyên nhân gây chết tôm. Không phát hiện được thể vùi của virus
ở biểu mô gan tụy của các mẫu tôm bị bệnh này.
Từ khóa: Mô bệnh học, Tôm chân trắng, Hội chứng hoại tử gan tụy, Ninh Thuận
Pathological features of hepatopancreas necrosis syndrome in
farmed white-leg shrimp (Litopenaeus vannamei) in Ninh Thuan province
Nguyen Thi Thuy Giang, Pham Quoc Hung
SUMMARY
The farmed white leg shrimp in Ninh Thuan province was died with the un-normal clinic signs
such as: empty gut, anorexia, pale, white feces. The shrimp mortality rate could be up to 100%,
this caused the heavy loss for the shrimp farmers. Histological study was conducted on 40
diseased and 10 healthy shrimps in order to identify the pathological signs. The studied result
showed that severe necrosis inside hepatopancreas was noted in all of the diseased shrimps
with the clearly biological signs basing on the diseased stage and level. The abnormalities of
hepatopancreas such as: disappearance of the hepatic cells: type B, F and R, sloughing of
the epithelial cells, gathering of the blood cells surrounding the lesions and inflammation areas
were observed. The abnormalities were not found in other organs of the diseased shrimps. The
serious lesions in hepatopancreas could be the cause of mortality. Inclusion body was not found
in the epithelial cells of hepatopancreas of the diseased shrimps.
Keywords: Histopathology, Litopenaeus vannamei, Hepatopancreatic necrosis syndrome,
Ninh Thuan province
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng hoại tử gan tụy thường gây chết
từ rải rác đến hàng loạt ở tôm chân trắng nuôi
thương phẩm tại Ninh Thuận, với những dấu
hiệu bệnh lý được thể hiện ở cơ quan gan tụy
và tuyến tiêu hóa như: teo nhỏ, chai cứng, đen
tối, nhợt nhạt, phù nề, mềm nhũn, ruột rỗng
79
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu
những biểu hiện bệnh lý ở bên ngoài và biến
đổi bệnh lý ở cấp độ tế bào và mô trong tổ chức
gan tụy ở tôm bị bệnh. Kết quả của nghiên cứu
có thể hỗ trợ trong việc xác định tác nhân gây
bệnh, từ đó làm cơ sở để tìm ra những biện pháp
ngăn ngừa và phòng trị bệnh hiệu quả.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu
Bằng phương pháp thu mẫu chọn lọc, 40
mẫu tôm chân trắng (25-30 con/mẫu) bị hội
chứng gan tụy được thu từ 40 ao đang bị bệnh
tại Ninh Thuận cùng với 10 mẫu tôm khỏe
không có dấu hiệu bệnh gan tụy. Khi thu mẫu,
lựa chọn các con tôm bị bệnh đã có bộc lộ dấu
hiệu bất thường: lờ đờ, màu sắc cơ thể thay đổi,
bỏ ăn, ruột rỗng, gan tụy biến đổi về hình dạng
và màu sắc, nhưng vẫn còn sống. 2-3 ml dung
dịch Davidson (cồn 95%: 330 ml, formol 40%:
220 ml, acid acetic: 115 ml và nước cất 335 ml)
được tiêm vào phần đầu ngực của mỗi con tôm,
sau đó dùng dao cắt bỏ đi phần bụng, đưa phần
đầu ngực vào cố định trong dung dịch David-
son (tỷ lệ 1/10 về thể tích). Sau 24-36 h, chuyển
mẫu sang bảo quản bằng cồn etylic 70% dùng
cho phân tích bằng phương pháp mô bệnh học.
Các mẫu tôm khỏe (20 con tôm/mẫu) chưa bộc
lộ bệnh lý cũng đã được thu dùng cho các phân
tích đối chứng so sánh với mẫu bệnh.
2.2 Phương pháp nghiên cứu mô bệnh học
Phương pháp mô bệnh học ứng dụng cho
động vật giáp xác được giới thiệu bởi Lightner,
1996 đã được sử dụng trong nghiên cứu này để
xác định các biến đổi bệnh lý ở mô và tế bào
gan tụy của tôm bệnh. So sánh các bệnh lý này
với mô của tôm khỏe và các biến đổi đặc trưng
ở gan tụy của tôm bị các loại bệnh khác nhau đã
được công bố bởi nhiều tác giả (Lightner, 1996;
Hasson et al., 2009; Lightner et al., 2012; Tran
Loc et al., 2013; Flegel & Lo, 2014; Joshi et al.,
2014 và Nunan et al., 2014). Các bước tiến hành
được mô tả trong hình 1.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
THẢO LUẬN
3.1 Dấu hiệu chính của bệnh
Hội chứng gan tụy hoại tử xuất hiện khá phổ
biến ở vùng nuôi tôm của Ninh Thuận và cũng là
nguyên nhân gây thất thu cho nhiều hộ nuôi tôm
ở địa phương này trong vài năm gần đây. Khi
gặp vấn đề về gan tụy, tôm chân trắng thường
bộc lộ một số dấu hiệu bất thường như: kém bắt
mồi, bỏ ăn nên đường ruột không có hoặc đứt
đoạn, tổ chức gan tụy chuyển màu trắng nhợt,
khối gan tụy bị teo nhỏ, chai cứng hoặc hoại
tử, tôm bệnh thường chết rải rác hoặc chết hàng
loạt tùy theo từng ao (hình 2). Bệnh gặp nhiều ở
tôm nuôi tháng đầu sau khi thả giống, tuy nhiên
cũng có một số ao xuất hiện bệnh muộn hơn,
xảy ra vào cuối tháng nuôi thứ 2.
Hình 1. Quy trình làm tiêu bản mô bệnh học
80
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
3.2 Các biến đổi bệnh lý ở mô và tế bào gan
tụy
Tổ chức gan tụy giữ vai trò quan trọng trong
việc duy trì sự sống của tôm chân trắng: tiêu hóa
thức ăn để duy trì sự sống, giải độc để bảo vệ
cơ thể Do vậy, những thương tổn ở tổ chức
này, có thể do virus, vi khuẩn, ký sinh trùng
hoặc độc tố, đều có thể ảnh hưởng tới sự sống
còn của tôm. Khi tôm chân trắng bị hội chứng
gan tụy hoại tử, bệnh lý trong mô và tế bào thể
hiện rõ rệt ở tổ chức gan tụy của tôm bệnh.
3.2.1 Mô học của tổ chức gan tụy ở tôm he
bình thường
Tổ chức gan tụy của tôm he nằm ở phần đầu
ngực, có hình dạng quả dâu tây và chiếm thể
tích đáng kể của phần đầu này. Ở trạng thái bình
thường, tổ chức gan tụy của tôm he có màu nâu
hơi vàng. Gan tụy được tạo nên bởi các biểu mô
dạng hình ống và mô liên kết nối các ống gan lại
tạo nên sự chặt chẽ trong tổ chức gan tụy. Biểu
mô hình ống của tổ chức gan tụy được tạo nên
bới một số loại tế bào: tế bào B có chức năng
tiết ra men tiêu hóa, tế bào R có chức năng dự
trữ, tế bào F có chức năng chuyển tiếp và tế bào
E tập trung ở các đầu mút của biểu mô dạng ống
(Flegel, 2006) (Hình 3).
Ruột rỗng hoặc chỉ có ít thức ăn. Gan tụy teo nhỏ, nhợt nhạt, mất dần sắc tố nâu vàng, chuyển mầu trắng
Hình 2. Hội chứng hoại tử gan tụy ở tôm chân trắng
Biểu mô gan tụy bình thường cắt ngang Biểu mô gan tụy bình thường cắt dọc
Hình 3. Cấu trúc mô và tế bào của gan tụy của tôm chân trắng bình thường
3.2.2 Bệnh lý trong mô và tế bào ở gan tụy của
tôm bị hội chứng gan tụy
100% các mẫu tôm bị hội chứng gan tụy (40
mẫu) đều thể hiện sự bất thường trong mô và tế
bào của tổ chức gan tụy. Mô gan tụy của tôm bị
bệnh thể hiện những dấu hiệu bệnh lý rất rõ ràng
81
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
và đa dạng tùy vào giai đoạn và mức độ nặng
nhẹ của bệnh. Các dạng biến đổi bệnh lý ở mô
và tế bào gan tụy được quan sát và mô tả trong
các hình 4-8.
Trong khi bệnh lý thể hiện nghiêm trọng ở
các biểu mô hình ống của gan tụy, thì các tổ
chức khác như: mang, dạ dày, ruột, cơ quan
lympho, cơ đều không thể hiện sự bất thường
nào. Điều này chứng tỏ rằng, các thương tổn
nặng nề ở gan tụy chính là nguyên nhân gây
chết cho tôm . Sự hoại tử ở cơ quan gan tụy là
một đặc điểm bệnh lý quan trọng được tìm thấy
ở tất cả các mẫu tôm bệnh thu được. Sự hoại tử
được quan sát thấy ở nhiều mức độ khác nhau:
từ cục bộ cho đến toàn bộ cơ quan.
Hình 4 thể hiện sự hoại tử cục bộ được quan
sát thấy ở một vài vị trí trong gan tụy, trong khi
các vùng gan tụy khác vẫn bình thường. Tại các
vùng bị thương tổn, các tế bào biểu mô bị bong
tróc, không tìm thấy các loại tế bào F, B và R;
hoặc một vài ống gan liền kề tại đó bị rỗng. Có
thể có hoặc không có sự tấn công của các tế bào
máu.
Hoại tử xảy ra ở đầu mút của vài biểu mô
hình ống, tại đó có sự bong tróc của các tế
bào, sự biến mất tế bào B và F, không có
tế bào máu tấn công (mũi tên trên) hoặc
có sự tấn công của tế bào máu (mũi tên
dưới)
Một vài biểu mô hình ống không còn
cấu trúc tế bào và các tế bào máu bao
quanh các vị trí này
Hình 4. Mô gan tụy bị hoại tử cục bộ (H&E, 200x)
Sự hoại tử nghiêm trọng ở tổ chức gan tụy
với các mức độ bệnh lý khác nhau: các ống gan
co nhỏ thể hiện sự viêm teo; các tế bào biểu mô
bị bong tróc hàng loạt và rơi vào khoảng rỗng
của ống gan; các tế bào biểu mô của ống gan
biến mất, không còn quan sát được các loại tế
bào B, R và F, để lại hàng loạt các biểu mô hình
ống bị trống rỗng; có sự xâm nhập của rất nhiều,
nhiều hoặc ít các tế bào máu, chiếm chỗ ở các
mô liên kết, bao vây xung quanh ống gan tụy bị
hoại tử (hình 5, 6, 7, 8).
Kết quả nghiên cứu về biến đổi bệnh lý trong
mô và tế bào ở tổ chức gan tụy của tôm chân
trắng bị hội chứng hoại tử gan tụy, đã thể hiện
nhiều dạng biến đổi bệnh lý và tất cả chúng đều
cho thấy có liên quan tới vi khuẩn hoặc độc lực
của vi khuẩn. Không phát hiện được thể vùi của
virus ở biểu mô gan tụy trong các mẫu tôm này.
Sự thoái hóa và hoại tử của biểu mô gan tụy đã
thể hiện khá đa dạng, từ nhẹ đến nặng, từ hoại
tử cục bộ một vài điểm (hình 4), tới toàn bộ mặt
cắt của gan tụy (hình 5, 6, 7 và 8).
82
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Ở các mẫu tôm bệnh nặng, biểu mô hình ống
của gan tụy đã bị hoại tử nghiêm trọng, làm biến
mất cấu trúc bình thường của tổ chức này, làm
các tế bào biểu mô bị bong tróc khỏi thành của
các ống gan, nặng hơn thì tạo thành các biểu mô
hình ống bị rỗng (hình 5 và 6).
Khối gan tụy với các biểu mô hình ống bị hoại tử nghiêm trọng tạo thành các ống rỗng, không
quan sát thấy các loại tế bào B, F và R. Các tế bào E có nhân bị phình to, không quan sát thấy
phản ứng viêm (H&E).
1. Lát cắt ngang của khối gan tụy có các biểu mô hình ống bị rỗng, hoại tử nghiêm trọng (200x)
2. Lát cắt ngang thể hiện các nhân tế bào E bị phì đại (400x)
3. Lát cắt dọc của khối gan tụy có các biểu mô hình ống bị rỗng, hoại tử nặng (200x).
Hình 5. Mô gan tụy bị hoại tử nghiêm trọng
Các biểu mô hình ống của gan tụy bị thoái hóa nghiêm trọng trên diện rộng, gặp ở các vùng khác
nhau của gan tụy với một số ít tế bào máu xâm nhập. Các tế bào biểu mô bị thoái hóa, bong tróc
và rơi vào vùng rỗng của các biểu mô hình ống ở gan tụy.
Hình 6. Sự thoái hóa và bong tróc của các tế bào biểu mô gan tụy
Quan sát thấy có sự xâm nhập và bao vây của
các tế bào máu tại các ổ viêm, thể hiện phản
ứng miễn dịch của tôm với sự xâm nhập của tác
nhân bên ngoài (hình 7 và 8).
1 2
83
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Phản ứng viêm và sự xâm nhập dày đặc của
các tế bào máu vào mô liên kết và bao quanh
các ống biểu mô gan tụy thể hiện bệnh lý do sự
cảm nhiễm của tác nhân vi khuẩn. Sự biến mất
của các tế bào B và R ở ống mô gan tụy là một
đặc điểm được ghi nhận. Các tế bào biểu mô gan
tụy có hiện tượng bong tróc và rơi vào bên trong
ống mô gan. Sự hoại tử và biến dạng của tế bào
và ống mô gan tụy có thể được quan sát ở cục bộ
hoặc toàn bộ gan tụy. Ngoài ra, còn có thể quan
sát thấy sự hình thành các tế bào dạng sợi bao
quanh các ổ viêm, đây được xem là giai đoạn
cuối của phản ứng viêm. Sự hoại tử và biến mất
của các tế bào biểu mô gan tụy đã để lại những
ống gan tụy rỗng và sự biến dạng của cấu trúc
toàn thể cơ quan gan tụy. Sự tổn thương nghiêm
trọng về tổ chức mô và tế bào ở cơ quan gan
tụy chắc chắn đã ảnh hưởng đến chức năng hoạt
động của cơ quan này nói riêng và toàn bộ cơ
thể tôm nói chung.
Đặc điểm biến đổi bệnh lý xảy ra ở 40 mẫu
tôm chân trắng bị hoại tử gan tụy thu tại các ao
nuôi ở Ninh Thuận tương tự như những báo cáo
của nhiều tác giả trong và ngoài nước đã được
công bố gần đây về dịch bệnh hoại tử gan tụy
cấp hay hội chứng chết sớm EMS/AHPNS của
tôm he nuôi ở châu Á (Lightner et al., 2012, Loc
Tran et al., 2013, Joshi et al., 2012).
Sự biến mất của các tế bào B, R và F, với sự xâm nhập chiếm chỗ của rất nhiều tế bào máu vào
vùng mô liên kết, bao vây các biểu mô hình ống. (H &E; trái: 200x & phải: 400x).
Hình 7. Sự xâm nhập và bao quanh của tế bào máu ở gan tụy tôm
Các loại tế bào biểu mô hình ống của gan tụy đều bị hoại tử, không còn quan sát thấy các loại tế
bào B, F và R. Nhiều lớp tế bào máu bao vây các ống gan đã bị hoại tử rỗng, tạo nên các ổ viêm.
Có sự xâm nhập của các tế bào vi khuẩn ở giữa các vùng viêm. Ngoài ra, còn có thể quan sát thấy
sự hình thành các tế bào dạng sợi bao quanh các ổ viêm, đây được xem là giai đoạn cuối của phản
ứng viêm.
Hình 8. Sự hình thành các ổ viêm ở gan tụy tôm
84
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Tôm chân trắng nuôi ao tại tỉnh Ninh Thuận
bị hội chứng gan tụy hoại tử với những dấu
hiệu bệnh thường được bắt gặp như: gan tụy teo
nhỏ, nhợt nhạt hoặc chuyển màu trắng đục, ruột
không có hoặc có ít thức ăn, tôm bỏ ăn hoặc
kém bắt mồi, vào bờ hoặc rớt đáy, chết từ rải rác
tới hàng loạt.
Kết quả nghiên cứu đã xác định được bệnh
lý rất rõ ràng ở tổ chức gan tụy, trong khi các cơ
quan khác ở tôm bệnh lại không có biểu hiện gì
bất thường. Những biến đổi bệnh lý trong mô và
tế bào tổ chức gan tụy được ghi nhận như: hoại
tử từ cục bộ đến diện rộng ở mô gan tụy, các
tế bào biểu mô bị hoại tử và bị bong tróc làm
cho các ống gan bị trống rỗng và teo nhỏ, nhiều
trường hợp các loại tế bào B, R và F biến mất,
các tế bào máu xâm nhập, chiếm chỗ và bao
vây xung quanh các ống gan đã hoại tử. Các tổn
thương nghiêm trọng ở gan tụy có thể là nguyên
nhân chính gây chết cho tôm bị bệnh này.
Những biến đổi bệnh lý thể hiện ở tổ chức
gan tụy đều cho thấy vi khuẩn hoặc độc tố của vi
khuẩn có liên quan tới hội chứng hoại tử gan tụy
của tôm chân trắng nuôi tại Ninh Thuận.
Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để xác định
chính xác tác nhân gây bệnh, độc lực của tác
nhân cũng như những giải pháp phòng trị bệnh
hiệu quả.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Sở KH&CN Tỉnh
Ninh Thuận đã hỗ trợ kinh phí để chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Flegel, TW. (2006). Detection of major
penaeid shrimp viruses in Asia, a histori-
cal perspective with emphasis on Thailand.
Aquaculture, 258, 1 - 33.
2. Flegel, T. W., & Lo, C.-F. (2014). Announce-
ment regarding free release of primers
for specific detection of bacterial isolates
that cause acute hepatopancreatic necrosis
disease (ahpnd). doi:
modules/news/article.php?article_id=2015
3. Hasson, K. W., Wyld, E. M., Fan, Y., Ling-
sweiller, S. W., Weaver, S. J., Cheng, J., &
Varner, P. W. (2009). Streptococcosis in
farmed litopenaeus vannamei: A new emerg-
ing bacterial disease of penaeid shrimp. Dis
Aquat Organ, 86(2), 93-106. doi: 10.3354/
dao020132
4. Joshi, J., Srisala, J., Sakaew, W., Prachum-
wat, A., Sritunyalucksana, K., Flegel, T. W.,
& Thitamadee, S. (2014). Identification of
bacterial agent (s) for acute hepatopancreatic
necrosis syndrome, a new emerging shrimp.
Suranaree J. Sci. Technol. doi:
ac.th/e-journal/ Journal/pdf/140283.pdf.
5. Lightner, D. V. (1996). A handbook of
shrimp pathology and diagnostic procedures
for diseases of cultured penaeid shrimp:
World Aquaculture Society.
6. Lightner, D. V., Redman, R. M., Pantoja, C.
R., Noble, B. I., & Tran, L. (2012). Early
mortality syndrome affects shrimp in Asia.
Global Aquaculture Advocate Magazine, 40.
7. Nunan, L., Lightner, D., Pantoja, C., &
Gomez-Jimenez, S. (2014). Detection of
acute hepatopancreatic necrosis disease
(ahpnd) in Mexico. Dis Aquat Organ, 111(1),
81-86. doi: 10.3354/dao02776
8. Tran, L., Nunan, L., Redman, R. M., Moh-
ney, L. L., Pantoja, C. R., Fitzsimmons,
K., & Lightner, D. V. (2013). Determina-
tion of the infectious nature of the agent of
acute hepatopancreatic necrosis syndrome
affecting penaeid shrimp. Dis. Aquat. Organ,
105, 45-55.
Nhận ngày 26-10-2015
Phản biện ngày 20-11-2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- benh_ly_cua_hoi_chung_hoai_tu_gan_tuy_hoai_tu_o_tom_chan_tra.pdf