Mối liên quan giữa biến đổi A10398G với
đặc điểm bệnh học của bệnh nhân UTPKTBN
Phân tích mối liên quan giữa biến đổi
A10398G của mtDNA với các đặc điểm bệnh
học của 29 bệnh nhân UTPKTBN, kết quả được
trình bày trong Bảng 4.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không nhận
thấy có mối liên quan nào trong phân bố biến đổi
A10398G với các đặc điểm bệnh học của bệnh
nhân UTPKTBN (bao gồm giới tính, độ tuổi,
tình trạng hút thuốc và uống rượu, kích thước
khối u, giai đoạn bệnh cũng như giai đoạn
TNM). Kết quả tương tự cũng được báo cáo trong
nghiên cứu của Xu và cs năm 2013 trên bệnh
nhân UTPKTBN khi không có liên hệ nào giữa
biến đổi A10398G với giới tính, tuổi, tình trạng
hút thuốc, loại mô học và giai đoạn bệnh, tình
trạng đột biến gen EGFR. Tuy nhiên, khi kết hợp
số bản sao mtDNA với biến đổi A10398G, thời
gian sống ở bệnh nhân UTPKTBN có số bản sao
mtDNA cao và có biến đổi 10398G tăng 79,8%
và nguy cơ tử vong giảm so với bệnh nhân có số
bản sao mtDNA thấp và có dạng dại 10398A.
Hơn nữa, nghiên cứu còn xây dựng mô hình tế
bào để chứng minh mối quan hệ giữa biến đổi
A10398G và số bản sao của mtDNA với ROS từ
đó chỉ ra cơ chế tiềm năng gây ung thư của biến
đổi này [12]. Bên cạnh đó, Qi và cs (năm 2016)
khi nghiên cứu tỷ lệ biến đổi A10398G mtDNA
trên 129 mẫu mô của bệnh UTPKTBN cũng
không tìm thấy mối tương quan giữa tỷ lệ biến
đổi dạng dị tế bào chất 10398 với các đặc điểm
bệnh học của bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu
đã chứng minh rằng những bệnh nhân có mức độ
biến đổi mtDNA 10398G dạng dị tế bào chất cao
có thời gian sống tổng thể dài hơn đáng kể so với
những bệnh nhân có mức độ biến đổi dạng dị tế
bào chất thấp. Những kết quả của nghiên cứu trên
ủng hộ quan điểm rằng dạng dị tế bào chất
mtDNA 10398G ở mức độ thấp có thể là dấu hiệu
tiên lượng xấu ở bệnh nhân mắc UTPKTBN [13].
Trong một số nghiên cứu khác, nucleotide G lại
làm tăng nguy cơ và sự phát triển ung thư vú như
Bai và cs (2007) đã chỉ ra ở đối tượng phụ nữ Mỹ
gốc Âu [8], Czarnecka và cs (2010) chỉ ra với đối
tượng người Ba Lan [14]. Như vậy, cho đến nay
vẫn tồn tại những kết quả dường như trái ngược
về vai trò của biến đổi A10398G đối với sự phát
triển của khối u. Mặt khác, chúng tôi chưa tìm
thấy công bố nào liên quan đến biến đổi A10398G
trong exosome nói chung và trong exosome của
bệnh ung thư phổi nói riêng. Do đó, đây là công
trình cung cấp dữ liệu mới trên thế giới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi A10398G của gen ND3 ty thể trong exosome huyết tương của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
50
Original Article
Mitochondrial A10398G Alteration in Plasma Exosome
of Non-small Cell Lung Cancer Patients
Nguyen Thuy Quynh1, Le Thi Thanh Nhan1, Le Lan Phuong1, Bui Phuong Thao1,
Nguyen Thi Tu Linh1, Le Trung Tho2, Trinh Hong Thai1,*
1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
2National Lung Hospital, 463 Hoang Hoa Tham, Ba Dinh, Hanoi, Vietnam
Received 07 October 2020
Revised 06 November 2020; Accepted 08 November 2020
Abstract: This study identifies A10398G alteration of mitochondrial ND3 gene in plasma exosome
of 29 non-small cell lung cancer (NSCLC) patients, 31 controls and 13 pairs of tumor tissue and
adjacent tissue of NSCLC patients, thereby assessing the relationship between this alteration in
plasma exosome and tissue as well as the pathological characteristics of NSCLC patients. Using the
PCR-RFLP method, the homoplasmy and heteroplasmy of A10398G were initially identified in
mitochondrial DNA from both exosomes and lung tissues. The rate of variant 10398G in plasma
exosome was 62.1% in the NSCLC group and 61.3% in the control group. However, there was no
statistically significant difference in A10398G between the patient and control groups. The alteration
of A10398G in plasma exosome and in tissue correlated with each other (correlation coefficient
0.69; p = 0.009). However, this alteration was not related to age, gender, smoking, alcohol drinks
status, tumor size, histological stage and TNM stage.
Keywords: A10398G alteration, mitochondrial DNA, plasma exosome, non-small cell lung cancer.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: thaith@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4275
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
51
Biến đổi A10398G của gen ND3 ty thể trong exosome huyết
tương của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ
Nguyễn Thúy Quỳnh1, Lê Thị Thanh Nhàn1, Lê Lan Phương1, Bùi Phương Thảo1,
Nguyễn Thị Tú Linh1, Lê Trung Thọ2, Trịnh Hồng Thái1,*
1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
2Bệnh viện Phổi Trung ương, 463 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội
Nhận ngày 07 tháng 10 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 11 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 08 tháng 11 năm 2020
Tóm tắt: Exosome chứa nhiều thành phần của tế bào tiết ra chúng. Do đó, exosome được coi là chỉ
thị sinh học tiềm năng đối với một số bệnh trong đó có ung thư. Nucleotide tại vị trí 10398 của DNA
ty thể (mtDNA) mang tính đa hình cao, được nghiên cứu rộng rãi nhưng chưa được thực hiện ở bệnh
ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) tại Việt Nam. Trong nghiên cứu này, sử dụng phương
pháp PCR-RFLP, chúng tôi đã xác định biến đổi A10398G của gen ND3 ty thể trong exosome huyết
tương của 29 bệnh nhân UTPKTBN và 31 người không mắc bệnh ung thư làm đối chứng, đồng thời
biến đổi này cũng được xác định ở 13 cặp mô u và mô lân cận u của bệnh nhân UTPKTBN, từ đó
đánh giá mối liên quan giữa biến đổi này trong exosome huyết tương với mô và các đặc điểm bệnh
học của bệnh nhân UTPKTBN. Kết quả bước đầu đã xác định được biến đổi A10398G ở dạng đồng
tế bào chất và dị tế bào chất trong cả exosome huyết tương và mô phổi. Tỷ lệ dạng biến đổi 10398G
của mtDNA trong mẫu exosome huyết tương là 62,1% đối với bệnh nhân UTPKTBN và 61,3% đối
với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về biến
đổi A10398G giữa nhóm bệnh và nhóm đối chứng. Biến đổi A10398G trong exosome huyết tương
và trong mô có mối tương quan với nhau (R2 = 0,69; p = 0,009). Tuy nhiên, biến đổi này không liên
quan tới độ tuổi, giới tính, tình trạng hút thuốc, uống rượu, kích thước u, giai đoạn bệnh và giai đoạn
TNM của bệnh nhân.
Từ khoá: biến đổi A10398G, DNA ty thể, exosome huyết tương, ung thư phổi không tế bào nhỏ.
1. Mở đầu*
Exosome là các bóng tiết có kích thước 30–
100 nm có nguồn gốc nội bào và được tế bào giải
phóng ra môi trường ngoại bào [1]. Các tế bào
khoẻ mạnh sử dụng exosome như những phương
tiện truyền tin, còn các exosome được tiết ra bởi
các tế bào ung thư có vai trò trong sự phát triển
và xâm lấn của khối u [2]. Ngoài ra, exosome do
tế bào khối u tiết ra mang theo protein và các vật
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thaith@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4275
liệu di truyền có thể là chỉ thị gián tiếp của ung
thư trong đó có ung thư phổi [3]. Đây là loại ung
thư có số ca mắc với tỷ lệ tử vong hàng đầu trên
thế giới và cao thứ hai tại Việt Nam trong các ca
mắc mới ung thư năm 2018 [4]. Đặc biệt, ung thư
phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm tới
85% trong ung thư phổi. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rằng các biến đổi của DNA ty thể
(mtDNA) có liên quan đến bệnh ung thư, trong
đó có biến đổi A10398G thuộc gen NADH
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
52
dehydrogenase subunit 3 (ND3) là biến đổi dẫn
đến sự thay thế amino acid từ Threonine thành
Alanine. Chưa có báo cáo làm rõ tác dụng của
dạng 10398A hay 10398G. Tuy nhiên, người ta
cho rằng biến đổi A10398G có thể dẫn đến suy
giảm chức năng của phức hệ I và do đó tăng
cường sản xuất gốc oxy tự do (ROS). Quá trình
này có thể làm gia tăng stress oxy hóa, tiếp đến
tích lũy thêm sai hỏng mtDNA, dẫn đến khởi đầu
và thúc đẩy quá trình hình thành khối u [5].
https://gco.iarc.fr/today/online-analysis-pie.
(accessed 05 November 2020).
Biến đổi A10398G được nghiên cứu rộng rãi
trên thế giới, đặc biệt ở bệnh nhân ung thư vú,
tuy nhiên kết quả vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Tại Việt Nam đã có nghiên cứu về biến đổi
A10398G trên đối tượng bệnh nhân ung thư đại
trực tràng [6] và ung thư vú [7], nhưng chúng tôi
chưa tìm thấy nghiên cứu nào liên quan đến biến
đổi này trên đối tượng bệnh nhân UTPKTBN,
đặc biệt là chưa được thực hiện trên mẫu
exosome huyết tương. Do đó, nghiên cứu này sẽ
cung cấp thêm số liệu về tần suất của biến đổi
A10398G trên đối tượng người Việt Nam, đồng
thời tìm hiểu mối liên quan giữa biến đổi này với
các đặc điểm bệnh học của bệnh UTPKTBN, góp
phần bổ sung thêm dữ liệu về mtDNA của bệnh
ung thư ở Việt Nam.
2. Nguyên liệu và phương pháp
2.1. Nguyên liệu
Mẫu nghiên cứu bao gồm 29 mẫu huyết
tương và 13 cặp mô phổi bao gồm mô u ở vùng
trung tâm khối u, không chứa tế bào hoại tử và
mô lân cận u nằm cách mép khối u ít nhất 5 cm,
không chứa tế bào ung thư của bệnh nhân
UTPKTBN do Bệnh viện Phổi Trung ương cung
cấp. 31 mẫu huyết tương đối chứng từ Bệnh
viện Xanh-Pon và Bệnh viện Đại học Quốc gia
Hà Nội. Mẫu có các thông tin của bệnh nhân
như tuổi, giới tính, tình trạng hút thuốc, uống
rượu, giai đoạn bệnh và phân giai đoạn phát
triển của u (TNM) với sự chấp thuận cho mẫu
từ bệnh nhân.
2.2. Phương pháp
Phân tách exosome huyết tương: mẫu máu
sau khi nhận về từ bệnh viện được để lắng tự
nhiên trong 1 giờ, sử dụng pipet hút riêng lớp
huyết tương phía trên và ly tâm ở 3.000
vòng/phút trong 5 phút, hút dịch nổi phía trên để
thực hiện các bước phân tách exosome. Tiếp
theo, khoảng 300 μl huyết tương của mỗi bệnh
nhân được ly tâm 10.000 vòng/phút trong 5 phút
ở 4°C để loại bỏ cặn, sau đó bổ sung 300 µl đệm
PBS pH 7,4 đã lọc qua màng lọc 0,22 µm và siêu
ly tâm với tốc độ 60.000 vòng/phút trong 70 phút
ở 4°C, thu cặn. Cặn tiếp tục được rửa với 300 µl
đệm PBS pH 7,4 và siêu ly tâm lần 2 ở 60.000
vòng/phút trong 70 phút ở 4°C và thu cặn chứa
exosome.
Xử lý với enzyme dsDNase: cặn exosome
được xử lý với enzyme dsDNase (Thermo, Mỹ)
để loại DNA bên ngoài exosome theo quy trình
của nhà sản xuất.
Tách chiết DNA tổng số: với mẫu exosome
huyết tương, DNA tổng số được tách chiết bằng
cách sử dụng QIAamp DNA Mini Kit
(QIAGEN, Đức) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất và cô đặc còn khoảng 20 μl. Với mẫu mô
phổi, việc tách chiết DNA tổng số sử dụng kit G–
Spin™ Total DNA Extraction Kit (Intron
Biotechnology, Hàn Quốc). Nồng độ của DNA
tổng số được xác định bằng máy quang phổ
NanoDrop 2000c (Thermoscientific, Mỹ).
Khuếch đại hệ gen ty thể bằng Long-range
PCR: phản ứng gồm các thành phần: 6,25 μl
LongAmp Hot Start Taq 2X Master Mix
(Biolabs), 0,5 μl mồi xuôi và 0,5 μl mồi ngược
với nồng độ cuối cùng bằng 0,4 μM, DNA khuôn
(15,2 ng DNA tổng số với mẫu exosome và 38,6
ng DNA tổng số với mẫu mô phổi), sau đó bổ
sung H2O đến 12,5 μl. Trình tự mồi sử dụng
được thể hiện trong Bảng 1. Chu trình nhiệt thiết
lập như sau: 94°C, 30 giây; 30 chu kỳ (94°C, 30
giây; 54°C, 30 giây; 65°C, 6 phút 30 giây); 65°C,
10 phút, sau đó giữ ở 4°C. Kết quả được kiểm tra
trên gel agarose 1%.
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
53
Bảng 1. Trình tự các cặp mồi sử dụng trong Long-range PCR
Cặp
mồi
Tên
mồi
Trình tự mồi (5’-3’)
Kích thước
(bp)
LR1
7066F CCATCATAGGAGGCTTCATTCAC
7.924
14989R GTAGCGGATGATTCAGCCATAA
LR2
14358F CCCACAGCACCAATCCTACC
6.679
4467R GTACGGGAAGGGTATAACCAACA
LR3
3119F CCCTGTACGAAAGGACAAGAG
7.698
10816R TTTGGAAAGTCATGTCAGTGGTAG
Khuếch đại đoạn gen ND3 bằng PCR: đoạn
gen ND3 chứa vị trí 10398 được khuếch đại với
cặp mồi có trình tự: 5’-CCT GCC ACT AAT
AGT TAT GTC-3’ (mồi xuôi), 5’-GAT ATG
AGG TGT GAG CGA TA-3’ (mồi ngược).
Thành phần phản ứng gồm: 1,25 µl 10x PCR
buffer, 1,25 µl dNTP, 0,15 µl Taq DNA
polymerase, 0,25 µl mồi xuôi và 0,25 µl mồi
ngược với nồng độ cuối cùng bằng 0,2 µM, 2,5
ng/µL DNA khuôn (tương ứng 31,2 ng DNA
tổng số), thêm H2O đến 12,5 µl. Chu trình nhiệt
sử dụng để nhân đoạn gen ND3 như sau: 94°C,
30 giây; 35 chu kỳ (94°C, 30 giây; 54°C, 30 giây;
68°C, 45 giây); 68°C, 5 phút, sau đó giữ ở 4°C.
Kỹ thuật đa hình chiều dài các đoạn cắt giới
hạn (RFLP): sử dụng enzyme cắt giới hạn DdeI
có vị trí nhận biết: 5’-C↓TNAG-3’, 3’-
GANT↑C-5’. Thành phần phản ứng cắt như sau:
0,7 µl Fast Digest® buffer 10X, 3,3 µl sản phẩm
PCR, 0,3 µl Fast Digest® enzyme và bổ sung
H2O đến 10 µl. Phản ứng được tiến hành ở 37°C
trong 5 phút sau đó tiếp tục ủ ở 65°C trong 5 phút
để bất hoạt enzyme. Sản phẩm PCR và sản phẩm
cắt được điện di trên gel agarose 2,5%.
Tính toán thống kê: phần mềm Excel 2010,
phần mềm SPSS 23 được sử dụng để vẽ hình và
phân tích số liệu theo kiểm định khi bình phương
(Chi square test - χ2) hoặc kiểm định chính xác
của Fisher (Fisher’s Exact test). Giá trị p < 0,05
được cho là có ý nghĩa thống kê.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Xác nhận mtDNA trong mẫu exosome huyết
tương và mô phổi
Hình 1. Ảnh điện di sản phẩm Long-range PCR gen
ty thể trên gel agarose 1%.
Giếng 1: thang chuẩn DNA 1kb. Giếng 2, 4, 6: Sản
phẩm Long-range PCR mẫu DNA tổng số từ
exosome với cặp mồi lần lượt LR1, LR2, LR3.
Giếng 3, 5, 7: sản phẩm Long-range PCR mẫu DNA
tổng số từ mô phổi với cặp mồi lần lượt LR1, LR2,
LR3. Lượng DNA tổng số của mẫu exosome huyết
tương và mẫu mô cho mỗi phản ứng Long-range
PCR tương ứng là 15,2 ng và 38,6 ng.
Cặn exosome thu được sau siêu ly tâm được
xử lý với enzyme dsDNase (Thermo, Mỹ) để loại
bỏ DNA bên ngoài exosome trước khi sử dụng
để tách DNA. Kết quả định lượng đã cho thấy
nồng độ DNA tổng số tách từ exosome huyết
tương biến đổi trong khoảng 0,31-7,56 ng/μl
huyết tương (tương ứng với 93,0-2.268,0 ng/300
μl huyết tương) và nồng độ DNA tổng số tách từ
mẫu mô biến đổi trong khoảng 31,9-313,4 ng/μl.
DNA tổng số được dùng làm khuôn cho phản
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
54
ứng Long-range PCR với 3 cặp mồi bao trùm
toàn bộ hệ gen ty thể. Kết quả điện di trên gel
agarose 1% (Hình 1) cho thấy các băng điện di
sáng rõ nét cho kích thước băng với cặp mồi
LR1, LR2 và LR3 tương ứng với kích thước
mong đợi, điều đó chứng minh DNA tổng số
được tách chiết từ exosome và mô phổi có chứa
mtDNA.
3.2. Phân tích biến đổi A10398G trong mẫu
exosome huyết tương và mô phổi bằng PCR-
RFLP
Sau khi khuếch đại thành công đoạn gen
ND3 chứa vị trí 10398 tạo sản phẩm có kích
thước 246 bp (Giếng 2, 4, 6, Hình 2), sản phẩm
PCR được cắt với enzyme giới hạn DdeI và điện
di trên gel agarose 2,5%. Kết quả cho thấy băng
sản phẩm PCR có kích thước đúng như lý thuyết
(246 bp) và độ đậm của băng ở mẫu exosome
huyết tương gần tương ứng với băng ở mẫu mô.
Phân tích vị trí nhận biết của enzyme này cho
thấy: trường hợp mẫu không có biến đổi
(10398A) thì sản phẩm PCR sau khi cắt bằng
enzyme DdeI cho 2 băng có kích thước 196 bp
và 50 bp (Giếng 3). Trong trường hợp mẫu có
biến đổi (10398G) thì sản phẩm sau khi cắt bằng
enzyme cho 3 băng có kích thước 158 bp, 50 bp
và 38 bp (Giếng 5). Trường hợp xuất hiện các
băng có kích thước 196 bp, 158 bp, 50 bp và 38
bp (Giếng 7), đây là mẫu có biến đổi dạng dị tế
bào chất 10398A/G. Đoạn sản phẩm cắt enzyme
có kích thước nhỏ (38 bp) không quan sát thấy
trên bản gel.
Hình 2. Ảnh điện di sản phẩm PCR gen ND3 và sản phẩm được cắt bằng enzyme DdeI tương ứng trên gel
agarose 2,5%.
A. Khuôn là DNA tách từ exosome huyết tương. B. Khuôn là DNA tách từ mô phổi; Giếng 1: thang chuẩn DNA
50bp. Giếng 2, 4, 6: sản phẩm PCR mồi ND3. Giếng 3, 5, 7: sản phẩm cắt enzyme DdeI.
3.3. Phân tích A10398G theo dạng biến đổi
nucleotide và loại mô
DNA ty thể có thể tồn tại dưới dạng đồng tế
bào chất và dị tế bào chất. Kết quả phân tích cho
thấy trong các mẫu exosome huyết tương và mẫu
mô đều có dạng đồng tế bào chất (10398A hoặc
10398G) và dạng dị tế bào chất (10398A/G)
(Bảng 2).
Đối với exosome huyết tương, ở mẫu nhóm
giai đoạn I+II, biến đổi đồng tế bào chất 10398G
chiếm tỷ lệ cao nhất 50%, trong khi đó kiểu dại
10398A chiếm 31,25% và biến đổi dị tế bào chất
10398A/G chiếm 18,75%. Ở mẫu giai đoạn
III+IV, dạng A và G đều chiếm 46,15% còn
10398A/G chiếm 7,67%. Nhóm đối chứng có
38,71% mẫu có dạng A hay G, 22,58% có biến
đổi dạng dị tế bào chất. Sự khác nhau trong phân
bố biến đổi A10398G giữa các nhóm mẫu và
giữa nhóm bệnh với nhóm đối chứng đều không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Với mẫu mô, số liệu thống kê cho thấy tần
suất nucleotide A xuất hiện là 38,46% ở mô lân
cận u và 46,15% ở mô u, trong khi đó 10398G
xuất hiện với tần suất ở mô lân cận u là 38,46%
nhưng chỉ là 30,77% ở mô u. Tần suất dị tế bào
chất ở 2 vùng mô là như nhau 23,08%. Tuy
nhiên, sự khác biệt về đa hình này giữa mô lân cận
u và mô u không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
55
Bảng 2. Phân bố biến đổi A10398G trong mẫu exosome huyết tương và mô phổi
Loại mẫu Nhóm
Số lượng mẫu
(n)
Phân bố biến đổi A10398G
n (%) p
A G A/G
Exosome huyết tương
Giai đoạn I-II 16 5 (31,3) 8 (50,0) 3 (18,8) 0,76*
Giai đoạn III-IV 13 6 (46,15) 6 (46,15) 1 (7,7) 0,50**
Nhóm bệnh 29 11 (37,9) 14 (48,3) 4 (13,8)
0,67
Đối chứng 31 12 (38,7) 12 (38,7) 7 (22,6)
Mô phổi
Mô u 13 6 (46,2) 4 (30,8) 3 (23,1)
1,0
Mô lân cận u 13 5 (38,5) 5 (38,5) 3 (23,1)
Kiểm định 2: *giữa nhóm I-II và đối chứng, **giữa nhóm III-IV và đối chứng
Hình 3. Biểu đồ phân bố biến đổi A10398G theo
nhóm mẫu exosome.
Phân tích theo sự xuất hiện của biến đổi
10398G ở các nhóm mẫu exosome (Hình 3) cho
thấy tỷ lệ mẫu có biến đổi đều cao hơn số mẫu
không biến đổi. Mức độ khác biệt nhất được
quan sát ở nhóm giai đoạn I+II khi tỷ lệ các mẫu
có biến đổi cao gấp hơn hai lần số mẫu không
quan sát thấy biến đổi. Mức độ này thấp nhất ở
nhóm giai đoạn III+IV. Bên cạnh đó, mức độ
có biến đổi ở nhóm đối chứng là 61,29%, tăng
lên ở nhóm giai đoạn I+II là 68,75% và giảm
lại ở nhóm giai đoạn III+IV là 53,85%. Tuy
nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
Hình 4. Biểu đồ phân bố biến đổi A10398G theo vị
trí mô phổi.
Phân tích theo các vùng mô phổi, tỷ lệ có
biến đổi cao hơn tỷ lệ không có biến đổi ở cả 2
vùng mô (Hình 4). Ngoài ra, biến đổi G xuất hiện
ở mẫu mô vùng lân cận u với tần suất 61,54%,
cao hơn ở vùng mô u là 53,85%. Kết quả kiểm
định cho thấy sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
Phân tích trên mẫu exosome và mẫu mô của
13 bệnh nhân, có 77% (10/13) mẫu giống nhau
trong sự có mặt của biến đổi G. Như vậy có sự
tương quan trong biến đổi ở mẫu mô và exosome
(Bảng 3).
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
56
Bảng 3. Hệ số tương quan Spearman giữa biến đổi
A10398G của DNA ty thể được tách từ mẫu
exosome và mẫu mô phổi
Cặp tương quan
Hệ số tương
quan
p
Mô lân cận u và
exosome huyết tương
0,69 0,009
Mô u và
exosome huyết tương
0,59 0,03
Kết quả Bảng 3 cho thấy biến đổi A10398G
của mtDNA trong exosome phản ánh tình trạng
của tế bào tiết chúng. Tuy nhiên, một số mẫu
exosome không cho kết quả thống nhất với mẫu
mô cũng cần được lưu tâm, hơn nữa số lượng
mẫu trong nghiên cứu này còn ít nên việc nghiên
cứu với số lượng mẫu lớn hơn để khẳng định kết
quả là điều cần thiết.
Như vậy, trong mẫu exosome, biến đổi
10398G xuất hiện với tỷ lệ 62,1% ở người bệnh
và 61,3% ở mẫu đối chứng. Với mẫu mô, tỷ lệ
này là 53,9% ở vùng u và 61,5% ở vùng mô lân
cận u.
Do vị trí 10398 của mtDNA có tính đa hình
cao nên số liệu được công bố về biến đổi này
khác nhau trong các nghiên cứu phụ thuộc vào
các tộc người và loại ung thư. Cụ thể, tần suất
nucleotide G ở bệnh ung thư vú trên nhóm đối
tượng người Mỹ gốc Âu là 32,1% [8], người Mỹ
gốc Phi là 87% [9], Bắc Ấn Độ là 57,3% và
43,6% ở người bình thường [10]. Trên đối tượng
bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa ở Trung
Quốc tỷ lệ này là 57,1% và ở nhóm đối chứng
tương ứng là 52,7% [11]. Tại Việt Nam, tỷ lệ này
là 58,1% trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng
[6] và 60% ở bệnh nhân ung thư vú [7]. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên
cứu trước đây ở khu vực châu Á (Ấn Độ và
Trung Quốc) nói chung cũng như tại Việt Nam
nói riêng.
3.4. Mối liên quan giữa biến đổi A10398G với
đặc điểm bệnh học của bệnh nhân UTPKTBN
Phân tích mối liên quan giữa biến đổi
A10398G của mtDNA với các đặc điểm bệnh
học của 29 bệnh nhân UTPKTBN, kết quả được
trình bày trong Bảng 4.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không nhận
thấy có mối liên quan nào trong phân bố biến đổi
A10398G với các đặc điểm bệnh học của bệnh
nhân UTPKTBN (bao gồm giới tính, độ tuổi,
tình trạng hút thuốc và uống rượu, kích thước
khối u, giai đoạn bệnh cũng như giai đoạn
TNM). Kết quả tương tự cũng được báo cáo trong
nghiên cứu của Xu và cs năm 2013 trên bệnh
nhân UTPKTBN khi không có liên hệ nào giữa
biến đổi A10398G với giới tính, tuổi, tình trạng
hút thuốc, loại mô học và giai đoạn bệnh, tình
trạng đột biến gen EGFR. Tuy nhiên, khi kết hợp
số bản sao mtDNA với biến đổi A10398G, thời
gian sống ở bệnh nhân UTPKTBN có số bản sao
mtDNA cao và có biến đổi 10398G tăng 79,8%
và nguy cơ tử vong giảm so với bệnh nhân có số
bản sao mtDNA thấp và có dạng dại 10398A.
Hơn nữa, nghiên cứu còn xây dựng mô hình tế
bào để chứng minh mối quan hệ giữa biến đổi
A10398G và số bản sao của mtDNA với ROS từ
đó chỉ ra cơ chế tiềm năng gây ung thư của biến
đổi này [12]. Bên cạnh đó, Qi và cs (năm 2016)
khi nghiên cứu tỷ lệ biến đổi A10398G mtDNA
trên 129 mẫu mô của bệnh UTPKTBN cũng
không tìm thấy mối tương quan giữa tỷ lệ biến
đổi dạng dị tế bào chất 10398 với các đặc điểm
bệnh học của bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu
đã chứng minh rằng những bệnh nhân có mức độ
biến đổi mtDNA 10398G dạng dị tế bào chất cao
có thời gian sống tổng thể dài hơn đáng kể so với
những bệnh nhân có mức độ biến đổi dạng dị tế
bào chất thấp. Những kết quả của nghiên cứu trên
ủng hộ quan điểm rằng dạng dị tế bào chất
mtDNA 10398G ở mức độ thấp có thể là dấu hiệu
tiên lượng xấu ở bệnh nhân mắc UTPKTBN [13].
Trong một số nghiên cứu khác, nucleotide G lại
làm tăng nguy cơ và sự phát triển ung thư vú như
Bai và cs (2007) đã chỉ ra ở đối tượng phụ nữ Mỹ
gốc Âu [8], Czarnecka và cs (2010) chỉ ra với đối
tượng người Ba Lan [14]. Như vậy, cho đến nay
vẫn tồn tại những kết quả dường như trái ngược
về vai trò của biến đổi A10398G đối với sự phát
triển của khối u. Mặt khác, chúng tôi chưa tìm
thấy công bố nào liên quan đến biến đổi A10398G
trong exosome nói chung và trong exosome của
bệnh ung thư phổi nói riêng. Do đó, đây là công
trình cung cấp dữ liệu mới trên thế giới.
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
57
Bảng 4. Phân bố biến đổi A10398G theo các đặc điểm bệnh học của bệnh nhân UTPKTBN
Đặc điểm
Số lượng
(n)
Phân tích biến đổi A10398G, n (%)
p
A G
Tuổi 1,0
<60 11 4 (36,4) 7 (63,6)
≥60 18 7 (38,9) 11 (61,1)
Giới tính 0,32
Nam 15 7 (46,7) 8 (53,3)
Nữ 14 4 (28,6) 10 (71,4)
Hút thuốc 0,44
Có 12 6 (50) 6 (50)
Không 17 5 (29,4) 12 (70,6)
Uống rượu 0,43
Có 10 5 (50) 5 (50)
Không 19 6 (31,6) 13 (68,4)
Kích thước u 0,39
≤3cm 13 4 (30,8) 9 (69,2)
>3cm 15 7 (46,7) 8 (53,3)
Giai đoạn bệnh 0,71
I + II 16 5 (31,3) 11 (68,7)
III + IV 13 6 (46,2) 7 (53,8)
Giai đoạn T 0,60
1-2 15 5 (33,3) 10 (66,7)
3-4 14 6 (42,9) 8 (57,1)
Giai đoạn N 0,81
0 14 5 (35,7) 9 (64,3)
1-3 15 6 (40) 9 (60)
Giai đoạn M 1,0
0 20 8 (40) 12 (60)
1 9 3 (33,3) 6 (66,7)
Để thu được kết quả trên, việc phân tách
exosome và mtDNA có vai trò tiên quyết.
Exosome được phân tách từ huyết tương bằng
phương pháp siêu ly tâm, đây là phương pháp
được sử dụng phổ biến. Tiếp theo, sự có mặt của
exosome trong mẫu phân tích được xác nhận dựa
vào các đặc tính của chúng, trong đó phổ kích
thước hạt được đo bằng phương pháp tán xạ ánh
sáng động (Dynamic Light Scattering). Kết quả
phân tích đã khẳng định thành phần chủ yếu của
cặn là exosome với kích thước trong khoảng 30-
100 nm. Trong quá trình tách DNA từ exosome,
việc loại bỏ DNA bên ngoài exosome có vai trò
quyết định. Mẫu exosome thu được sau siêu ly
tâm được chúng tôi xử lý với enzyme dsDNase
trước khi tách DNA tổng số. Điểm hạn chế trong
nghiên cứu này là chúng tôi chưa thực nghiệm
xác nhận hiệu quả của xử lý enzyme, tuy nhiên,
nghiên cứu của Guescini và cs (2010) [15],
Sansone và cs (2017) [16] đã chứng tỏ hiệu quả
cao trong việc loại bỏ DNA bên ngoài exosome
bằng DNase. Nghiên cứu của Guescini và cs
(2010) đã cho thấy lượng DNA ty thể của
exosome được xử lý với DNaseI khác biệt có ý
nghĩa so với đối chứng exosome không xử lý
enzyme, chứng tỏ phần đáng kể mtDNA thuộc
DNA tự do bên ngoài exosome và khoảng 10%
mtDNA được bảo vệ khỏi sự thoái giảm của
enzyme do chúng đã được bao bọc bởi
exosome [15].
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
58
4. Kết luận
Sử dụng kỹ thuật PCR-RFLP, chúng tôi đã
phát hiện thấy biến đổi A10398G ở dạng đồng tế
bào chất và dị tế bào chất trong cả mẫu exosome
huyết tương và mẫu mô phổi. Tỷ lệ dạng biến đổi
10398G của mtDNA trong mẫu exosome huyết
tương là 62.1% đối với bệnh nhân UTPKTBN và
61,3% với nhóm đối chứng. Không tìm thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về biến đổi
A10398G giữa nhóm bệnh và nhóm đối chứng.
Biến đổi A10398G trong exosome huyết tương
và trong mô phổi có tương quan với nhau (hệ số
tương quan 0,69; p = 0,009). Tuy nhiên, biến đổi
này không có liên quan với các đặc điểm của
bệnh nhân gồm độ tuổi, giới tính, tình trạng hút
thuốc, uống rượu, kích thước u, giai đoạn bệnh
và giai đoạn TNM.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn các
bệnh nhân đã tự nguyện cho mẫu nghiên cứu, các
y bác sĩ của Bệnh viện Phổi Trung ương, Bệnh
viện Xanh-Pôn và Bệnh viện Đại học Quốc gia
đã hỗ trợ lấy mẫu. Nghiên cứu này được hỗ trợ
kinh phí từ đề tài KLEPT 18.03, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
[1] Y. Zhang, Y. Liu, H. Liu, W.H. Tang, Exosomes:
biogenesis, biologic function and clinical potential,
Cell Biosci, 9 (2019) 19.
https://doi.org/10.1186/s13578-019-0282-2.
[2] H. Valadi, K. Ekström, A. Bossios, M. Sjöstrand,
J.J. Lee, J.O. Lötvall, Exosome-mediated transfer
of mRNAs and microRNAs is a novel mechanism
of genetic exchange between cells, Nat Cell Biol,
9(6) (2007) 654–659.
https://doi.org/10.1038/ncb1596.
[3] A. Sharma & A. Johnson, Exosome DNA: Critical
regulator of tumor immunity and a diagnostic
biomarker, J Cell Physiol, 235(3) (2020) 1921–
1932. https://doi.org/10.1002/jcp.29153.
[4] Global Cancer Observatory, Cancer Today.
https://gco.iarc.fr/today/online-analysis-pie.
(accessed 05 November 2020).
[5] A.A.M. Yusoff, F.N. Zulfakhar, S.Z.N.M. Khair,
W.S.W. Abdullah, J.M. Abdullah, Z. Idris,
Mitochondrial 10398A>G NADH-Dehydrogenase
subunit 3 of complex I is frequently altered in intra-
axial brain tumors in Malaysia, Brain Tumor Res
Treat 6(1) (2018) 31–38.
https://doi.org/10.14791/btrt.2018.6.e5.
[6] P.T. Bich, N.N. Tu, N.T. Khuyen, Đ.M. Ha, T.V.
To, T.H. Thai, The A10398G Alteration of
Mitochondrial ND3 gene in Colorectal Cancer
Patients, VNU Journal of Science: Medical and
Pharmaceutical Sciences 34(2) (2018) 68.
https://doi.org/10.25073/25881132/vnumps.4125.
(in Vietnamese).
[7] N.T.T. Linh, N.B. Hieu, Đ.M. Ha, T.V. To, T.H.
Thai, Mitochondrial DNA A10398G Alteration in
Breast Cancer Patients in Vietnam, VNU Journal
of Science: Natural Sciences and Technology 31(2)
(2015) 36. (in Vietnamese).
[8] R.K. Bai, S.M. Leal, D. Covarrubias, A. Liu
and L.J.C. Wong, Mitochondrial genetic
background modifies breast cancer risk, Cancer
Res 67(10) (2017) 4687-4694.
https://doi.org/10.1158/0008-5472.CAN-06-3554.
[9] J.A. Canter, A.R. Kallianpur, F.F. Parl, R.C.
Millikan, Mitochondrial DNA G10398A
polymorphism and invasive breast cancer in
African-American women, Cancer Res 65(17)
(2005) 8028-8033. https://doi.org/10.1158/0008-
5472.can-05-1428.
[10] K. Darvishi, S. Sharma, A.K. Bhat, E. Rai, R.N.K.
Bamezai, Mitochondrial DNA G10398A
polymorphism imparts maternal Haplogroup N a
risk for breast and esophageal cancer, Cancer Letts
249(2) (2017) 249-255.
https://doi.org/10.1016/j.canlet.2006.09.005.
[11] S.H.H. Juo, M.Y. Lu, R.K. Bai, Y.C. Liao, R.B.
Trieu, M.L. Yu, L.J.C Wong, A common
mitochondrial polymorphism 10398A>G is
associated metabolic syndrome in a Chinese
population, Mitochondrion 10(3) (2010) 294-299.
https://doi.org/10.1016/j.mito.2010.01.001.
[12] H. Xu, W. He, H.G. Jiang, H. Zhao, X.H. Peng,
Y.H. Wei, J.N. Wei, C.H. Xie, C. Liang, Y.H.
Zhong, G. Zhang, D. Deng, Y.F. Zhou, F.X. Zhou,
Prognostic value of mitochondrial DNA content
and G10398A polymorphism in non-small cell
lung cancer, Oncol Rep 30(6) (2013) 3006-3012.
https://doi.org/10.3892/or.2013.2783.
[13] Y. Qi, Y. Wei, Q. Wang, H. Xu, Y. Wang, A. Yao,
H. Yang, Y. Gao, F. Zhou, Heteroplasmy of mutant
mitochondrial DNA A10398G and analysis of its
prognostic value in non-small cell lung cancer,
N.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 50-59
59
Oncol Lett 12(5) (2016) 3081-3088.
https://doi.org/10.3892/ol.2016.5086.
[14] A.M. Czarnecka, T. Krawczyk, M. Zdrozny, J.
Lubiński, R.S. Arnold, W. Kukwa, A. Scińska, P.
Golik, E. Bartnik, J.A. Petros, Mitochondrial
NADH-dehydrogenase subunit 3 (ND3)
polymorphism (A10398G) and sporadic breast
cancer in Poland, Breast Cancer Res Treat 121(2)
(2010) 511-518. https://doi.org/10.1007/s10549-
009-0358-5.
[15] M. Guescini, S. Genedani, V. Stocchi & L.
F.Agnati, Astrocytes and Glioblastoma cells
release exosomes carrying mtDNA, J Neural
Transm (Vienna), 117(1) (2010) 1–4.
https://doi.org/10.1007/s00702-009-0288-8.
[16] P. Sansone, C. Savini, I. Kurelac, Q. Chang, L.B.
Amato, A. Strillacci, A. Stepanova, L. Iommarini,
C. Mastroleo, L. Daly, A. Galkin, B.K. Thakur, N.
Soplop, K. Uryu, A. Hoshino, L. Norton, M.
Bonafé, M. Cricca, G. Gasparre, D. Lyden, and J.
Bromberg, Packaging and transfer of
mitochondrial DNA via exosomes regulate escape
from dormancy in hormonal therapy-resistant
breast cancer, PNAS, 114(43) (2017) E9066-9075.
https://doi.org/10.1073/pnas.1704862114
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bien_doi_a10398g_cua_gen_nd3_ty_the_trong_exosome_huyet_tuon.pdf