Tôm chân trắng nuôi ao tại tỉnh Ninh Thuận
bị hội chứng gan tụy hoại tử với những dấu
hiệu bệnh thường được bắt gặp như: gan tụy teo
nhỏ, nhợt nhạt hoặc chuyển màu trắng đục, ruột
không có hoặc có ít thức ăn, tôm bỏ ăn hoặc
kém bắt mồi, vào bờ hoặc rớt đáy, chết từ rải rác
tới hàng loạt.
Kết quả nghiên cứu đã xác định được bệnh
lý rất rõ ràng ở tổ chức gan tụy, trong khi các cơ
quan khác ở tôm bệnh lại không có biểu hiện gì
bất thường. Những biến đổi bệnh lý trong mô và
tế bào tổ chức gan tụy được ghi nhận như: hoại
tử từ cục bộ đến diện rộng ở mô gan tụy, các
tế bào biểu mô bị hoại tử và bị bong tróc làm
cho các ống gan bị trống rỗng và teo nhỏ, nhiều
trường hợp các loại tế bào B, R và F biến mất,
các tế bào máu xâm nhập, chiếm chỗ và bao
vây xung quanh các ống gan đã hoại tử. Các tổn
thương nghiêm trọng ở gan tụy có thể là nguyên
nhân chính gây chết cho tôm bị bệnh này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 605 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh lý của hội chứng hoại tư gan tụy hoại tử ở tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) nuôi tại Ninh Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
78
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
BEÄNH LYÙ CUÛA HOÄI CHÖÙNG HOAÏI TÖ GAN TUÏY HOAÏI TÖÛ ÔÛ TOÂM CHAÂN 
TRAÉNG (LITOPENAEUS VANNAMEI) NUOÂI TAÏI NINH THUAÄN
Nguyễn Thị Thùy Giang, Phạm Quốc Hùng
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
TÓM TẮT
Tôm chân trắng nuôi thương phẩm tại tỉnh Ninh Thuận bị hội chứng hoại tử gan tụy với những 
dấu hiệu bất thường như: gan tụy teo nhỏ, chai cứng, màu sắc gan tụy đen tối hoặc nhợt nhạt, ruột 
rỗng, phân trắng Tôm bị bệnh có thể chết từ rải rác đến hàng loạt, điều này gây ra những tổn thất 
lớn cho người nuôi tôm. Nghiên cứu mô bệnh học được tiến hành trên 40 mẫu tôm bị bệnh và 10 
mẫu tôm khỏe được thu từ các ao nuôi trong tỉnh Ninh Thuận. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô gan 
tụy của tôm bệnh bị hoại tử nghiêm trọng, thể hiện những dấu hiệu bệnh lý rất rõ ràng và đa dạng tùy 
vào giai đoạn và mức độ nặng nhẹ của bệnh. Sự hoại tử và biến dạng của tế bào và ống mô gan tụy 
có thể diễn ra ở từng vùng hoặc toàn bộ gan tụy. Sự biến mất của các tế bào B và R ở ống mô gan tụy 
là một đặc điểm điển hình được ghi nhận. Các tế bào biểu mô gan tụy có hiện tượng bong tróc và rơi 
vào bên trong ống mô gan. Sự hoại tử và biến mất của các tế bào biểu mô gan tụy đã để lại những 
ống gan tụy trống rỗng và sự biến dạng về cấu trúc của toàn bộ gan tụy. Đồng thời, đã quan sát thấy 
sự xâm nhập và bao quanh của tác tế bào máu tại các vùng mô bị thương tổn và các ổ viêm. Không 
tìm thấy sự biến đổi bất thường ở các cơ quan khác của tôm. Do đó, sự tổn thương nghiêm trọng ở tổ 
chức gan tụy của tôm có thể là nguyên nhân gây chết tôm. Không phát hiện được thể vùi của virus 
ở biểu mô gan tụy của các mẫu tôm bị bệnh này. 
Từ khóa: Mô bệnh học, Tôm chân trắng, Hội chứng hoại tử gan tụy, Ninh Thuận
Pathological features of hepatopancreas necrosis syndrome in 
farmed white-leg shrimp (Litopenaeus vannamei) in Ninh Thuan province
Nguyen Thi Thuy Giang, Pham Quoc Hung
SUMMARY
The farmed white leg shrimp in Ninh Thuan province was died with the un-normal clinic signs 
such as: empty gut, anorexia, pale, white feces. The shrimp mortality rate could be up to 100%, 
this caused the heavy loss for the shrimp farmers. Histological study was conducted on 40 
diseased and 10 healthy shrimps in order to identify the pathological signs. The studied result 
showed that severe necrosis inside hepatopancreas was noted in all of the diseased shrimps 
with the clearly biological signs basing on the diseased stage and level. The abnormalities of 
hepatopancreas such as: disappearance of the hepatic cells: type B, F and R, sloughing of 
the epithelial cells, gathering of the blood cells surrounding the lesions and inflammation areas 
were observed. The abnormalities were not found in other organs of the diseased shrimps. The 
serious lesions in hepatopancreas could be the cause of mortality. Inclusion body was not found 
in the epithelial cells of hepatopancreas of the diseased shrimps.
Keywords: Histopathology, Litopenaeus vannamei, Hepatopancreatic necrosis syndrome, 
Ninh Thuan province
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng hoại tử gan tụy thường gây chết 
từ rải rác đến hàng loạt ở tôm chân trắng nuôi 
thương phẩm tại Ninh Thuận, với những dấu 
hiệu bệnh lý được thể hiện ở cơ quan gan tụy 
và tuyến tiêu hóa như: teo nhỏ, chai cứng, đen 
tối, nhợt nhạt, phù nề, mềm nhũn, ruột rỗng 
79
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu 
những biểu hiện bệnh lý ở bên ngoài và biến 
đổi bệnh lý ở cấp độ tế bào và mô trong tổ chức 
gan tụy ở tôm bị bệnh. Kết quả của nghiên cứu 
có thể hỗ trợ trong việc xác định tác nhân gây 
bệnh, từ đó làm cơ sở để tìm ra những biện pháp 
ngăn ngừa và phòng trị bệnh hiệu quả. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu 
Bằng phương pháp thu mẫu chọn lọc, 40 
mẫu tôm chân trắng (25-30 con/mẫu) bị hội 
chứng gan tụy được thu từ 40 ao đang bị bệnh 
tại Ninh Thuận cùng với 10 mẫu tôm khỏe 
không có dấu hiệu bệnh gan tụy. Khi thu mẫu, 
lựa chọn các con tôm bị bệnh đã có bộc lộ dấu 
hiệu bất thường: lờ đờ, màu sắc cơ thể thay đổi, 
bỏ ăn, ruột rỗng, gan tụy biến đổi về hình dạng 
và màu sắc, nhưng vẫn còn sống. 2-3 ml dung 
dịch Davidson (cồn 95%: 330 ml, formol 40%: 
220 ml, acid acetic: 115 ml và nước cất 335 ml) 
được tiêm vào phần đầu ngực của mỗi con tôm, 
sau đó dùng dao cắt bỏ đi phần bụng, đưa phần 
đầu ngực vào cố định trong dung dịch David-
son (tỷ lệ 1/10 về thể tích). Sau 24-36 h, chuyển 
mẫu sang bảo quản bằng cồn etylic 70% dùng 
cho phân tích bằng phương pháp mô bệnh học. 
Các mẫu tôm khỏe (20 con tôm/mẫu) chưa bộc 
lộ bệnh lý cũng đã được thu dùng cho các phân 
tích đối chứng so sánh với mẫu bệnh. 
2.2 Phương pháp nghiên cứu mô bệnh học 
Phương pháp mô bệnh học ứng dụng cho 
động vật giáp xác được giới thiệu bởi Lightner, 
1996 đã được sử dụng trong nghiên cứu này để 
xác định các biến đổi bệnh lý ở mô và tế bào 
gan tụy của tôm bệnh. So sánh các bệnh lý này 
với mô của tôm khỏe và các biến đổi đặc trưng 
ở gan tụy của tôm bị các loại bệnh khác nhau đã 
được công bố bởi nhiều tác giả (Lightner, 1996; 
Hasson et al., 2009; Lightner et al., 2012; Tran 
Loc et al., 2013; Flegel & Lo, 2014; Joshi et al., 
2014 và Nunan et al., 2014). Các bước tiến hành 
được mô tả trong hình 1. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
THẢO LUẬN
3.1 Dấu hiệu chính của bệnh 
Hội chứng gan tụy hoại tử xuất hiện khá phổ 
biến ở vùng nuôi tôm của Ninh Thuận và cũng là 
nguyên nhân gây thất thu cho nhiều hộ nuôi tôm 
ở địa phương này trong vài năm gần đây. Khi 
gặp vấn đề về gan tụy, tôm chân trắng thường 
bộc lộ một số dấu hiệu bất thường như: kém bắt 
mồi, bỏ ăn nên đường ruột không có hoặc đứt 
đoạn, tổ chức gan tụy chuyển màu trắng nhợt, 
khối gan tụy bị teo nhỏ, chai cứng hoặc hoại 
tử, tôm bệnh thường chết rải rác hoặc chết hàng 
loạt tùy theo từng ao (hình 2). Bệnh gặp nhiều ở 
tôm nuôi tháng đầu sau khi thả giống, tuy nhiên 
cũng có một số ao xuất hiện bệnh muộn hơn, 
xảy ra vào cuối tháng nuôi thứ 2.
Hình 1. Quy trình làm tiêu bản mô bệnh học
80
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
3.2 Các biến đổi bệnh lý ở mô và tế bào gan 
tụy
Tổ chức gan tụy giữ vai trò quan trọng trong 
việc duy trì sự sống của tôm chân trắng: tiêu hóa 
thức ăn để duy trì sự sống, giải độc để bảo vệ 
cơ thể Do vậy, những thương tổn ở tổ chức 
này, có thể do virus, vi khuẩn, ký sinh trùng 
hoặc độc tố, đều có thể ảnh hưởng tới sự sống 
còn của tôm. Khi tôm chân trắng bị hội chứng 
gan tụy hoại tử, bệnh lý trong mô và tế bào thể 
hiện rõ rệt ở tổ chức gan tụy của tôm bệnh.
3.2.1 Mô học của tổ chức gan tụy ở tôm he 
bình thường
Tổ chức gan tụy của tôm he nằm ở phần đầu 
ngực, có hình dạng quả dâu tây và chiếm thể 
tích đáng kể của phần đầu này. Ở trạng thái bình 
thường, tổ chức gan tụy của tôm he có màu nâu 
hơi vàng. Gan tụy được tạo nên bởi các biểu mô 
dạng hình ống và mô liên kết nối các ống gan lại 
tạo nên sự chặt chẽ trong tổ chức gan tụy. Biểu 
mô hình ống của tổ chức gan tụy được tạo nên 
bới một số loại tế bào: tế bào B có chức năng 
tiết ra men tiêu hóa, tế bào R có chức năng dự 
trữ, tế bào F có chức năng chuyển tiếp và tế bào 
E tập trung ở các đầu mút của biểu mô dạng ống 
(Flegel, 2006) (Hình 3).
Ruột rỗng hoặc chỉ có ít thức ăn. Gan tụy teo nhỏ, nhợt nhạt, mất dần sắc tố nâu vàng, chuyển mầu trắng
Hình 2. Hội chứng hoại tử gan tụy ở tôm chân trắng
Biểu mô gan tụy bình thường cắt ngang Biểu mô gan tụy bình thường cắt dọc
Hình 3. Cấu trúc mô và tế bào của gan tụy của tôm chân trắng bình thường
 3.2.2 Bệnh lý trong mô và tế bào ở gan tụy của 
tôm bị hội chứng gan tụy
100% các mẫu tôm bị hội chứng gan tụy (40 
mẫu) đều thể hiện sự bất thường trong mô và tế 
bào của tổ chức gan tụy. Mô gan tụy của tôm bị 
bệnh thể hiện những dấu hiệu bệnh lý rất rõ ràng 
81
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
và đa dạng tùy vào giai đoạn và mức độ nặng 
nhẹ của bệnh. Các dạng biến đổi bệnh lý ở mô 
và tế bào gan tụy được quan sát và mô tả trong 
các hình 4-8. 
Trong khi bệnh lý thể hiện nghiêm trọng ở 
các biểu mô hình ống của gan tụy, thì các tổ 
chức khác như: mang, dạ dày, ruột, cơ quan 
lympho, cơ đều không thể hiện sự bất thường 
nào. Điều này chứng tỏ rằng, các thương tổn 
nặng nề ở gan tụy chính là nguyên nhân gây 
chết cho tôm . Sự hoại tử ở cơ quan gan tụy là 
một đặc điểm bệnh lý quan trọng được tìm thấy 
ở tất cả các mẫu tôm bệnh thu được. Sự hoại tử 
được quan sát thấy ở nhiều mức độ khác nhau: 
từ cục bộ cho đến toàn bộ cơ quan. 
Hình 4 thể hiện sự hoại tử cục bộ được quan 
sát thấy ở một vài vị trí trong gan tụy, trong khi 
các vùng gan tụy khác vẫn bình thường. Tại các 
vùng bị thương tổn, các tế bào biểu mô bị bong 
tróc, không tìm thấy các loại tế bào F, B và R; 
hoặc một vài ống gan liền kề tại đó bị rỗng. Có 
thể có hoặc không có sự tấn công của các tế bào 
máu. 
Hoại tử xảy ra ở đầu mút của vài biểu mô 
hình ống, tại đó có sự bong tróc của các tế 
bào, sự biến mất tế bào B và F, không có 
tế bào máu tấn công (mũi tên trên) hoặc 
có sự tấn công của tế bào máu (mũi tên 
dưới)
Một vài biểu mô hình ống không còn 
cấu trúc tế bào và các tế bào máu bao 
quanh các vị trí này
Hình 4. Mô gan tụy bị hoại tử cục bộ (H&E, 200x)
Sự hoại tử nghiêm trọng ở tổ chức gan tụy 
với các mức độ bệnh lý khác nhau: các ống gan 
co nhỏ thể hiện sự viêm teo; các tế bào biểu mô 
bị bong tróc hàng loạt và rơi vào khoảng rỗng 
của ống gan; các tế bào biểu mô của ống gan 
biến mất, không còn quan sát được các loại tế 
bào B, R và F, để lại hàng loạt các biểu mô hình 
ống bị trống rỗng; có sự xâm nhập của rất nhiều, 
nhiều hoặc ít các tế bào máu, chiếm chỗ ở các 
mô liên kết, bao vây xung quanh ống gan tụy bị 
hoại tử (hình 5, 6, 7, 8). 
Kết quả nghiên cứu về biến đổi bệnh lý trong 
mô và tế bào ở tổ chức gan tụy của tôm chân 
trắng bị hội chứng hoại tử gan tụy, đã thể hiện 
nhiều dạng biến đổi bệnh lý và tất cả chúng đều 
cho thấy có liên quan tới vi khuẩn hoặc độc lực 
của vi khuẩn. Không phát hiện được thể vùi của 
virus ở biểu mô gan tụy trong các mẫu tôm này. 
Sự thoái hóa và hoại tử của biểu mô gan tụy đã 
thể hiện khá đa dạng, từ nhẹ đến nặng, từ hoại 
tử cục bộ một vài điểm (hình 4), tới toàn bộ mặt 
cắt của gan tụy (hình 5, 6, 7 và 8). 
82
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Ở các mẫu tôm bệnh nặng, biểu mô hình ống 
của gan tụy đã bị hoại tử nghiêm trọng, làm biến 
mất cấu trúc bình thường của tổ chức này, làm 
các tế bào biểu mô bị bong tróc khỏi thành của 
các ống gan, nặng hơn thì tạo thành các biểu mô 
hình ống bị rỗng (hình 5 và 6). 
Khối gan tụy với các biểu mô hình ống bị hoại tử nghiêm trọng tạo thành các ống rỗng, không 
quan sát thấy các loại tế bào B, F và R. Các tế bào E có nhân bị phình to, không quan sát thấy 
phản ứng viêm (H&E).
1. Lát cắt ngang của khối gan tụy có các biểu mô hình ống bị rỗng, hoại tử nghiêm trọng (200x)
2. Lát cắt ngang thể hiện các nhân tế bào E bị phì đại (400x)
3. Lát cắt dọc của khối gan tụy có các biểu mô hình ống bị rỗng, hoại tử nặng (200x).
Hình 5. Mô gan tụy bị hoại tử nghiêm trọng
Các biểu mô hình ống của gan tụy bị thoái hóa nghiêm trọng trên diện rộng, gặp ở các vùng khác 
nhau của gan tụy với một số ít tế bào máu xâm nhập. Các tế bào biểu mô bị thoái hóa, bong tróc 
và rơi vào vùng rỗng của các biểu mô hình ống ở gan tụy.
Hình 6. Sự thoái hóa và bong tróc của các tế bào biểu mô gan tụy
Quan sát thấy có sự xâm nhập và bao vây của 
các tế bào máu tại các ổ viêm, thể hiện phản 
ứng miễn dịch của tôm với sự xâm nhập của tác 
nhân bên ngoài (hình 7 và 8). 
1 2
83
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
Phản ứng viêm và sự xâm nhập dày đặc của 
các tế bào máu vào mô liên kết và bao quanh 
các ống biểu mô gan tụy thể hiện bệnh lý do sự 
cảm nhiễm của tác nhân vi khuẩn. Sự biến mất 
của các tế bào B và R ở ống mô gan tụy là một 
đặc điểm được ghi nhận. Các tế bào biểu mô gan 
tụy có hiện tượng bong tróc và rơi vào bên trong 
ống mô gan. Sự hoại tử và biến dạng của tế bào 
và ống mô gan tụy có thể được quan sát ở cục bộ 
hoặc toàn bộ gan tụy. Ngoài ra, còn có thể quan 
sát thấy sự hình thành các tế bào dạng sợi bao 
quanh các ổ viêm, đây được xem là giai đoạn 
cuối của phản ứng viêm. Sự hoại tử và biến mất 
của các tế bào biểu mô gan tụy đã để lại những 
ống gan tụy rỗng và sự biến dạng của cấu trúc 
toàn thể cơ quan gan tụy. Sự tổn thương nghiêm 
trọng về tổ chức mô và tế bào ở cơ quan gan 
tụy chắc chắn đã ảnh hưởng đến chức năng hoạt 
động của cơ quan này nói riêng và toàn bộ cơ 
thể tôm nói chung.
Đặc điểm biến đổi bệnh lý xảy ra ở 40 mẫu 
tôm chân trắng bị hoại tử gan tụy thu tại các ao 
nuôi ở Ninh Thuận tương tự như những báo cáo 
của nhiều tác giả trong và ngoài nước đã được 
công bố gần đây về dịch bệnh hoại tử gan tụy 
cấp hay hội chứng chết sớm EMS/AHPNS của 
tôm he nuôi ở châu Á (Lightner et al., 2012, Loc 
Tran et al., 2013, Joshi et al., 2012). 
Sự biến mất của các tế bào B, R và F, với sự xâm nhập chiếm chỗ của rất nhiều tế bào máu vào 
vùng mô liên kết, bao vây các biểu mô hình ống. (H &E; trái: 200x & phải: 400x).
Hình 7. Sự xâm nhập và bao quanh của tế bào máu ở gan tụy tôm
Các loại tế bào biểu mô hình ống của gan tụy đều bị hoại tử, không còn quan sát thấy các loại tế 
bào B, F và R. Nhiều lớp tế bào máu bao vây các ống gan đã bị hoại tử rỗng, tạo nên các ổ viêm. 
Có sự xâm nhập của các tế bào vi khuẩn ở giữa các vùng viêm. Ngoài ra, còn có thể quan sát thấy 
sự hình thành các tế bào dạng sợi bao quanh các ổ viêm, đây được xem là giai đoạn cuối của phản 
ứng viêm. 
Hình 8. Sự hình thành các ổ viêm ở gan tụy tôm
84
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXIII SỐ 2 - 2016
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Tôm chân trắng nuôi ao tại tỉnh Ninh Thuận 
bị hội chứng gan tụy hoại tử với những dấu 
hiệu bệnh thường được bắt gặp như: gan tụy teo 
nhỏ, nhợt nhạt hoặc chuyển màu trắng đục, ruột 
không có hoặc có ít thức ăn, tôm bỏ ăn hoặc 
kém bắt mồi, vào bờ hoặc rớt đáy, chết từ rải rác 
tới hàng loạt. 
Kết quả nghiên cứu đã xác định được bệnh 
lý rất rõ ràng ở tổ chức gan tụy, trong khi các cơ 
quan khác ở tôm bệnh lại không có biểu hiện gì 
bất thường. Những biến đổi bệnh lý trong mô và 
tế bào tổ chức gan tụy được ghi nhận như: hoại 
tử từ cục bộ đến diện rộng ở mô gan tụy, các 
tế bào biểu mô bị hoại tử và bị bong tróc làm 
cho các ống gan bị trống rỗng và teo nhỏ, nhiều 
trường hợp các loại tế bào B, R và F biến mất, 
các tế bào máu xâm nhập, chiếm chỗ và bao 
vây xung quanh các ống gan đã hoại tử. Các tổn 
thương nghiêm trọng ở gan tụy có thể là nguyên 
nhân chính gây chết cho tôm bị bệnh này. 
Những biến đổi bệnh lý thể hiện ở tổ chức 
gan tụy đều cho thấy vi khuẩn hoặc độc tố của vi 
khuẩn có liên quan tới hội chứng hoại tử gan tụy 
của tôm chân trắng nuôi tại Ninh Thuận. 
Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để xác định 
chính xác tác nhân gây bệnh, độc lực của tác 
nhân cũng như những giải pháp phòng trị bệnh 
hiệu quả. 
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Sở KH&CN Tỉnh 
Ninh Thuận đã hỗ trợ kinh phí để chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Flegel, TW. (2006). Detection of major 
penaeid shrimp viruses in Asia, a histori-
cal perspective with emphasis on Thailand. 
Aquaculture, 258, 1 - 33. 
2. Flegel, T. W., & Lo, C.-F. (2014). Announce-
ment regarding free release of primers 
for specific detection of bacterial isolates 
that cause acute hepatopancreatic necrosis 
disease (ahpnd). doi: 
modules/news/article.php?article_id=2015
3. Hasson, K. W., Wyld, E. M., Fan, Y., Ling-
sweiller, S. W., Weaver, S. J., Cheng, J., & 
Varner, P. W. (2009). Streptococcosis in 
farmed litopenaeus vannamei: A new emerg-
ing bacterial disease of penaeid shrimp. Dis 
Aquat Organ, 86(2), 93-106. doi: 10.3354/
dao020132
4. Joshi, J., Srisala, J., Sakaew, W., Prachum-
wat, A., Sritunyalucksana, K., Flegel, T. W., 
& Thitamadee, S. (2014). Identification of 
bacterial agent (s) for acute hepatopancreatic 
necrosis syndrome, a new emerging shrimp. 
Suranaree J. Sci. Technol. doi: 
ac.th/e-journal/ Journal/pdf/140283.pdf. 
5. Lightner, D. V. (1996). A handbook of 
shrimp pathology and diagnostic procedures 
for diseases of cultured penaeid shrimp: 
World Aquaculture Society. 
6. Lightner, D. V., Redman, R. M., Pantoja, C. 
R., Noble, B. I., & Tran, L. (2012). Early 
mortality syndrome affects shrimp in Asia. 
Global Aquaculture Advocate Magazine, 40. 
7. Nunan, L., Lightner, D., Pantoja, C., & 
Gomez-Jimenez, S. (2014). Detection of 
acute hepatopancreatic necrosis disease 
(ahpnd) in Mexico. Dis Aquat Organ, 111(1), 
81-86. doi: 10.3354/dao02776
8. Tran, L., Nunan, L., Redman, R. M., Moh-
ney, L. L., Pantoja, C. R., Fitzsimmons, 
K., & Lightner, D. V. (2013). Determina-
tion of the infectious nature of the agent of 
acute hepatopancreatic necrosis syndrome 
affecting penaeid shrimp. Dis. Aquat. Organ, 
105, 45-55. 
Nhận ngày 26-10-2015
Phản biện ngày 20-11-2015
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 benh_ly_cua_hoi_chung_hoai_tu_gan_tuy_hoai_tu_o_tom_chan_tra.pdf benh_ly_cua_hoi_chung_hoai_tu_gan_tuy_hoai_tu_o_tom_chan_tra.pdf