Giải nghĩa phép biện chứng
Không có cái gì lại quá ngớ ngẩn hoặc nhảm nhí đến mức nó không
được một triết gia này hay khác xem xét, phát biểu.
Descartes
Câu đề dẫn trên có thể được khái quát hoá. Nó ứng nghiệm không chỉ cho các triết gia
và trong triết học, mà còn trong toàn bộ địa hạt tư tưởng và sự nghiệp của con người, cho cả
khoa học, công nghệ, kỹ nghệ, và chính trị. Thực ra, xu hướng muốn thử bất kỳ cái gì dù chỉ
một lần, theo gợi ý của câu đề dẫn, có thể còn được mở rộng sang một địa hạt rộng lớn hơn –
trong sự đa dạng muôn hình muôn vẻ đầy kỳ diệu được tạo ra bởi muôn loài trên hành tinh
của chúng ta.
Vì thế, nếu chúng ta muốn giải thích tại sao tư duy của con người lại luôn có xu hướng
thử đưa ra mọi giải pháp khả dĩ cho bất kỳ vấn đề nào mà nó phải đối mặt thì chúng ta có thể
phải trông đợi vào một loại thường hiện tổng quát hơn (a highly general sort of regularity).
Phương pháp nhằm đưa ra một giải pháp thường là giống nhau; đấy là phương pháp thử-sai
(the method of trial and error). Về cơ bản, đây cũng là phương pháp mà các tổ chức sinh vật
hữu cơ sử dụng trong quá trình thích nghi. Rõ ràng, sự thành công của phương pháp này phụ
thuộc nhiều vào số lượng và sự đa dạng của các phép thử: chúng ta thử càng nhiều thì chúng
ta càng có cơ hội thành công trong một lần thử nào đấy.
Chúng ta có thể xem phương pháp được sử dụng trong quá trình phát triển của tư duy
con người, và đặc biệt của triết học, là một biến thể đặc thù của phương pháp thử-sai. Người
ta có thiên hướng đối phó với một vấn đề hoặc bằng cách đưa ra một lý thuyết nào đó và bám
chặt vào nó đến chừng nào còn có thể (nếu lý thuyết đó tỏ ra sai người ta thậm chí còn dám
quên sinh vì nó thay vì từ bỏ nó1), hoặc bằng cách đấu tranh chống lại một lý thuyết như thế,
một khi người ta thấy những khiếm khuyết của nó. Cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ này, mà
hiển nhiên có thể diễn giải tường tận bằng phương pháp thử-sai, có vẻ như là nét đặc trưng
của bất kỳ cái gì dùng đề mô tả sự phát triển của tư duy con người. Ở những nơi điều này
không xảy ra, về cơ bản, là những trường hợp có một lý thuyết hay hệ thống tư tưởng nhất
định được duy trì một cách giáo điều xuyên suốt một thời gian dài; nhưng những trường hợp
Mục lục
Mục lục 2
Giải nghĩa phép biện chứng . 3
Phép biện chứng của Hegel 19
Biện chứng sau Hegel 28
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
36 trang | 
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2882 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biện chứng là gì?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết cho rằng các quan niệm trong giai đoạn khởi đầu có dạng giáo điều, sau đó có dạng bi 
quan, và chỉ sau đó mới đến giai đoạn thứ ba, giai đoạn tinh thần khoa học, tức tinh thần phê 
phán. Giống như các lý thuyết đó, phép biện chứng không phải là một ngoại lệ – trừ phi 
chúng ta cố áp đặt các diễn giải cho phép biện chứng – và giống như các lý thuyết đó, phép 
biện chứng không hề có chút đồng hao đặc biệt nào với logic học. 
Tính mơ hồ của phép biện chứng là một nguyên nhân khác khiến cho nó nguy hiểm. Nó 
khiến người ta thực sự dễ dàng đưa ra một diễn giải biện chứng cho tất cả các loại quá trình 
phát triển và cho những thứ hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta thấy một diễn giải 
biện chứng đồng nhất một hạt ngũ cốc với một chính đề, đồng nhất cái cây mà phát triển từ 
hạt đó với một phản đề, và đồng nhất tất cả các hạt mà kết trái từ cái cây đó là hợp đề. Hiển 
nhiên là, một ứng dụng kiểu như thế càng khiến cho tam đoạn biện chứng vốn đã rất mơ hồ 
trở nên ngày càng mơ hồ; nó dẫn tới một tình trạng tại đó việc mô tả một quá trình phát triển 
là một quá trình biện chứng truyền tải một nội dung không nhiều hơn việc chúng ta nói rằng 
đó là một quá trình phát triển theo các giai đoạn – một thông điệp không có nhiều nội dung 
lắm. Nhưng để lý giải sự phát triển này bằng cách nói rằng sự nảy mầm của cây là sự phủ 
định của hạt bởi vì hạt thôi không còn tồn tại khi cây bắt đầu mọc, và rằng sự sinh ra một lô 
các hạt mới từ cây là sự phủ định của phủ định – một sự khởi đầu mới ở mức độ cao hơn – 
hiển nhiên là một sự đùa nghịch đơn thuần với những con chữ. (Phải chăng đó là lý do tại sao 
Engels nhận xét về ví dụ này là bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể hiểu được?) 
18 
Các ví dụ tiêu biểu được các nhà biện chứng lấy từ lĩnh vực toán học thậm chí còn tồi tệ 
hơn. Hãy xem một ví dụ nổi tiếng của Engels, được Hecker9 tóm tắt như sau: “Qui luật về 
hợp đề ở bậc cao hơn… nói chung được sử dụng trong toán học. Số âm (-a) được nhân với 
chính nó trở thành a2, nghĩa là, sự phủ định của sự phủ định đã hoàn thành một hợp đề mới”. 
Nhưng ngay cả giả sử rằng a là một chính đề và -a là phản đề hoặc phủ định của nó, ai đó có 
thể kỳ vọng rằng sự phủ định của phủ định là -(-a), tức a, thứ chẳng phải là một hợp đề “bậc 
cao hơn” mà là đồng nhất với chính bản thân chính đề nguyên gốc. Nói cách khác, tại sao hợp 
đề nhận được lại chỉ bằng cách nhân với phản đề với chính nó? Tại sao lại không phải, ví dụ, 
là cộng chính đề với phản đề (mà sẽ thu được kết quả là 0)? Hoặc bằng cách nhân chính đề 
với phản đề (mà sẽ thu được –a2 thay vì là a2)? Và theo nghĩa nào thì a2 “cao” hơn a hay –a? 
(Tất nhiên không theo nghĩa lớn hơn về mặt số học, vì nếu a =1/2 thì a2 = 1/4). Ví dụ này cho 
thấy sự tùy tiện kinh khủng khi áp dụng các ý tưởng của phép biện chứng. 
Một lý thuyết như logic học có thể được gọi là “nền tảng” vì rằng, do nó là lý thuyết về 
tất cả các loại suy luận, nó được sử dụng mọi lúc trong tất cả các ngành khoa học. Chúng ta 
có thể nói rằng phép biện chứng được hiểu theo nghĩa mà chúng ta có thể áp dụng nó một 
cách có ý nghĩa không phải là một lý thuyết nền tảng mà chỉ đơn thuần là một lý thuyết có 
tính mô tả. Vì vậy, việc xem phép biện chứng như là một phần và phân nhánh của logic học, 
hoặc là cái gì khác đối lập với logic, là không phù hợp; nó đáng được xem là, chẳng hạn, lý 
thuyết về sự tiến hóa. Chỉ với cách nói lỏng lẻo, ẩn dụ, và mơ hồ như đã được chúng ta phê 
phán ở trên mới có thể khiến phép biện chứng có thể là cả hai: một lý thuyết mô tả các quá 
trình phát triển tiêu biểu nhất định và một lý thuyết nền tảng như logic học. 
Tất cả điều này đủ để tôi nghĩ rằng mọi người phải nên rất cẩn thận khi sử dụng từ “biện 
chứng”. Có lẽ, tốt nhất là không nên sử dụng nó một chút nào cả – chúng ta luôn có thể sử 
dụng thuật ngữ rõ ràng hơn: phương pháp thử-sai. Chúng ta có thể áp dụng nó chỉ cho một số 
trường hợp ngoại lệ khi không gây ra bất kỳ khả năng gây hiểu nhầm nào, và khi chúng ta đối 
diện với một quá trình phát triển của các lý thuyết mà đúng là diễn ra trên thực tế theo các lộ 
trình của một tam đoạn. 
9 Hecker, Moscow Dialogues, London, 1936, p. 99. Ví dụ được lấy từ Anti-Dühring của Engels. 
19 
Phép biện chứng của Hegel 
Ở phần trước tôi đã cố gắng phác họa nội dung của phép biện chứng theo một cách thức 
mà tôi hy vọng khiến nó trở nên có ý nghĩa, và mục đích của tôi không phải là hạ thấp giá trị 
của nó. Trong phác họa đó, phép biện chứng được trình bày như là một cách thức mô tả các 
quá trình phát triển; như là một trong nhiều cách thức, nó không có được tính chất nền tảng, 
mà chỉ đôi khi phù hợp. Đối lập với quan điểm này là một lý thuyết biện chứng đã được thiết 
lập, chẳng hạn bởi Hegel và trường phái của ông, vốn phóng đại tầm quan trọng của phép 
biện chứng, và dẫn đến sai lạc đầy nguy hiểm. 
Để làm cho phép biện chứng của Hegel trở nên có thể hiểu được chúng ta nên đề cập đôi 
chút tới một chương trong lịch sử triết học – theo ý kiến riêng của tôi thì đó không phải là 
một chương vẻ vang gì cho lắm. 
Một vấn đề trọng tâm trong lịch sử triết học hiện đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa 
duy lý Descartes (chủ yếu ở châu Âu lục địa) ở một bên, và chủ nghĩa thực nghiệm (chủ yếu 
ở Liên hiệp Anh) ở bên kia. Câu nói của Descartes mà tôi sử dụng làm đề dẫn ở đầu bài luận 
này theo cách hiểu mà tôi đã cố gắng trình bày không phải là theo chủ ý của Descartes, cha 
đẻ của trường phái duy lý. Nó không được chủ định để đóng vai trò như là một gợi mở rằng 
tâm trí con người phải thử mọi cách thức để đạt được cái gì đó – nghĩa là, đạt được một giải 
pháp hữu ích nhất định nào đó – mà chỉ là một phê phán đầy bực tức đối với những ai dám 
thử làm những thứ vô nghĩa như thế. Điều Descartes muốn nói, ý tưởng chính đằng sau câu 
nói đó, là: một triết gia thực thụ nên cẩn thận tránh các ý tưởng vô nghĩa và ngu ngốc. Để tìm 
ra chân giá trị anh ta chỉ được phép chấp nhận một số rất ít các ý tưởng, những ý tưởng thuyết 
phục được lý tính bằng sự sáng sủa của chúng, bằng sự mạch lạc và minh bạch của chúng, 
nói ngắn gọn, các ý tưởng “tự thân đã rõ ràng” (self-evident). Quan điểm của trường phái 
Descartes là: chúng ta có thể xây dựng được các lý thuyết khoa học có khả năng giải thích mà 
không cần phải trông cậy vào kinh nghiệm, tức là chỉ cần trông cậy vào việc sử dụng lý tính 
của chúng ta; vì rằng mọi định đề có khả năng lý giải (nghĩa là, một định đề phó thác chính 
nó cho tính sáng sủa của nó) phải là một mô tả chân thực các thực tế (facts). Đấy là một tóm 
lược cái lý thuyết mà lịch sử triết học gọi là “chủ nghĩa duy lý”. (Một cái tên tốt hơn có lẽ là 
“chủ nghĩa duy trí tuệ” (intellectualism)). Có thể tóm tắt lý thuyết đó (sử dụng một diễn ngôn 
được đưa ra mãi sau này bởi Hegel) trong vài từ: “cái gì mà có lý tất phải có thực”. 
20 
Đối lập với lý thuyết này, chủ nghĩa thực nghiệm cho rằng: chỉ kinh nghiệm mới cho 
phép chúng ta quyết định tính chân hoặc giả của một lý thuyết khoa học. Theo chủ nghĩa thực 
nghiệm, chỉ lý lẽ thuần túy không thôi không thể nào thiết lập được chân giá trị thực sự; 
chúng ta phải sử dụng quan sát và thí nghiệm. Có thể an toàn nói rằng, chủ nghĩa thực 
nghiệm, dưới hình thức này hay hình thức khác, dù đó có là một hình thức mới nhất và đã 
được điều chỉnh, là cách lý giải phương pháp nghiên cứu khoa học duy nhất còn được tiếp 
nhận nghiêm túc trong thời đại của chúng ta. Cuộc đấu tranh giữa trường phái duy lý và 
trường phái thực nghiệm thủa ban sơ đã được bàn đến kỹ lưỡng bởi Kant, người đã nỗ lực 
đưa ra cái mà một nhà biện chứng (nhưng không phải là Kant) có thể coi là một hợp đề của 
hai quan niệm đối lập, nhưng chính xác ra thì đó là một phiên bản của chủ nghĩa thực 
nghiệm. Mục tiêu chính của ông là bác bỏ chủ nghĩa duy lý thuần túy. Trong Critique of Pure 
Reason [Phê phán lý tính thuần túy – ND], Kant đã nhận định rằng phạm vi hiểu biết của 
chúng ta bị giới hạn bởi khung vực của kinh nghiệm khả thể, và rằng lý lẽ tư biện vượt quá 
khung vực này – nỗ lực để xây dựng một hệ thống siêu hình vượt ra ngoài lý tính thuần túy – 
không có bất kỳ cơ sở biện minh nào cả. Phê phán lý tính thuần túy này tựa như một gáo 
nước lạnh dội vào hy vọng của hầu hết các triết gia châu Âu lục địa; tuy thế các triết gia Đức 
đã hồi phục và, thay vì bị phản bác của Kant về siêu hình học thuyết phục, họ đã nhanh chóng 
xây dựng các hệ thống siêu hình mới dựa trên “trực giác trí tuệ” (intellectual intuition). Họ 
đã cố gắng sử dụng một số các yếu tố nhất định của hệ thống của Kant, nhờ đó hy vọng trốn 
tránh được đòn tấn công chính yếu trong phê phán của ông. Cái trường phái được xây dựng, 
thường được gọi là trường phái của các nhà duy tâm Đức, đã tích tụ tới đỉnh điểm trong 
Hegel. 
Có hai khía cạnh của triết học Hegel mà chúng ta phải xem xét – chủ nghĩa duy tâm và 
phép biện chứng của ông. Trong cả hai trường hợp Hegel đã chịu ảnh hưởng từ một số các ý 
tưởng của Kant, nhưng ông đã cố gắng tiến xa hơn. Do đó, để hiểu Hegel chúng ta phải chỉ ra 
lý thuyết của ông đã sử dụng những yếu tố nào của Kant. 
Kant đã khởi đầu từ thực tế rằng khoa học tồn tại. Ông muốn giải thích thực tế này; 
nghĩa là, ông muốn trả lời câu hỏi: “Khoa học có khả năng như thế nào?”, hoặc, “các tâm trí 
con người có khả năng gặt hái tri thức về thế giới như thế nào?”, hoặc, “tâm trí của chúng ta 
có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” (Chúng ta có lẽ nên gọi câu hỏi này là vấn đề nhận 
thức luận). 
Lý lẽ của ông về cơ bản như sau. Tâm trí có thể thấu hiểu thế giới, hay đúng hơn là thế 
giới như nó xuất hiện trước mắt chúng ta, bởi vì thế giới này không hoàn toàn khác biệt với 
21 
tâm trí – bởi vì nó tựa-như-tâm-trí (mind-like). Và nó là như thế, bởi vì trong quá trình tiếp 
nhận tri thức, thấu hiểu thế giới, tâm trí chủ động sàng lọc hấp thụ, nếu có thể nói vậy, tất cả 
mọi vật liệu đi vào nó qua các giác quan. Nó hình thành, nhào nặn vật liệu này; nó áp lên vật 
liệu đó các hình hài hoặc các qui luật từ trong nó – các hình hài và các qui luật của tư duy 
chúng ta. Cái chúng ta gọi là “tự nhiên” – thế giới tại đó chúng ta sống, thế giới như nó xuất 
hiện trước mắt chúng ta – đã là một thế giới được tinh lọc, một thế giới được tạo hình hài, bởi 
tâm trí của chúng ta. Và vì là nó được làm đồng dạng bởi tâm trí, nó tựa-như-tâm-trí. 
Câu trả lời, “Tâm trí có thể thấu hiểu thế giới bởi vì thế giới như nó xuất hiện trước mắt 
chúng ta tựa-như-tâm-trí” là một lý lẽ theo kiểu chủ nghĩa duy tâm; vì rằng chủ nghĩa duy 
tâm nhận định đơn giản là: thế giới có một cái gì đó mang đặc tính của tâm trí. 
 Ở đây tôi không có ý định lập luận ủng hộ hay phản bác lại cái nhận thức luận này của 
Kant và tôi không có ý định bàn thảo nó chi tiết. Nhưng tôi muốn chỉ ra rằng lý lẽ đó tất 
nhiên không duy tâm hoàn toàn. Nó là, như chính bản thân Kant chỉ ra, một sự pha tạp hoặc 
một hợp đề, một chút duy thực chủ nghĩa và một chút duy tâm chủ nghĩa – phần tử duy thực 
chủ nghĩa của nó là nhận định rằng thế giới, như nó xuất hiện trước mắt chúng ta, là một thứ 
vật chất gì đó được tạo hình hài bởi tâm trí chúng ta, trong khi ngược lại yếu tố duy tâm chủ 
nghĩa là nhận định rằng thế giới là một thứ vật chất gì đó được tạo hình hài bởi tâm trí chúng ta. 
Đấy là nhận thức luận tương đối trừu tượng nhưng tất nhiên lại đầy sáng tạo của Kant. 
Trước khi tôi chuyển sang Hegel, tôi cầu mong những độc giả (những người tôi ưa thích 
nhất), những người không phải là các triết gia và đã quen với việc trông cậy vào cảm nhận 
thông thường của mình để ghi nhớ cái câu tôi chọn làm câu đề dẫn cho bài luận này; vì rằng 
cái câu mà họ nếu nghe bây giờ có lẽ sẽ là một câu ngớ ngẩn - theo ý kiến của tôi thì đây là 
thái độ hoàn toàn đúng đắn. 
Như tôi đã nói, Hegel với chủ nghĩa duy tâm của mình đã đi xa hơn Kant. Hegel cũng 
quan tâm tới câu hỏi về nhận thức luận, “Các tâm trí của chúng ta có thể thấu hiểu thế giới 
như thế nào?” Cùng với các nhà duy tâm chủ nghĩa khác, ông trả lời: “Bởi vì thế giới tựa-
như-tâm-trí”. Nhưng lý thuyết của ông cực đoan hơn của Kant. Ông nói, “bởi vì tâm trí là thế 
giới”; hoặc dưới một dạng khác, “Bởi vì cái hữu lý là có thực; bởi vì thực tồn (reality) và lý 
tính là đồng nhất”. 
Đấy là cái được gọi là “triết lý về sự đồng nhất giữa lý tính và thực tồn” của Hegel, hoặc 
nói ngắn gọn, “triết lý về sự đồng nhất” của ông. Cần lưu ý rằng giữa các câu trả lời về nhận 
thức luận của Kant, “Bởi vì tâm trí tạo hình hài cho thế giới”, và triết lý về sự đồng nhất của 
22 
Hegel, “Bởi vì tâm trí là thế giới”, có một khoảng cách – đó là câu trả lời của Fichte, “Bởi vì 
tâm trí tạo ra thế giới”.10 
Triết lý về sự đồng nhất của Hegel, “Cái gì mà hữu lý là có thực, và cái gì mà có thực thì 
hữu lý; do vậy, lý tính và thực tồn là đồng nhất”, không nghi ngờ gì là một cố gắng hòng tái 
xác lập chủ nghĩa duy lý trên một nền móng mới. Nó đã cho phép triết gia xây dựng một lý 
thuyết về thế giới ngoài khuôn khổ của lý tính thuần tuý và để xác lập điều này thì đây phải là 
một lý thuyết đúng về thế giới thực. Do đó nó đã cho phép chính xác cái theo Kant là bất khả 
trở thành khả thể. Do đó, Hegel đã có khuynh hướng muốn bác bỏ các lý lẽ của Kant chống 
lại siêu hình. Ông đã tiến hành điều này với sự trợ giúp của phép biện chứng của ông. 
Để hiểu phép biện chứng của ông, một lần nữa chúng ta phải trở lại Kant. Để tránh quá 
chi tiết, tôi sẽ không bàn về việc xây dựng bảng tam phân các phạm trù của Kant, mặc dù 
không nghi ngờ gì rằng đây là cái đã truyền cảm hứng cho Hegel.11 Nhưng tôi phải đề cập tới 
phương pháp của Kant trong việc bác bỏ chủ nghĩa duy lý. Tôi đã đề cập ở trên rằng Kant đã 
khẳng định rằng phạm vi hiểu biết của chúng ta bị giới hạn bởi khung giới của kinh nghiệm 
khả thể và rằng lý lẽ thuần tuý vượt ra khỏi khung giới này không có cơ sở biện minh. Trong 
một phần của cuốn Critique mà ông đặt tiêu đề là “Phép biện chứng siêu nghiệm”, ông đã chỉ 
ra điều này như sau. Nếu chúng ta muốn xây dựng một hệ thống lý thuyết vượt ra khỏi lý tính 
thuần tuý – chẳng hạn, nếu chúng ta cố gắng lập luận rằng thế giới tại đó chúng ta sống là vô 
hạn (một ý tưởng hiển nhiên vượt ra khỏi phạm vi kinh nghiệm khả thể) – thì chúng ta có thể 
làm được việc đó; nhưng chúng ta sẽ lại thấy nhụt trí vì rằng chúng ta có thể luôn lập luận 
được, với sự trợ giúp của các lý lẽ tương tự, một kết quả đối lập. Nói cách khác, với một 
chính đề siêu hình như thế được cho trước, chúng ta luôn có thể xây dựng và bảo vệ được 
một phản đề hoàn toàn ngược lại; và với bất kỳ lý lẽ nào tán đồng chính đề, chúng ta có thể 
dễ dàng xây dựng được một lý lẽ đối lập với nó, tức tán đồng phản đề. Và cả hai lý lẽ đều 
mang trong mình một sức mạnh và độ thuyết phục tương tự nhau – cả hai lý lẽ đều có vẻ có 
lý ngang nhau, hoặc hầu như ngang nhau. Do vậy, Kant đã phát biểu, lý tính có xu hướng lập 
luận chống lại chính nó và mâu thuẫn với chính nó, trong trường hợp nó được sử dụng ngoài 
khung giới của kinh nghiệm khả thể. 
Nếu như tôi phải đưa ra một loại tái dựng hiện đại hoặc diễn giải lại Kant, chệch khỏi 
quan điểm của chính Kant về cái ông đã tiến hành, thì tôi sẽ nói rằng Kant đã chỉ ra được 
10 Câu trả lời này không phải là mới, bởi vì Kant đã cân nhắc đến nó trước đó; nhưng tất nhiên Kant đã bác bỏ 
nó. 
11 MacTaggart đã coi điểm này như là trọng tâm của tác phẩm hấp dẫn của ông Studies in Hegelian Dialectic. 
23 
rằng nguyên lý siêu hình về tính hữu lý hoặc tính đúng-tự-thân rõ ràng không dẫn đến một và 
chỉ một kết quả hay lý thuyết. Luôn có khả năng lập luận, với mức độ có lý dễ thấy tương tự, 
để bảo vệ một số các lý thuyết khác nhau, và thậm chí các lý thuyết đối lập nhau. Do vậy, nếu 
chúng ta không có sự trợ giúp từ kinh nghiệm, nếu chúng ta không thể tiến hành các thí 
nghiệm hoặc các quan sát để ít ra là loại trừ các lý thuyết nhất định – cụ thể là những lý 
thuyết mà dù là có vẻ hoàn toàn có lý, nhưng lại trái ngược với những thực tế quan sát được – 
thì chúng ta không có hy vọng giải quyết được các tranh chấp giữa các lý thuyết cạnh tranh 
lẫn nhau. 
Hegel đã vượt qua sự bác bỏ của Kant về chủ nghĩa duy lý như thế nào? Rất dễ dàng, 
bằng cách khẳng định là các mâu thuẫn không gây ra vấn đề gì cả. Chúng tất phải xuất hiện 
trong quá trình phát triển của tư duy và lý tính. Chúng chỉ phơi bày ra khiếm khuyết của lý 
thuyết mà không cân nhắc đến sự thực rằng tư duy, nghĩa là lý tính, và cùng với nó là thực 
tồn (theo triết lý về sự đồng nhất), không phải là một cái gì đó cố định muôn thủa, mà là đang 
phát triển – nghĩa là chúng ta sống trong một thế giới tiến hoá. Vì thế theo Hegel thì Kant đã 
bác bỏ siêu hình học chứ không bác bỏ chủ nghĩa duy lý. Vì rằng cái Hegel gọi là “siêu hình 
học”, như là thứ đối lập với “phép biện chứng”, chỉ là một hệ thống duy lý mà không xem xét 
đến yếu tố tiến hoá, vận động, phát triển, và do đó cố gắng hình dung thực tồn như là một cái 
gì đó ổn định, không vận động, và giải thoát khỏi các mâu thuẫn. Hegel, trong triết lý của ông 
về sự đồng nhất, luận giải rằng vì lý tính phát triển, thế giới phải phát triển, và vì sự phát triển 
của tư duy hoặc lý tính là một quá trình biện chứng, thế giới cũng phải phát triển theo các tam 
đoạn biện chứng. 
Do vậy, chúng ta tìm thấy ba hạt nhân trong phép biện chứng của Hegel như sau. 
(a) Một nỗ lực thoát khỏi sự bác bỏ của Kant về cái mà Kant gọi là “chủ nghĩa giáo điều” 
trong siêu hình học.Theo Hegel, sự bác bỏ này chỉ đúng đối với các hệ thống siêu hình học 
theo nghĩa hẹp hơn của ông, chứ không phải là đối với chủ nghĩa duy lý biện chứng, vốn xét 
đến sự phát triển của lý tính và do vậy không sợ các mâu thuẫn. Để thoát khỏi sự phê phán 
của Kant theo hướng này, Hegel dấn thân vào một hành trình cực kỳ nguy hiểm, tất dẫn đến 
thảm hoạ, do ông lập luận theo cách đại thể như sau: “Kant đã bác bỏ chủ nghĩa duy lý bằng 
cách nói rằng nó tất dẫn tới các mâu thuẫn. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng rõ ràng là lý lẽ này 
dựa trên sức mạnh của qui luật về mâu thuẫn: nó bác bỏ chỉ những hệ thống mà chấp nhận 
qui luật này, nghĩa là những hệ thống cố gắng giải thoát khỏi các mâu thuẫn. Nó không gây 
nguy hiểm cho một hệ thống như của tôi, vốn được tạo dựng để sống chung với mâu thuẫn – 
nghĩa là, nó không nguy hiểm đối với một hệ thống biện chứng”. Rõ ràng lý lẽ này dựng lên 
24 
một chủ nghĩa giáo điều thuộc loại cực kỳ nguy hiểm – một chủ nghĩa giáo điều không còn sợ 
hãi bất kỳ loại tấn công nào.Vì rằng bất kỳ cuộc tấn công nào, bất kỳ sự phê phán đối với một 
lý thuyết nào, đều phải dựa trên việc chỉ ra một loại mâu thuẫn nhất định nào đó, hoặc trong 
bản thân lý thuyết đó hoặc giữa lý thuyết với một số các thực tế, như tôi đã chỉ ra ở trên. Do 
đó, phương thuốc vượt qua Kant của Hegel có hiệu nghiệm, nhưng đáng tiếc là lại quá liều. 
Nó khiến cho hệ thống của ông được bảo vệ an toàn khỏi mọi loại phê phán hoặc tấn công và 
vì thế nó là giáo điều theo một nghĩa rất chi là đặc thù, đến mức tôi thấy cần phải đặt cho nó 
một cái tên: “chủ nghĩa giáo điều được gia cố” (reinforced dogmatisms). (Cần phải lưu ý rằng 
các chủ nghĩa giáo điều được gia cố cũng có tác dụng bổ trợ cho các cấu trúc của các hệ 
thống giáo điều tương tự khác). 
(b) Sự mô tả quá trình phát triển của lý tính như là một quá trình biện chứng là một hạt 
nhân đượm nhiều vẻ đáng tin cậy trong triết học của Hegel. Điều này trở nên rõ ràng nếu 
chúng ta nhớ lại rằng Hegel sử dụng từ “lý tính” không chỉ theo nghĩa chủ quan, để ám chỉ 
một năng lực tâm trí nhất định, mà còn theo nghĩa khách quan, để chỉ tất cả các loại lý thuyết, 
các loại tư tưởng, các loại ý tưởng, và v.v. Vì Hegel là người cho rằng triết học là biểu hiện 
cao nhất của lập luận, nên trong tâm trí ông, sự phát triển của lập luận đa phần là sự phát triển 
của tư duy triết học. Và thực sự thì hầu như không ở đâu tam đoạn biện chứng lại có thể 
thành công hơn khi được áp dụng vào việc nghiên cứu sự phát triển của các triết thuyết, và do 
đó không có gì ngạc nhiên khi công trình áp dụng thành công nhất của Hegel trong việc áp 
dụng phương pháp biện chứng là tác phẩm Lịch sử triết học của ông. 
Để hiểu được sự nguy hiểm gắn với một sự thành công như thế, chúng ta phải nhớ lại 
rằng trong thời đại của Hegel – và thậm chí mãi sau này – logic học thường được mô tả và 
định nghĩa như là lý thuyết về sự lập luận hoặc lý thuyết về quá trình tư duy, và tương ứng, 
các qui luật cơ bản của logic thường được gọi là “các qui luật của tư duy”. Do đó, hoàn toàn 
có thể hiểu được việc Hegel, người tin rằng phép biện chứng là một sự mô tả chân thực quá 
trình lập luận và tư duy trên thực tế của chúng ta, quả quyết rằng ông phải thay đổi logic học 
để sao cho phép biện chứng trở thành phần quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng 
nhất, của lý thuyết logic. Điều này tất dẫn đến việc phải loại bỏ “qui luật về mâu thuẫn”, thứ 
rõ ràng là một trở ngại khủng khiếp đối với việc chấp nhận phép biện chứng. Ở đây chúng ta 
bắt gặp nguồn gốc của quan điểm cho rằng phép biện chứng là “nền tảng” theo nghĩa nó có 
thể sánh ngang được với logic học, nó tiến bộ hơn hẳn logic học. Tôi đã phê phán cách nhìn 
nhận về biện chứng theo kiểu này, và tôi chỉ muốn nhắc lại rằng bất kỳ loại lập luận logic 
nào, bất kể là trước hay sau Hegel, và bất kể trong khoa học hay trong toán học hay trong bất 
25 
kỳ lĩnh vực triết học hữu lý thực sự nào, đều luôn dựa trên qui luật về mâu thuẫn. Nhưng 
Hegel lại viết (Logic, tiết 81, (1)): “Điều tối quan trọng là phải nắm vững và hiểu đúng đắn 
bản chất của Biện Chứng. Bất cứ ở đâu có sự vận động, bất cứ ở đâu có sự sống, bất cứ ở đâu 
có một cái gì đó gây ra ảnh hưởng đối với thế giới thực, thì ở đó có sự hiện diện của Biện 
Chứng. Nó cũng là linh hồn của mọi tri thức được xem là thực sự khoa học”. 
Nhưng nếu Hegel coi lập luận biện chứng là một lập luận loại bỏ qui luật về mâu thuẫn, 
thì dĩ nhiên ông sẽ không thể đưa ra được bất kỳ ví dụ nào về việc áp dụng lập luận kiểu đó 
trong khoa học. (Có nhiều ví dụ được các nhà biện chứng đưa ra nhưng đều không khá hơn 
các ví dụ của Engels đã được đề cập ở trên – về ngũ cốc và (-a)2 = a2). Bản thân lập luận khoa 
học không khi nào lại dựa trên phép biện chứng; chỉ có lịch sử và sự phát triển của các lý 
thuyết khoa học là có thể được mô tả ở một mức độ nhất định bằng phương pháp biện chứng. 
Như chúng ta đã biết, thực tế này không thể dùng để biện minh cho việc chấp nhận phép biện 
chứng như là một cái gì đó có tính nền tảng, bởi vì có thể giải thích được thực tế đó mà 
không cần phải ra ngoài khỏi phạm vi của logic thông thường nếu chúng ta nhớ lại sự vận 
hành của phương pháp thử-sai. 
Hiểm nguy chính của sự nhầm lẫn như thế giữa phép biện chứng và logic học là: như tôi 
đã nói, nó cho phép người ta lập luận một cách giáo điều. Vì rằng chúng ta quá thường xuyên 
bắt gặp những nhà biện chứng, khi gặp khó khăn về mặt logic, luôn nói với đối thủ của họ 
như là một phương sách cuối cùng rằng phê phán của [các đối thủ của] họ là sai bởi vì nó dựa 
trên logic thông thường thay vì dựa trên phép biện chứng; giá như họ chỉ sử dụng phép biện 
chứng, họ sẽ thấy rằng các mâu thuẫn mà họ đã phát hiện ra trong một số các lý lẽ nào đó của 
các nhà biện chứng là hoàn toàn hợp lệ (ấy là từ quan điểm biện chứng). 
(c) Hạt nhân thứ ba trong phép biện chứng của Hegel được dựa trên triết lý của ông về sự 
đồng nhất. Nếu lý tính và thực tồn là đồng nhất và lý tính phát triển một cách biện chứng 
(như được minh hoạ rất rõ ràng qua sự phát triển của tư tưởng triết học), thì thực tồn cũng 
phải phát triển một cách biện chứng. Thế giới phải bị trị vì bởi các qui luật của logic biện 
chứng. (Lập trường này được gọi là “thuyết phiếm logic” – panlogism). Do đó, chúng ta phải 
tìm thấy trên thế giới các mâu thuẫn giống như những mâu thuẫn được logic biện chứng chấp 
nhận. Điều này chính xác là vậy vì trên thực tế thế giới ngập tràn các mâu thuẫn, và đây cũng 
là một lý do nhìn từ một góc độ khác để loại bỏ qui luật về mâu thuẫn. Vì rằng qui luật này 
phát biểu rằng không có các định đề chứa mâu thuẫn nội tại, không có một cặp các định đề 
mâu thuẫn nhau nào lại có thể đúng được, nghĩa là, có thể tương ứng với các thực tế. Nói 
cách khác, qui luật này ngụ ý rằng một mâu thuẫn không khi nào có thể xảy ra trong thế giới 
26 
thực, nghĩa là trong thế giới của các thực tế (facts), và rằng các thực tế không khi nào lại mâu 
thuẫn lẫn nhau. Nhưng trên nền tảng của triết lý về sự đồng nhất giữa lý tính và thực tồn, 
người ta có thể nhận định rằng các thực tế có thể mâu thuẫn lẫn nhau do các ý tưởng có thể 
mâu thuẫn lẫn nhau và các thực tế phát triển thông qua các mâu thuẫn, giống như là sự phát 
triển của các ý tưởng; vì thế, qui luật về mâu thuẫn phải bị vứt bỏ. 
Tạm rời khỏi cái đối với tôi là sự ngớ ngẩn khủng khiếp của triết lý về sự đồng nhất 
(điều mà tôi sẽ nói đôi chút phía dưới đây), nếu chúng ta soi sét kỹ lưỡng hơn những thực tế 
mà được gọi là mâu thuẫn nhau, thì chúng ta thấy rằng tất cả các ví dụ mà các nhà biện chứng 
cung cấp chỉ chỉ ra rằng cái thế giới mà chúng ta sống đôi lúc thể hiện một cấu trúc nhất định, 
một cấu trúc mà có lẽ có thể được mô tả bằng từ “đối cực” (polarity). Một ví dụ của cấu trúc 
này có lẽ là sự tồn tại của điện dương và âm. Việc nói rằng, chẳng hạn, điện dương và điện 
âm mâu thuẫn lẫn nhau chỉ là một kiểu nói ẩn dụ và lỏng lẻo. Một ví dụ về một mâu thuẫn 
thực sự có lẽ là hai câu sau: “Vào ngày 1 tháng 11 năm 1938, trong khoảng từ 9 h tới 10h 
sáng, vật thể này ở chỗ này đã tích điện dương”, và một câu tương tự về cùng một vật thể, nói 
rằng đồng thời nó không bị nhiễm điện dương. 
Đấy có lẽ là một mâu thuẫn giữa hai câu và thực tế đối lập tương ứng có lẽ là sự thực 
rằng một vật thể, như là một tổng thể, tại cùng một thời điểm vừa nhiễm điện dương vừa 
không nhiễm điện dương, và do đó, tại cùng một thời điểm vừa hút và vừa không hút các vật 
thể bị nhiễm điện âm nhất định nào đó. Nhưng chúng ta không có quyền nói rằng các thực tế 
mâu thuẫn nhau như thế tồn tại. (Một phân tích sâu hơn có lẽ chỉ ra rằng sự không tồn tại của 
các thực tế như thế không phải là một qui luật giống như các qui luật vật lý, mà là qui luật được 
dựa trên logic học, nghĩa là, dựa trên các qui tắc chi phối việc sử dụng ngôn ngữ khoa học). 
Tóm lại, có ba điểm: (a) Sự đối lập của phép biện chứng với tư tưởng chống chủ nghĩa 
duy lý của Kant, và hệ quả là sự tái thiết lập chủ nghĩa duy lý được củng cố bởi một chủ 
nghĩa giáo điều được gia cố; (b) Việc lồng phép biện chứng vào logic học, được xây dựng 
dựa trên nền tảng về sự mơ hồ của các biểu ngữ như “lý tính”, “các qui luật về tư duy”, và 
v.v.; (c) Việc áp dụng phép biện chứng cho toàn bộ thế giới, dựa trên thuyết phiếm logic của 
Hegel và triết lý về sự đồng nhất của ông. Ba điểm này đối với tôi là ba hạt nhân chính của 
phép biện chứng Hegel. Trước khi tiếp tục khảo lược nghiệp chướng của phép biện chứng sau 
Hegel, tôi muốn bày tỏ ý kiến cá nhân của tôi về triết học của Hegel, và đặc biệt là triết lý của 
ông về sự đồng nhất. Tôi nghĩ nó là một lý thuyết tồi tệ nhất trong số tất cả các lý thuyết ngớ 
ngẩn và nhảm nhí mà Descartes đề cập đến trong câu tôi chọn làm đề dẫn cho bài luận này. 
Không chỉ là việc triết lý về sự đồng nhất được đưa ra mà chẳng dựa trên bất kỳ một lý lẽ 
27 
nghiêm túc nào; mà ngay cả vấn đề đã khiến nó được phát minh ra để giải đáp – câu hỏi, 
“Tâm trí của chúng ta có thể thấu hiểu thế giới như thế nào?” – đối với tôi cũng hoàn toàn 
không được thiết lập một cách rõ ràng. Và câu trả lời duy tâm chủ nghĩa, dù có khác nhau 
giữa những triết gia duy tâm khác nhau nhưng về cơ bản vẫn không đổi, cụ thể là “Bởi vì thế 
giới tựa-như-tâm-trí”, chỉ là hình dáng bên ngoài của một câu trả lời [đích thực]. Chúng ta sẽ 
thấy rõ ràng rằng đấy không phải là một câu trả lời thực sự nếu chúng ta vẫn chỉ xem xét một 
lý lẽ tương tự nào đó, chẳng hạn: “Chiếc gương này có thể phản chiếu khuôn mặt tôi như thế 
nào?” – “Bởi vì nó tựa-như-khuôn-mặt”. Mặc dù loại lý lẽ này hiển nhiên không thể nào ngửi 
được, nó đã được tái hiện liên tục. Chẳng hạn, chúng ta thấy nó đã được tạo dựng bởi Jeans 
trong thời đại của chúng ta theo mô-tuýp như sau: “Toán học có thể thấu hiểu thế giới như thế 
nào?” – “Bởi vì thế giới tựa-như-toán-học”. Do đó, ông lập luận rằng thực tồn mang bản chất 
của toán học – nghĩa là thế giới là một tư duy toán học (và do vậy lý tưởng). Lý lẽ này hiển 
nhiên không khá hơn lý lẽ sau: “Ngôn ngữ có thể mô tả thế giới như thế nào?” – “Bởi vì thế 
giới tựa-như-ngôn-ngữ – nó thuộc ngôn ngữ”, và không khá hơn: “Ngôn ngữ tiếng Anh có 
thể mô tả thế giới như thế nào?” – “Bởi vì thế giới tựa-như-tiếng-Anh từ trong bản chất”. Dễ 
dàng thấy được rằng cái lý lẽ cuối cùng thực sự tương tự như lý lẽ do Jeans đưa ra nếu như 
chúng ta nhận ra được rằng mô tả toán học về thế giới chỉ là một phương cách nhất định để 
mô tả thế giới, ngoài ra không còn vai trò gì khác, và rằng toán học cung cấp cho chúng ta 
một phương tiện để mô tả – một ngôn ngữ thực sự phong phú. 
Có lẽ hầu như ai cũng có thể chỉ ra điều này một cách dễ dàng thông qua sự trợ giúp của 
một ví dụ thông thường. Có những ngôn ngữ tiền sử không sử dụng các con số, mà chỉ thể 
hiện các ý tưởng số học thông qua các biểu ngữ thể hiện các con số một, hai, và nhiều. Rõ 
ràng rằng một ngôn ngữ như thế không có khả năng mô tả một số các mối quan hệ tương đối 
phức tạp giữa những nhóm khách thể nhất định, mà có thể được mô tả một cách dễ dàng nếu 
có các biểu ngữ chỉ con số “ba”, “bốn”, “năm”, và v.v. Có thể nói A có nhiều cừu, và nhiều 
hơn B, nhưng không thể nói A có chín con cừu và nhiều hơn B năm con. Nói cách khác, các 
biểu tượng toán học được đưa vào trong một ngôn ngữ nhằm mô tả những mối quan hệ tương 
đối phức tạp nhất định mà không thể mô tả bằng cách thức khác; một ngôn ngữ chứa đựng 
các biểu ngữ số học về các số thực đơn giản là phong phú hơn một ngôn ngữ mà thiếu đi các 
biểu tượng đáng có này. Tất cả những gì chúng ta có thể nói về bản chất của thế giới từ thực 
tế là chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ toán học để có thể mô tả được thế giới là: thế giới có 
một mức độ phức tạp nhất định, đến mức có những mối quan hệ nhất định trong thế giới 
không thể mô tả được bằng các công cụ mô tả quá nguyên sơ. 
28 
Jeans hẳn đã cảm thấy bức xúc về cái thực tế là thế giới của chúng ta diễn ra phù hợp với 
các công thức toán học được phát minh trước tiên bởi các nhà toán học thuần tuý, những 
người đã không hề có ý định gì trong việc áp dụng các công thức của họ cho thế giới. Hình 
như ông đã khởi đầu với tư cách mà tôi gọi là một “nhà qui nạp chủ nghĩa”; nghĩa là, ông 
nghĩ rằng các lý thuyết được thu lượm từ kinh nghiệm nhờ một qui trình suy luận ít nhiều 
giản đơn nào đó. Nếu một người khởi đầu từ một vị trí như thế, hiển nhiên anh ta sẽ thấy 
ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng một lý thuyết mà được tạo dựng bởi các nhà toán học thuần 
tuý, theo một phương thức thuần tuý tư biện, sau đó lại cho thấy có khả năng áp dụng được 
cho thế giới vật chất. Nhưng đối với những ai không phải là những nhà qui nạp chủ nghĩa, thì 
điều này không hề ngạc nhiên chút nào. Họ biết rằng thường xuyên xảy ra trường hợp một lý 
thuyết được đưa ra lúc ban đầu chỉ như là một tư biện thuần tuý, một khả thể đơn thuần, 
nhưng sau này lại có các ứng dụng thực nghiệm. Họ biết rằng chính sự dự đoán tư biện này 
mới thường chính là thứ lát đường cho các nghiên cứu thực nghiệm. (Theo cách này vấn đề 
qui nạp, nếu có thể gọi như vậy, chứa đựng vấn đề của chủ nghĩa duy tâm mà chúng ta quan 
tâm ở đây). 
Biện chứng sau Hegel 
Tư duy cho rằng các thực tế hay các sự kiện có thể mâu thuẫn lẫn nhau 
đối với tôi là một loại paradigm hết sức nông cạn. 
David Hilbert 
Triết lý của Hegel về sự đồng nhất giữa lý tính và thực tồn đôi khi bị xem là duy tâm 
(tuyệt đối), bởi vì nó phát biểu rằng thực tồn tựa-như-tâm-trí hoặc mang đặc điểm của lý tính. 
Nhưng rõ ràng là, một triết lý biện chứng về sự đồng nhất như thế có thể dễ dàng biến ngược 
thành một loại chủ nghĩa duy vật. Những người trung thành với triết thuyết đó có thể sẽ lập 
luận rằng thực tồn trên thực tế có đặc tính vật chất hoặc vật lý, giống như cách suy nghĩ của 
người bình thường; và bằng cách nói rằng nó đồng nhất với lý tính, hoặc tâm trí, ai đó có thể 
sẽ nghĩ rằng tâm trí cũng là một hiện tượng vật chất hoặc vật lý – hoặc nếu không, thì sự khác 
biệt giữa hiện tượng tâm trí và vật lý không thể nào lại là một vất đề cực kỳ quan trọng. 
Chủ nghĩa duy vật này có thể được xem như là sự hồi sinh những khía cạnh nhất định 
của chủ nghĩa Descartes, với sự cải biên bằng cách kết nối với phép biện chứng. Nhưng khi 
vứt bỏ đi cái nền tảng duy tâm chủ nghĩa của nó, phép biện chứng mất tất cả những thứ khiến 
nó có vẻ đáng tin cậy và có thể hiểu được; chúng ta cần phải nhớ rằng những lập luận tốt nhất 
biện minh cho phép biện chứng nằm ở khả năng ứng dụng của nó để mổ tả sự phát triển của 
29 
tư duy, đặc biệt là tư duy triết học. Giờ đây, chúng ta ngã ngửa ra với tuyên bố rằng thực tồn 
trong thế giới vật lý phát triển một cách có biện chứng – một nhận định cực kỳ giáo điều với 
quá ít luận chứng khoa học ủng hộ đến nỗi các nhà biện chứng duy vật bắt buộc phải sử dụng 
một cách lỏng lẻo cái phương pháp nguy hiểm mà chúng ta đã mô tả theo đó sự phê phán sẽ 
bị loại bỏ vì nó không biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do đó chấp nhận các điểm 
(a) và (b) như đã trình bày ở trên, nhưng nó thay đổi điểm (c) đáng kể, mặc dù tôi cho rằng nó 
cũng chẳng mang lại cái gì tốt đẹp hơn cho các đặc điểm biện chứng của nó. Để làm sáng tỏ ý 
này, tôi muốn nhấn mạnh một điểm là: mặc dù tôi không xem tôi như là một nhà duy vật, phê 
phán của tôi không hướng trực tiếp tới việc chống lại chủ nghĩa duy vật, học thuyết mà có lẽ 
cá nhân tôi có thiện cảm hơn so với chủ nghĩa duy tâm nếu như tôi bắt buộc phải lựa chọn 
giữa chúng (may mắn thay tôi không phải làm như vậy). Đối với tôi, sự kết hợp giữa biện 
chứng với chủ nghĩa duy vật mới chính là thứ thậm chí còn tồi dở hơn cả chủ nghĩa duy tâm 
biện chứng. 
Cụ thể, những lưu ý đó đúng với “chủ nghĩa duy vật biện chứng” được phát triển bởi 
Marx. Có thể tương đối dễ dàng tái thiết lập yếu tố duy vật chủ nghĩa trong lý thuyết này theo 
một cách thức khiến cho không thể nào đưa ra được các phản bác đáng kể nào chống lại nó. 
Với những gì tôi biết thì điểm chính của nó là thế này: không có lý do gì để giả định rằng 
trong khi các ngành khoa học tự nhiên có thể tiến hành nghiên cứu dựa trên cái nhìn hiện 
thực của con người bình thường thì các ngành khoa học xã hội lại phải cần nền tảng duy tâm 
chủ nghĩa giống như thứ được Hegel đề xuất. Một giả định như vậy thường được đưa ra vào 
thời đại của Marx, xuất phát từ thực tế là Hegel với lý thuyết duy tâm chủ nghĩa của mình về 
Nhà Nước đã tạo ra sự ảnh hưởng mạnh mẽ tới các ngành khoa học xã hội, trong khi những 
quan niệm của ông về các ngành khoa học tự nhiên lại hoàn toàn vô bổ – ít nhất là đối với các 
nhà khoa học tự nhiên.12 Tôi nghĩ rằng hoàn toàn công bằng khi diễn giải các ý tưởng của 
Marx và Engels rằng một trong những quan tâm chủ yếu của họ khi nhấn mạnh đến chủ nghĩa 
duy vật là gạt bỏ bất kỳ lý thuyết nào mà, liên quan đến bản chất lý tính hoặc tinh thần của 
12 Ít nhất thì nó cũng hiển nhiên đối với ai đọc, chẳng hạn, đoạn phân tích đáng kinh ngạc sau đây về bản chất 
của điện. Tôi đã cố gắng dịch nó ở mức độ tốt nhất có thể, thậm chí có thể khiến nó trở nên dễ hiểu hơn so với 
nguyên gốc của Hegel: 
“Điện là mục đích của cái hình thức từ đó nó tự giải thoát, nó là cái hình thức mà chỉ có khuynh hướng vượt qua 
sự lãnh đạm của chính nó; vì rằng, điện là sự xuất hiện tức thời, hoặc hiện thực vừa mới xuất hiện, từ sự gần cận 
(proximity) của cái hình thức, và vẫn còn được định đoạt bởi chính nó – tuy nhiên, vẫn chưa tự rũ bỏ đi cái hình 
thức, mà vẫn chỉ là cái quá trình tương đối hời hợt qua đó những khác biệt làm tan biến cái hình thức mà, tuy 
vậy, chúng vẫn tiếp tục duy trì, như là điều kiện của chúng, sự không còn phát triển thành sự độc lập của và qua 
chúng”. (Không nghi ngờ gì nó đáng ra phải là “của và qua nó”; nhưng tôi hy vọng rằng điều này không gây ra 
sự khác biệt đáng kể nào đối với những sự khác biệt). Đoạn trích được lấy từ Philosophy of Nature của Hegel. 
Cũng xem các đoạn trích về Âm thanh và Nhiệt, được đưa vào trong cuốn Open Society của tôi tại chủ thích số 
4 trong chuơng 12. 
30 
con người, khẳng định rằng xã hội học tất phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm hoặc 
chủ nghĩa tinh thần, hoặc dựa trên sự phân tích về lý tính. Ngược lại, họ đã nhấn mạnh đến 
khía cạnh vật chất của bản chất con người – chẳng hạn nhu cầu của chúng ta về thức ăn và 
các hàng hoá vật chất khác – và vai trò của vật chất đối với xã hội học. 
Không nghi ngờ gì, quan điểm này có căn cứ; và tôi ghi nhận những đóng góp của Marx 
về điểm này là có ý nghĩa thực sự và có ảnh hưởng lâu dài. Mọi người đều học được từ Marx 
rằng sẽ không thể hiểu được hoàn toàn sự phát triển của ngay cả các ý tưởng nếu như xem xét 
lịch sử các ý tưởng mà lại không đề cập đến các điều kiện về nguồn gốc phát sinh của chúng 
và tình cảnh của những người phát kiến ra chúng, và trong số các điều kiện đó khía cạnh kinh 
tế là quan trọng đáng kể (mặc dù một sự xem xét như thế thường có thể có những giá trị vĩ 
đại của riêng nó). Tuy nhiên, cá nhân tôi nghĩ rằng chủ nghĩa kinh tế của Marx – sự nhấn 
mạnh của ông về nền tảng kinh tế như là cơ sở cao nhất cho bất kỳ loại phát triển nào – là sai 
lầm và trên thực tế không đứng vững được. Tôi nghĩ rằng kinh nghiệm xã hội rõ ràng chỉ ra 
rằng, dưới những hoàn cảnh nhất định, ảnh hưởng của các ý tưởng (có lẽ được trợ giúp bởi 
hoạt động tuyên truyền) có thể vượt quá và lần át các lực lượng kinh tế. Ngoài ra, cứ cho là 
chúng ta không thể hiểu được đầy đủ những quá trình phát triển của tâm trí nếu như không có 
sự hiểu biết về nền tảng kinh tế của chúng, thì chúng ta chí ít cũng không thể hiểu được 
những quá trình phát triển kinh tế nếu như không hiểu được sự phát triển của, chẳng hạn, các 
ý tưởng khoa học và tôn giáo. 
Vì mục đích của chúng ta ở đây, việc phân tích chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh tế 
của Marx không quan trọng bằng việc xem xét các yếu tố cấu thành phép biện chứng trong hệ 
thống của ông. Đối với tôi có hai điểm quan trọng. Một là Marx nhấn mạnh đến phương pháp 
lịch sử trong xã hội học, một khuynh hướng mà tôi đã gọi là “thuyết duy lịch sử”. Cái kia là 
khuynh hướng chống lại sự giáo điều trong phép biện chứng của Marx. 
Để hiểu được điểm đầu tiên, chúng ta cần phải lưu ý rằng Hegel là một trong những nhà 
phát minh ra phương pháp lịch sử, là cha đẻ trường phái các nhà tư tưởng tin rằng khi ai đó 
mô tả một quá trình phát triển trên phương diện lịch sử thì anh ta đã giải thích quá trình đó 
một cách nhân quả. Trường phái này tin rằng ai đó, chẳng hạn, có thể giải thích các thể chế 
xã hội nhất định bằng cách chỉ ra loài người đã dần dần phát triển chúng như thế nào. Ngày 
nay, người ta thường nhận ra rằng vai trò của phương pháp lịch sử đối với lý thuyết xã hội đã 
bị thổi phồng quá mức; điều này không có nghĩa là niềm tin vào phương pháp này đã biến 
mất. Tôi đã cố gắng phê phán phương pháp này ở nơi khác (đặc biệt trong cuốn sách của tôi 
The Poverty of Historicism [Sự nghèo nàn của thuyết duy lịch sử – ND]. Ở đây tôi chỉ muốn 
31 
nhấn mạnh rằng xã hội học của Marx đã bắt trước Hegel không chỉ cái quan niệm rằng 
phương pháp luận của nó phải là phương pháp lịch sử, và rằng xã hội học cũng như sử học 
phải trở thành các lý thuyết về sự phát triển của xã hội, mà còn cả cái quan niệm rằng quá 
trình phát triển này phải được giải thích dưới góc độ biện chứng. Đối với Hegel, lịch sử là 
lịch sử của các ý tưởng. Marx vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm nhưng giữ lại học thuyết của Hegel ý 
tưởng rằng các lực lượng động của sự phát triển lịch sử là “các mâu thuẫn”, “các phủ định”, 
“các phủ định của phủ định” của biện chứng. Xét trên khía cạnh này thì thực sự là Marx và 
Engels đã bám rất sát Hegel, như được minh hoạ trong các trích đoạn sau đây. Trong cuốn 
Encyclopaedia (Phần I, chương VI, tr. 81) Hegel đã mô tả Biện chứng như là “lực vũ trụ và 
có sức hút mạnh mẽ, đứng trước nó không cái gì có thể trụ vững được, bất kể cái đó tự cho là 
nó an toàn và ổn định”. Tương tự, Engels viết (Anti-Dühring, Phần I, “Biện chứng: Phủ định 
của phủ định”): “Vậy thì cái gì là phủ định của phủ định? Một qui luật tổng quát cao độ của 
sự phát triển của Tự nhiên, lịch sử và tư duy; một qui luật mà đúng trong vương quốc của 
động vật và thực vật, trong địa chất học, trong toán học, trong lịch sử, và trong triết học”. 
Theo quan niệm của Marx, nhiệm vụ trọng tâm của ngành khoa học xã hội học là phải 
chỉ ra những lực lượng biện chứng này vận động trong lịch sử như thế nào, và do đó phải tiên 
tri được quá trình của lịch sử; hoặc, như ông viết trong lời tựa của cuốn Capital [Tư bản luận 
– ND], “mục đích cuối cùng của tác phẩm này là lột trần qui luật kinh tế về sự vận động của 
xã hội hiện đại”. Và qui luật biện chứng về sự vận động, qui luật phủ định của phủ định, trang 
bị cho Marx cơ sở để tiên tri về sự diệt vong đang treo lơ lửng trên đầu của chủ nghĩa tư bản 
(Capital, I, chương XXIV, § 7): “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa… là sự phủ định lần 
thứ nhất… Nhưng, như là một qui luật Tự nhiên không thể tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản sinh 
ra sự phủ định của chính nó. Đó chính là sự phủ định của phủ định”. 
Tất nhiên tiên tri không có nghĩa là phi khoa học, giống như các tiên đoán về các sự kiện 
nhật thực và các sự kiện thiên văn khác chỉ ra. Nhưng biện chứng của Hegel, hay phiên bản 
duy vật chủ nghĩa của nó, không thể được xem như là một nền tảng đúng đắn cho các dự báo 
khoa học. (“Nhưng tất cả các tiên đoán của Marx đều trở nên đúng”, các nhà Marxist thường 
trả lời. Thực ra thì chúng không hề. Hãy xem một trích đoạn trong vô số đoạn làm ví dụ: 
Trong cuốn Capital, ngay sau đoạn trích sau cùng ở trên, Marx đã nói rằng sự chuyển tiếp từ 
chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội sẽ là một quá trình “ngắn hơn, ít bạo động hơn, và ít 
khó khăn hơn” đến không ngờ so với cuộc cách mạng công nghiệp, và trong một chú thích 
ông đã thổi phồng dự đoán này bằng cách đề cập đến việc “giai cấp tư bản lừng chừng và 
thiếu kiên định”. Ngày nay, có rất ít các nhà Marxist còn nói rằng những tiên đoán này là 
32 
đúng đắn). Do vậy, nếu tiến hành các các dự đoán dựa trên phép biện chứng thì một số sẽ trở 
nên đúng và một số sẽ trở nên sai. Trong trường hợp sau, hiển nhiên sẽ làm nảy sinh một tình 
huống không biết trước được. Nhưng phép biện chứng đủ mơ hồ và linh động đến mức có thể 
lý giải và giải thích tình huống không biết được trước này cứ như là nó đã lý giải và giải thích 
cái tình huống mà nó đã tiên đoán đúng. Bất kỳ quá trình phát triển nào đều khớp với giản đồ 
biện chứng; nhà biện chứng không bao giờ e sợ bất kỳ sự bác bỏ nào xảy ra trong tương lai.13 
Như đã đề cập ở trên, không chỉ cách tiếp cận biện chứng, mà cả ý tưởng về một lý thuyết về 
sự phát triển của lịch sử – ý tưởng rằng ngành khoa học xã hội học phải hướng tới các dự báo 
lịch sử ở tầm khái quát – là sai lầm. Nhưng đây là điều mà chúng ta không quan tâm ở đây. 
Chia tay với vai trò mà phép biện chứng chiếm giữ trong phương pháp lịch sử của Marx, 
chúng ta chuyển đến xem xét thái độ chống giáo điều của Marx. Marx và Engels nhấn mạnh 
rằng khoa học không nên được xem như là một hệ thống tri thức cuối cùng, đã được hoàn 
thiện, hoặc là một hệ thống “sự thật vĩnh hằng”, mà là một cái gì đó phát triển, lũy tiến. Nhà 
khoa học không phải là người biết nhiều mà là người kiên định, quyết không từ bỏ việc tìm 
kiếm sự thật. Các hệ thống khoa học phát triển; và theo Marx, chúng phát triển một cách biện 
chứng. 
Không phải nói gì nhiều về điểm này – mặc dù cá nhân tôi nghĩ rằng mô tả biện chứng 
về quá trình phát triển của khoa học không phải luôn luôn thích hợp trừ phi cố ý áp đặt, và 
rằng tốt nhất nên mô tả quá trình phát triển khoa học theo một cách thức ít tham vọng và ít 
mơ hồ hơn, chẳng hạn, dưới góc độ của thuyết thử-sai. Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận rằng 
phê phán này không đáng kể lắm. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, thái độ cấp tiến và chống 
giáo điều của Marx đối với khoa học không khi nào được các nhà Marxist chính thống chấp 
nhận trong lĩnh vực hoạt động của chính họ. Khoa học cấp tiến, chống giáo điều là khoa học 
mang tính phê phán – phê phán là đời sống thực thụ của nó. Nhưng các nhà Marxist không 
khi nào chấp nhận bao dung sự phê phán chủ nghĩa Marx, phê phán chủ nghĩa duy vật biện 
chứng. 
Hegel nghĩ rằng triết học phát triển; dù thế, hệ thống triết học của chính ông phải được 
xem là giai đoạn cao nhất và cuối cùng của quá trình phát triển này và không thể bị hệ thống 
nào khác vượt qua. Các nhà Marxist bắt chước thái độ đó đối với hệ thống Marxist. Do vậy, 
13 Trong L.Sc.D. tôi đã cố gắng chỉ ra rằng nội dung khoa học của một lý thuyết càng lớn thì lý thuyết đó truyền 
tải càng nhiều [nội dung], lý thuyết càng rủi ro thì nó càng dễ bị bác bỏ bởi kinh nghiệm tương lai. Nếu nó 
không chấp nhận rủi ro nào như vậy, nội dung khoa học của nó sẽ là con số không – nó không có nội dung khoa 
học, nó chỉ là siêu hình. Bằng tiêu chuẩn này chúng ta có thể nói rằng phép biện chứng là phi khoa học: nó là 
siêu hình. 
33 
thái độ chống giáo điều của Marx chỉ tồn tại trên lý thuyết chứ không phải trên thực tiễn của 
chủ nghĩa Marx chính thống, và phép biện chứng được các nhà Marxist, tiếp nối cuốn Anti-
Dühring tiêu biểu của Engels, sử dụng chỉ vì mục đích chống chế (apologetics) – để bảo vệ 
hệ thống Marxist chống lại các phê phán. Đã thành lệ, các nhà phê phán bị lên án là họ đã 
không hiểu phép biện chứng, hoặc khoa học của giai cấp vô sản, hoặc họ bị lên án là những 
kẻ phản bội. Nhờ có phép biện chứng, thái độ chống giáo điều đã biến mất, và chủ nghĩa 
Marx đã tự biến nó thành một chủ nghĩa giáo điều đủ linh động, bằng cách sử dụng phương 
pháp biện chứng của mình, để đè bẹp bất kỳ cuộc tấn công tiếp theo nào. Do đó, nó đã trở 
thành cái mà tôi đã gọi là chủ nghĩa giáo điều được gia cố. 
Đúng là không có vật cản tồi tệ hơn nào đối với sự phát triển của khoa học bằng một chủ 
nghĩa giáo điều được gia cố. Sẽ không có bất kỳ sự phát triển khoa học nào nếu như không có 
cạnh tranh tự do về tư tưởng – đây là cốt lõi của thái độ chống giáo điều đã từng được Marx 
và Engels ủng hộ mạnh mẽ; và nói chung không thể có cạnh tranh tự do trong tư duy khoa 
học nếu không có tự do đối với mọi tư tưởng. 
Do đó phép biện chứng đã tạo ra sự bất hạnh khủng khiếp, không chỉ đối với sự phát 
triển của triết học, mà còn cả sự phát triển của lý thuyết chính trị. Chúng ta có thể hiểu được 
đầy đủ vai trò đáng tiếc này dễ dàng hơn nếu xét đến căn nguyên của việc Marx đã tiến tới 
phát triển một lý thuyết như vậy như thế nào. Chúng ta phải xem xét toàn bộ bối cảnh. Marx, 
một thanh niên trẻ, có đầu óc cấp tiến, cầu tiến và thậm chí cách mạng, đã rơi vào vòng ảnh 
hưởng của Hegel, triết gia Đức nổi tiếng nhất. Hegel lúc đó đã là một đại diện cho trào lưu 
phản động của nước Phổ. Ông đã sử dụng nguyên lý về sự đồng nhất giữa lý tính và thực tồn 
của mình để cổ vũ những thế quyền hiện hành – vì cái gì mà tồn tại tất phải hữu lý – và để 
bảo vệ cho ý tưởng về Nhà Nước Tuyệt Đối (một ý tưởng mà ngày nay được gọi là “chủ 
nghĩa toàn trị”). Marx, người đã ngưỡng mộ Hegel, nhưng lại có một tư chất chính trị khác 
hẳn, đang cần một triết lý để làm cơ sở cho các quan điểm chính trị của mình. Chúng ta có 
thể hiểu được ông đã hân hoan như thế nào khi phát hiện ra rằng triết học biện chứng của 
Hegel có thể dễ dàng xoay ngược thành vũ khí để chống lại người thầy của mình – rằng phép 
biện chứng phù hợp cho một một lý thuyết chính trị cách mạng, thay vì là một lý thuyết bảo 
thủ và chống chế. Bên cạnh điều này, nó cực kỳ phù hợp với nhu cầu của ông trong việc xây 
dựng một lý thuyết không chỉ mang tính cách mạng, mà còn cả lạc quan nữa – một lý thuyết 
dự đoán được sự tiến triển bằng cách nhấn mạnh rằng mọi bước đi mới là một bước tiến về 
phía trước. 
34 
Phát hiện này, dù không phủ nhận là khó có thể cưỡng lại được đối với một môn đồ của 
Hegel tại kỷ nguyên mà Hegel ngự trị, giờ đây, cùng với chủ nghĩa Hegel, đã mất hết mọi vai 
trò, và nó hầu như không còn có thể được xem như là một cái gì đó hơn là một tour de force 
(thành tựu) thông minh của một sinh viên trẻ xuất sắc, người đã làm lộ ra điểm yếu trong các 
tư biện của người thầy không đáng được xem như là nổi tiếng của mình. Nhưng nó đã trở 
thành nền tảng lý thuyết cho cái gọi là “chủ nghĩa Marx khoa học”. Và nó đã góp phần biến 
chủ nghĩa Marx thành một hệ thống giáo điều ngăn cản mọi quá trình phát triển khoa học 
đáng lẽ có thể diễn ra. Vì thế, trong nhiều thập kỷ, chủ nghĩa Marx đã giữ thái độ giáo điều 
của mình, lặp lại việc chống các đối thủ của mình với cùng những lý lẽ mà đã được các vị 
sáng lập của nó sử dụng trước đây. Thật đáng buồn, nhưng nó giúp chúng ta hiểu rõ vì sao 
chủ nghĩa Marx chính thống ngày nay lại chính thức khuyến nghị người đọc nên xem cuốn 
Logic của Hegel như là cuốn sách nền tảng để nghiên cứu phương pháp luận khoa học – thứ 
không những chỉ cổ xưa mà còn tiêu biểu cho các cách thức tư duy tiền khoa học và thậm chí 
tiền logic. Nó còn tồi tệ hơn cả việc khuyến nghị coi cơ học của Archimedes như là nền tảng 
của ngành công trình hiện đại. 
Toàn bộ quá trình phát triển của phép biện chứng nên được nhìn nhận như là một cảnh 
báo nguy hiểm tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng triết học một cách có hệ thống. Nó nhắc 
nhở chúng ta rằng không nên coi triết học như là nền tảng của bất kỳ một hệ thống khoa học 
nào và các triết gia cần nên khiêm nhường hơn với những gì họ tuyên bố. Một nhiệm vụ mà 
họ có thể đảm đương tốt được là nghiên cứu về các phương pháp khoa học phê phán. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
DC14.pdf