Urban areas, on the one hand, withness increased concentration of population and economic
activities, which are the sources of greenhouse gases emission causing climate change; on the
other hand, urban areas are affected by climate change and are places where activities on
responses to climate change are initiated. Southeast Asia (SEA) is in the process of rapid
urbanization as well as vulnerable to climate change impacts. This paper aims to identify major
impacts of climate change on SEA’s urban areas such as sea level rise, typhoons/tropical
cyclones, floods, water scarcity, extreme weather events, food security and environmental
refugees. The paper also discusses the issues and challenges of adaptations, relating to the
technology, social behavior, management mechanisms, policy oriented adaptive mechanisms,
regional capacity and point of view of Southeast Asia countries. Based on the regional context
comparisons, the paper also draws some limitations and implications to climate change
adaptation policy in Vietnam’s urban areas.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
18 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 914 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi khí hậu và các khu vực đô thị ở Đông Nam Á: Thực trạng và các vấn đề trong tiếp cận thích ứng - Trần Thọ Đạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 85 
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ CÁC KHU VỰC ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NAM Á: 
THỰC TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ TRONG TIẾP CẬN THÍCH ỨNG 
Trần Thọ Đạt và Lê Thu Hoa 
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 
Tóm tắt 
Các khu vực đô thị là nơi tập trung dân cư và các hoạt động kinh tế, là nguồn quan trọng 
phát sinh khí nhà kính gây biến đổi khí hậu (BĐKH), đồng thời cũng là nơi chịu tác động 
mạnh của BĐKH và là nơi khởi nguồn của nhiều hoạt động ứng phó với BĐKH. Đông 
Nam Á (ĐNA) là khu vực đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, cũng là khu vực cực kỳ dễ 
bị tổn thương bởi BĐKH. Bài viết này nhằm làm rõ một số dạng tác động chủ yếu của 
BĐKH đến các đô thị ĐNA như nước biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt, nguy 
cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề an ninh lương thực và hiện 
tượng tị nạn môi trường. Bài viết cũng bàn về một số vấn đề và thách thức liên quan đến 
thích ứng về công nghệ, về hành vi của xã hội, của các cơ chế quản lý, các chính sách 
thích ứng, năng lực và quan điểm của các quốc gia ĐNA trong thích ứng với BĐKH. Trên 
cơ sở so sánh với bối cảnh của ĐNA, bài viết cũng chỉ ra một số hạn chế/khó khăn và hàm 
ý đối với chính sách thích ứng BĐKH ở đô thị Việt Nam. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gia tăng đô thị hóa và biến đổi khí hậu (BĐKH) là hai hiện tượng phổ biến trên toàn cầu trong 
thế kỷ XXI. Hai hiện tượng này liên quan chặt chẽ với nhau, đã và đang tạo ra nhiều tác động 
đến đời sống kinh tế-xã hội trên thế giới nói chung, Đông Nam Á (ĐNA) và Việt Nam nói riêng. 
Vị trí địa lý đặc biệt của nhiều đô thị ĐNA khiến khu vực này đã và sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ 
bởi các hiện tượng liên quan đến BĐKH như: nước biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt, 
nguy cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề an ninh lương thực và tị nạn 
môi trường... 
Trong thời gian gần đây, chiến lược thích ứng với BĐKH tại các đô thị ĐNA, trong đó có Việt 
Nam, đang thay đổi theo chiều hướng tăng cường áp dụng các kịch bản khí hậu ở quy mô vùng 
và các phương pháp dự báo bằng mô hình có phạm vi không gian lớn hơn, phạm vi thời gian dài 
hơn; từ đó, nhiều biện pháp thích ứng về công nghệ, kinh tế, hành vi xã hội, cơ chế quản lý và 
chính sách đã và đang được áp dụng. 
Đánh giá các tác động của BĐKH, phân tích những cách tiếp cận thích ứng với BĐKH để làm rõ 
những vấn đề hạn chế/khó khăn của các đô thị ĐNA, trên cơ sở đó đề xuất những gợi ý liên quan 
đến việc xây dựng và thực thi chính sách thích ứng với BĐKH của các đô thị Việt Nam sẽ góp 
phần cung cấp thông tin hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và quản lý đô thị trong quá trình ra 
quyết định nhằm chống chịu tốt hơn với những nguy cơ của BĐKH tại Việt Nam. 
86 
2. ĐÔ THỊ HÓA TRONG MỐI LIÊN QUAN TỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TÁC ĐỘNG VÀ TIÊU 
CHÍ ĐÁNH GIÁ 
Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố 
trí dân cư, hình thành và phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, đồng thời 
phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu, trên cơ sở hiện đại hóa hệ thống hạ tầng và tăng quy mô 
dân số. Trong những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, đô thị hóa nhanh đã khiến các 
thành phố trở thành nơi sinh sống “chuẩn mực” của nhiều người trên toàn cầu. Phần lớn dân cư 
đô thị của thế giới hiện sống tại 408 thành phố có số dân trên 1 triệu người và 20 siêu đô thị với 
số dân trên 10 triệu người. Trong số 408 “thành phố trên 1 triệu dân”, có tới 377 thành phố thuộc 
các nước đang phát triển. Châu Á chiếm 67% trong số 377 thành phố đó. Thực tế là, tuy chỉ 
chiếm chưa đầy 1% diện tích bề mặt Trái đất, các thành phố là nơi sinh sống của trên 50% dân số 
thế giới, tiêu thụ 75% nguồn năng lượng, phát thải 78% lượng cacbon và tạo ra 75% lượng khí 
gây hiệu ứng nhà kính (WWF, 2009). 
Liên quan đến BĐKH, một trong những hiểm họa nghiêm trọng nhất đe dọa con người trong thế 
kỷ XXI, các khu vực đô thị: (i) là nơi tập trung dân cư, các hoạt động công nghiệp, giao thông và 
các nguồn thải khí gây hiệu ứng nhà kính, là nguyên nhân gây ra BĐKH; (ii) là nơi bị tác động 
mạnh bởi BĐKH, đặc biệt là các tác động đến môi trường và hệ thống hạ tầng kinh tế-xã hội; và 
(iii) là khởi nguồn quan trọng của các hoạt động ứng phó với BĐKH thông qua các sáng kiến, 
chính sách và hành động nhằm giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. 
Theo Savage (2010), tác động của BĐKH tới các khu vực đô thị cần được xem xét từ hai khía 
cạnh: (i) tác động trực tiếp tới môi trường đô thị do các hiện tượng như bão và áp thấp nhiệt đới, 
nước biển dâng, mưa lớn và kéo dài; và (ii) tác động gián tiếp làm thay đổi các quá trình và hoạt 
động kinh tế-xã hội trong lòng các đô thị. 
Mức độ tác động của BĐKH và khả năng thích ứng với tác động của BĐKH đến môi trường đô 
thị phụ thuộc vào các biến số như: (i) đặc điểm dân số và mức độ đô thị hóa của quốc gia; (ii) 
quy mô dân số của đô thị - có thể thay đổi từ 10.000 đến một triệu người, năm đến mười triệu 
hoặc hơn; (iii) tốc độ tăng dân số tại các đô thị và loại hình tăng trưởng dân số (tăng tự nhiên, di 
dân cơ học hay cả hai); (iv) chất lượng cuộc sống trong đô thị (thu nhập bình quân đầu người) và 
các mức nghèo đô thị; và (v) thực trạng của hệ thống hạ tầng đô thị và tỷ lệ dân số được hưởng 
lợi từ hệ thống này. 
Khi đánh giá tác động của BĐKH đến đô thị, một số tiêu chí thường được sử dụng như: 
+ Khả năng bị tác động bởi BĐKH của đô thị (Climate Exposure - CE): là khả năng một đô thị 
bị tác động bởi BĐKH và các hiện tượng như nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, hạn hán 
hay ngập lụt. Các thành phố có vị trí và điều kiện địa lý tự nhiên dễ bị tác động bởi thiên tai có 
hệ số CE cao hơn các thành phố khác. 
+ Mức độ nhạy cảm với BĐKH của đô thị (Climate Sensitivity - CS): là biến số phụ thuộc vào 
các yếu tố dân số, GDP, tầm quan trọng của kinh tế đô thị đối với nền kinh tế quốc gia. Các 
thành phố có đông dân số, GDP cao và có tầm quan trọng đối với kinh tế quốc gia sẽ có chỉ số 
mức độ nhạy cảm cao hơn. 
 87 
+ Tính dễ bị tổn thương do BĐKH của đô thị (Climate Vulnerability - CV): là mức độ mà một 
đô thị dễ bị tác động bởi/hoặc không có khả năng đối phó với các tác động bất lợi của BĐKH, 
bao gồm cả những thay đổi của điều kiện khí hậu và những hiện tượng cực đoan. CV phụ thuộc 
vào các biến số về đặc điểm, cường độ và tốc độ của BĐKH mà đô thị bị tác động, mức độ nhạy 
cảm (CV) và năng lực thích ứng (Adaptative Capacity - AC) của đô thị. 
Thích ứng với BĐKH bao gồm các cách ứng phó, điều chỉnh và hành động của con người và 
thiên nhiên, nhằm chống chịu và/hoặc giảm thiệt hại có thể xảy ra, giảm khả năng bị tổn thương 
trước những tác động của BĐKH. Nói cách khác, đó là “kiểm soát những điều không thể tránh 
khỏi”. Năng lực thích ứng với BĐKH của đô thị liên quan đến: (i) sự nhận thức về tầm quan 
trọng, quy mô, phạm vi và tốc độ của BĐKH; (ii) sự thay đổi phong cách sống, chất lượng sống 
và cách tạo lập sinh kế; (iii) thay đổi về kinh tế và tiến bộ công nghệ; và (iv) điều chỉnh hệ thống 
hạ tầng trong thiết kế các đô thị sinh thái và các vấn đề quan hệ giữa đô thị với vùng ảnh hưởng 
và “dấu chân sinh thái” (Eco-footprint) của đô thị. Năng lực thích ứng với BĐKH của đô thị 
khác nhau từ cách ứng xử của các chủ thể đơn lẻ tới các cơ chế và hoạt động điều tiết vĩ mô của 
chính phủ, là kết quả của cả những ứng phó tức thì cũng như những biện pháp ứng phó mang 
tính dài hạn và phòng ngừa. 
3. ĐÔ THỊ HÓA VÀ MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI CÁC 
ĐÔ THỊ ĐÔNG NAM Á 
Đông Nam Á là khu vực đang trong quá trình đô thị hóa nhanh. Nếu năm 1950, chỉ có 15% dân 
số Đông Nam Á sinh sống tại các vùng đô thị, thì năm 2010, con số này là 41,8% (246,7 triệu 
người). Ước tính đến năm 2025, con số này sẽ là 49,7%, năm 2050 là 65,4% . 
Bảng 3.1. Tỷ lệ đô thị hóa ở các quốc gia Đông Nam Á qua các thời kỳ 
Quốc gia Năm 1950 1975 2000 2025 2050 
Brunây 26,8 62,0 71,1 80,9 87,2 
Campuchia 10,2 4,4 16,3 26,3 43,8 
Inđônexia 12,4 19,3 42,0 50,7 65,9 
Lào 7,2 11,1 22,0 49,0 68,0 
Malaixia 20,4 37,7 62,0 80,5 87,9 
Myanma 16,2 23,9 27,8 44,4 62,9 
Philipin 27,1 35,6 48,0 55,4 69,4 
Xingapo 99,4 100,0 100,0 100,0 100,0 
Thái Lan 16,5 23,8 31,1 42,2 60,0 
Việt Nam 9,9 14,6 24,3 36,4 54,9 
Timo Leste 11,6 18,8 24,5 40,5 59,0 
Toàn Đông Nam Á 15,5 23,3 38,2 49,7 65,4 
Nguồn: UNDP, 2010. 
88 
Tỷ lệ đô thị hóa có sự khác biệt khá lớn giữa các quốc gia trong khu vực, thể hiện sự liên quan 
giữa đô thị hóa và phát triển kinh tế. Các quốc gia trong khu vực có thể được chia thành 3 nhóm: 
Nhóm thứ nhất gồm các quốc gia có tỷ lệ đô thị hóa cao (trên 65%) và mức độ phát triển kinh tế 
cao (thể hiện qua GDP bình quân đầu người): Xingapo, Brunây và Malaixia; Nhóm thứ hai gồm 
các nước có kinh tế ít phát triển hơn và tỷ lệ đô thị hóa thấp (dưới 34%): Campuchia, Timo 
Leste, Việt Nam, Lào và Myanma; Nhóm ở giữa gồm các quốc gia: Thái Lan, Inđônêxia và 
Philipin. 
Đông Nam Á tạo ra 12% (5.187 triệu tấn CO2-eq) khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu 
(GHGs), chủ yếu do suy giảm trữ lượng sinh khối gây ra bởi việc chặt phá rừng. Trong số 5.187 
triệu tấn GHGs đó, 59% là từ Inđônêxia, 6% từ Thái Lan, 4% từ Philipin, 2% từ Việt Nam và 1% 
từ Xingapo. Lượng thải GHGs bình quân đầu người cao hơn so với mức trung bình toàn cầu, 
nhưng vẫn thấp hơn so với các nước phát triển (ADB, 2009). 
Biến đổi khí hậu là một thách thức rất lớn đối với các quốc gia Đông Nam Á trong thế kỷ XXI 
do đây là khu vực cực kỳ dễ bị tổn thương. Có thể thấy, BĐKH đã và đang tác động đến hầu như 
toàn bộ ĐNA, đặc biệt là các khu vực ven biển. 
Vị trí địa lý đặc biệt của ĐNA nói chung, các đô thị ven biển nói riêng, khiến khu vực này đã và 
sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các hiện tượng liên quan đến BĐKH như: nước biển dâng, bão 
và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt, nguy cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề 
an ninh lương thực và tị nạn môi trường... Các dạng tác động chủ yếu của BĐKH đến một số 
thành phố lớn của các quốc gia ĐNA được thể hiện trong Bảng 3.2. 
Khoảng 173.251 km đường bờ biển và sự tập trung đông dân số cũng như các hoạt động kinh tế 
tại khu vực ven biển sẽ chịu ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng 0,6-2,0 mm hàng năm theo dự 
báo của ADB (ADB, 2009). Kịch bản “khiêm tốn” nhất cũng dự báo mực nước biển trong khu 
vực đến cuối thế kỷ XXI có thể tăng 40 cm so với hiện tại. Nhiều thành phố thủ đô của các quốc 
gia ĐNA nằm ở vị trí ven biển và phải đối mặt với tất cả các vấn đề của nước biển dâng. 
Các đô thị thuộc vùng đất thấp ven biển (LECZ) - những vùng đất trong phạm vi cách đường bờ 
biển 100 km, có độ cao nhỏ hơn hoặc bằng 10 m, chiếm 29,4% tổng diện tích các đô thị, là nơi 
sinh sống của 36% dân số toàn khu vực, tương đương 12,3% tổng dân số đô thị của vùng. Người 
nghèo (theo tiêu chí nghèo đa chiều - bao gồm sự thiếu thốn về thu nhập, giáo dục, nhà ở) tại 
các đô thị này dường như chịu tỷ lệ ảnh hưởng cao hơn các nhóm người khác bởi họ thường 
sống ở các vùng đất rất thấp. 
Tại Xingapo, mực nước biển dâng 59 cm, có thể gây ra sự suy giảm đáng kể của rừng ngập mặn, 
xói mòn bờ biển, mất đất... Trong vài thập kỷ trở lại đây, Chính phủ Xingapo đã tiến hành mở 
diện tích quốc gia thông qua các biện pháp lấn biển khá tốn kém. Kết quả là trên 20% diện tích 
của đảo quốc này hiện nay là đất lấn biển. Với dự báo mực nước biển dâng từ 0,5 đến 1,5 m, các 
vùng đất lấn biển lại đang trong nguy cơ bị đe dọa. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, chi phí 
để bảo vệ vùng ven bờ của Xingapo sẽ trong khoảng từ 0,3-5,7 tỷ USD vào năm 2050, từ 0,9 đến 
16,8 tỷ USD vào năm 2010. 
 89 
Nguồn: Marwan Owaygen, 2010. 
Hình 3.1. Tính dễ bị tổn thương do các tác động của BĐKH ở khu vực Đông Nam Á 
Bảng 3.2. Các dạng tác động chủ yếu của biến đổi khí hậu tới một số thành phố Đông Nam Á 
Thành phố 
Diện tích 
đất bị ảnh 
hưởng 
Nước 
biển 
dâng 
Ngập 
lụt 
Khan 
hiếm 
nước 
Bão và 
áp thấp 
nhiệt đới 
An ninh 
lương 
thực 
Bandar Seri Begawan 100,36    
Băng Cốc 7.761,00     
TP Hồ Chí Minh 2.092,00    
Jakarta 740,28    
Kuala Lumpur 243,65     
Manila 638,55      
Phnôm Pênh 290,00    
Xingapo 710,00   
Viên Chăn    
Yangon 598,00      
Nguồn: WWF, 2009. 
Nước biển dâng cùng với hiện tượng sạt lở đất do khai thác nước ngầm quá mức sẽ làm đường 
bờ biển của Inđônêxia dịch chuyển vào trong và gia tăng nguy cơ ngập lụt. Đến năm 2050, nếu 
90 
mực nước biển dâng theo các kịch bản 0,25; 0,57 hoặc 1,0 cm/năm, diện tích ngập lụt ở Bắc 
Jakarta tương ứng sẽ là 40, 45 hoặc 90 km2. Nếu mực nước biển dâng trung bình năm 2050 là 
0,5m và hiện tượng sạt lở vẫn tiếp tục, nhiều diện tích của Bắc Jakarta và Bekasi sẽ bị ngập lụt 
vĩnh viễn (ADB, 2009). 
Tại Philipin, mực nước biển dâng 30 cm vào năm 2045, sẽ ảnh hưởng đến 2.000 ha đất và 
khoảng 500.000 dân. Mức dâng 100 cm vào năm 2080, sẽ gây ngập lụt cho hơn 5.000 ha đất 
vùng ven vịnh Manila và làm ảnh hưởng đến 2,5 triệu người. Rủi ro còn gia tăng nếu nước biển 
dâng đi cùng gia tăng cường độ bão. 
Tại Thái Lan, các khu vực dân cư dọc theo sông và bờ biển sẽ có nguy cơ bị đe dọa bởi nước 
biển dâng và bão. Xói mòn bờ biển được dự báo sẽ gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành 
du lịch. 
Các thành phố cảng của khu vực Đông Nam Á cũng dễ bị tổn thương do vị trí nằm ở vùng đồng 
bằng thấp ven biển. Nghiên cứu của Nicholls và nnk. (2008) đối với 12 thành phố cảng cho thấy, 
đã có trên 5 triệu người bị ảnh hưởng bởi ngập lụt vùng ven bờ gây ra do bão và 114 tỷ USD bị 
thiệt hại do gió mạnh. Đến năm 2070, khoảng 28 triệu người và tài sản trị giá 2.900 tỷ USD có 
thể bị tác động bởi BĐKH. 
Bảng 3.3. Diện tích, dân số đô thị vùng đất thấp ven biển các quốc gia Đông Nam Á 
Quốc gia 
Diện tích đất 
đô thị (1995), 
km2 
DT đô thị 
vùng đất thấp 
ven biển 
(1995), km2 
Dân số đô thị 
(2000), 1.000 
người 
Dân số đô thị 
vùng đất thấp 
ven biển (2000), 
1.000 người 
Brunây 1.117 256 222 25 
Campuchia 672 136 1,886 288 
Inđônêxia 32.398 8.174 81,367 22,705 
Lào 1.134 0 892 0 
Malaixia 14,090 3,774 13,902 3,684 
Myanma 4,698 1,084 12,452 4,509 
Philipin 8,596 1,872 24,866 6,807 
Xingapo 543 62 3,926 550 
Thái Lan 27,525 9,191 20,787 12,472 
Việt Nam 5,959 3,872 17,406 12,863 
Timo Leste 134 7 33 1 
Toàn Đông Nam Á 96.866 28.428 177,739 63,904 
Nguồn: CIESIN, 2006. 
BĐKH đối với Đông Nam Á còn có thể gây ra tác động gián tiếp tới hiện tượng tị nạn môi 
trường. Nhiều người dân không thể thích ứng với những thay đổi do hạn hán, lũ lụt hoặc xói mòn 
 91 
đất tại nơi họ đã từng sinh sống, đã rời bỏ làng quê để ra thành phố. Nghiên cứu của ADB (2009) 
chỉ ra rằng, chuyển đổi nơi sinh sống của con người đã diễn ra trên quy mô toàn cầu, bất chấp 
những cách biệt trong nhận thức về BĐKH, di dân và các mối quan hệ khác. Điều nghịch lý là, 
làn sóng tỵ nạn môi trường đó lại đổ xô về các thành phố. Khả năng đáp ứng nhu cầu di chuyển 
đó dường như khó đạt được khi số người di cư được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng. Những người di 
cư thường sống trong các khu vực nhà ở chật chội, hạ tầng nghèo nàn và gặp nhiều hạn chế về 
tiếp cận nước sạch, các điều kiện giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Các điều kiện bất lợi của nhóm 
người di cư này khiến họ càng dễ bị tổn thương hơn do các tác động đa dạng của BĐKH. 
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới một số thành phố cảng Đông Nam Á 
Thành phố 
Dân số 
năm 2005, 
1.000 người 
Hiện tại (2005) Dự báo (2070) 
Dân số bị 
ảnh hưởng, 
1.000 người 
Tài sản bị 
ảnh hưởng, 
tỷ USD 
Dân số bị 
ảnh hưởng, 
1.000 người 
Tài sản bị 
ảnh hưởng, 
tỷ USD 
Jakarta 13.215 513 10,11 2.248 321,24 
Kuala Lumpur 1.405 270 15,06 295 83,88 
Yagon 4.107 510 3,62 4.965 172,02 
Manila 10.686 113 2,69 545 66,21 
Xingapo 4.326 16 2,30 29 20,54 
Băng Cốc 6.593 907 38,72 5.138 1.117,54 
TP Hồ Chí Minh 5.065 1.931 26,86 9.216 652,82 
Nguồn: Nicholls và nnk., 2008. 
Đánh giá khả năng bị tác động, mức độ nhạy cảm và tính dễ bị tổn thương do BĐKH: 
Bảng 3.5. Khả năng bị tác động, mức độ nhạy cảm và tính dễ bị tổn thương 
của một số thành phố Đông Nam Á 
Thành phố 
Khả năng bị tác 
động (CE) 
Mức độ nhạy cảm 
(CS) 
Tính dễ bị tổn 
thương (CV) 
Jakarta 6 10 8 
Manila 9 7 8 
Phnôm Pênh 4 6 7 
TP Hồ Chí Minh 8 6 6 
Băng Cốc 5 7 5 
Kuala Lumpur 3 5 4 
Xingapo 4 6 4 
Nguồn: WWF, 2009. 
92 
Khi xem xét các tác động trong mối liên quan tới dân cư đô thị, các hoạt động kinh tế đô thị và 
vai trò của đô thị đối với nền kinh tế quốc gia, Jakarta được đánh giá là thành phố nhạy cảm nhất 
trong khu vực với BĐKH. Manila và Băng Cốc (đều là các megacity) cũng có mức độ nhạy cảm 
cao. 
Dựa trên khả năng bị tác động (CE), mức độ nhạy cảm của đô thị (CS) và các tiêu chí liên quan, 
nghiên cứu của WWF (2009) đã chỉ ra một số thành phố của ĐNA dễ bị tổn thương bởi BĐKH 
hơn so với các thành phố khác (xem Bảng 3.5). Manila (Philipin) và Jakarta (Inđônêxia) được 
đánh giá là hai thành phố dễ bị tổn thương nhất (mức 8), trong khi Kuala Lumpur (Malaixia) và 
Xingapo là hai thành phố ít bị tổn thương nhất (mức 4). 
4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ THÁCH THỨC LIÊN QUAN ĐẾN THÍCH ỨNG VỚI ĐIẾN ĐỔI KHÍ 
HẬU Ở ĐÔNG NAM Á 
4.1. Thích ứng về công nghệ 
Theo UNFCCC (2006), các thành phố có thể có nhiều cách thức ứng phó về mặt công nghệ, 
nhằm chống chịu với những tác động của nước biển dâng (xem Bảng 4.1). 
Trong một thời gian dài, do các thành phố hầu hết đều có không gian hạn chế, chúng dường như 
chưa thu hút sự chú ý của các nhà công nghệ về các kịch bản khí hậu mới, bởi lẽ BĐKH toàn cầu 
dường như chỉ liên quan đến những khu vực địa lý rộng lớn với những tác động lớn. Tuy nhiên 
gần đây, chính quyền nhiều thành phố đã quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các công nghệ 
mới cho người dân đô thị, giới thiệu các kỹ thuật mới để thực hiện các biện pháp thích ứng đối 
với môi trường đô thị. Các nghiên cứu về công nghệ đang thay đổi theo chiều hướng tăng cường 
áp dụng các kịch bản khí hậu ở quy mô vùng và các phương pháp dự báo bằng mô hình có phạm 
vi không gian lớn hơn, phạm vi thời gian dài hơn. 
Bảng 4.1. Các giải pháp công nghệ thích ứng với biến đổi khí hậu ở khu vực ven biển 
Bảo vệ Phòng tránh Duy trì 
Các kết cấu cứng: đê biển, 
dải chắn thủy triều, hệ 
thống phân tán nước 
+ Thiết lập các vùng an 
toàn phía sau 
+ Di chuyển các tòa nhà có 
nguy cơ bị đe dọa 
Các hệ thống di dân và cảnh báo 
sớm 
Các kết cấu mềm: đụn cát, 
phục hồi đất ngập nước, 
rừng ven biển 
Hạn chế/không phát triển tại 
các khu vực có nguy cơ bị 
tác động 
+ Các phương thức canh tác 
nông nghiệp mới 
+ Các tiêu chuẩn xây dựng mới 
Các giải pháp bản địa: bức 
chắn bằng gỗ, đá, trồng 
rừng 
+ Xây dựng rào chắn tại 
các vùng đất cao 
+ Quyền sử dụng các vùng 
đất khác 
+ Cải thiện hệ thống thoát nước 
+ Các hệ thống lọc nước biển 
Nguồn: UNFCCC, 2006. 
 93 
Tại nhiều đô thị ĐNA, có sự chênh lệch khá lớn về của cải giữa những người nghèo sống ở khu ổ 
chuột với những quý tộc giàu có sống trong những biệt thự kín cổng cao tường. Người nghèo đô 
thị cần những hỗ trợ về hạ tầng để thích ứng với BĐKH. Tại Thái Lan, Viện Nghiên cứu Phát 
triển các Tổ chức Cộng đồng (CODI) đã thực hiện từ năm 2003 đến năm 2008 chiến dịch phát 
triển nhà, hạ tầng và an ninh về quyền sử dụng đất cho 300.000 hộ dân của 2.000 khu dân cư tại 
200 đô thị của quốc gia này. Đến năm 2006, đã có 450 dự án nâng cấp khu nghèo đô thị như vậy 
được thực hiện tại 170 thành phố và thị trấn, thu hút 45.500 hộ gia đình. Năm 2006, UN-
HABITAT đã công nhận Thái Lan đang trên đà đạt được các mục tiêu Thiên niên kỷ MDG trong 
việc cải thiện đời sống người dân khu ổ chuột, số người sống trong các khu ổ chuột giảm 
18,8%/năm (Savage, 2010). Xingapo cũng là một ví dụ tốt khi thay thế các khu ổ chuột bằng các 
nhà ở công cộng, tạo ra một thành phố sạch và xanh. 
Với những dự báo cho rằng, BĐKH sẽ làm gia tăng lượng mưa tại các khu vực vùng xích đạo, 
trong khi hạn hán có thể gia tăng tại các khu vực vùng nhiệt đới, chính quyền nhiều nước ĐNA 
đã thấy cần đầu tư đúng cho hệ thống hạ tầng tại các đô thị để bảo đảm rằng, người dân ở đó 
được bảo vệ an toàn chống lại các hiện tượng khí hậu cực đoan. Tại Xingapo, thành phố nằm ở 
vùng xích đạo, hiện tượng không thoát nước kịp khi mưa xảy ra hai lần trong tháng 7 năm 2010, 
gây ra ngập lụt kéo dài tại các khu dân cư chủ yếu và hệ thống đường cao tốc biểu tượng của 
thành phố - đường Orchard, gây tổn thất kinh tế lớn cho người dân và các doanh nghiệp, gây 
lúng túng cho chính quyền thành phố. Bài học cho Xingapo và các thành phố có khả năng mưa 
nhiều là hệ thống thoát nước đô thị cần đủ lớn để ứng phó trong các giai đoạn lượng mưa tăng 
cao, nếu không thành phố sẽ phải đối mặt với ngập lụt kéo dài trên diện rộng, gây thiệt hại cho 
kinh tế đô thị, tạo ra nhiều tổn thất kinh tế và tệ hại hơn, thương vong và tổn thất về người. 
Không như các vùng nông thôn hay các khu cảnh quan thiên nhiên nơi nước mưa được hấp thụ 
bởi tầng đất và thảm thực vật, tại các đô thị với các công trình xây dựng, dòng chảy nước mưa sẽ 
được “phóng đại” và trở nên nguy hiểm hơn, bởi nước mưa được thu gom từ các khu xây dựng 
rộng lớn sau đó đổ vào hệ thống cống thoát của thành phố. 
Khi BĐKH gia tăng trong hai thập kỷ tới, các tác động môi trường cũng tăng lên do khoảng thời 
gian từ khi hình thành bão đến khi mưa sẽ rút ngắn hơn và nhiều thành phố sẽ không có khả năng 
chống chịu với lượng mưa lớn và kéo dài. Chính phủ các quốc gia ĐNA cần nhận thức được lợi 
ích to lớn của việc đầu tư để kiểm soát ngập lụt. Bài học của Kyoto (Nhật Bản) cho thấy, một 
USD đầu tư cho kiểm soát ngập lụt sẽ giúp giảm tác động 1.300 lần so với chi tiêu chung cho cả 
thành phố (Savage, 2010). 
Thiếu nước là một trong 3 vấn đề BĐKH trong thế kỷ XXI. Sự thay đổi lượng mưa do BĐKH sẽ 
tác động nhiều đến sản xuất nông nghiệp. Trận hạn hán kéo dài trong năm 2009-2010 ở Philipin 
đã làm hư hại và phá hủy 162.000 ha đất canh tác, gây ra chi phí cho nông dân ước tính khoảng 
61 triệu USD. Mặc dù đã nỗ lực trong quản lý nguồn nước, trận hạn này đã buộc Chính phủ 
Philipin phải nhập khẩu 2,2 triệu tấn lương thực. Cũng do đợt hạn hán năm 2009-2010 tại vùng 
lục địa ĐNA và Philipin đã buộc các chính phủ phải thử nghiệm một loạt các hệ thống thích ứng, 
như xây dựng thêm nhiều giếng nước, lắp đặt thêm hàng ngàn máy bơm, ứng dụng kỹ thuật điện 
toán đám mây trong gieo hạt giống tại các tỉnh bị tác động mạnh nhất ở phía Bắc. Hồ chứa 
Angat, nơi cung cấp nước cho cả nông nghiệp và 97% nhu cầu nước sinh hoạt cho vùng thủ đô 
Manila, đã được Chính phủ quy hoạch là nơi dự trữ nước cho nhu cầu của đô thị (Savage, 2010). 
94 
Lọc nước biển dường như đang trở thành một ngành công nghiệp nhằm giải quyết nạn thiếu 
nước tại nhiều thành phố và quốc gia. Hiệp hội Lọc Nước biển Quốc tế (IDA) khẳng định là, đã 
có 12.300 trạm lọc nước biển đang hoạt động tại 155 quốc gia trên thế giới, với tổng công suất là 
47 triệu m3 nước/ngày. Hai ngàn nhà máy ở Arab Saudi chiếm hơn ¼ sản lượng nước sản xuất từ 
nước biển của toàn thế giới. Tuy nhiên, kỹ thuật lọc nước tốn kém, sử dụng nhiều năng lượng 
này dường như chỉ phù hợp với các nước nhiều dầu mỏ. Mặc dù tiêu thụ nhiều năng lượng, 
ngành nước từ nước biển vẫn tăng trưởng tới 25%/năm. Barlow (2008) đã nêu câu hỏi rất 
nghiêm túc về việc liệu ngành sản xuất nước từ nước biển có phải là biện pháp tốt để giải tỏa cơn 
khát của con người trên hành tinh khi chỉ ra 3 trở ngại đối với ngành này, gồm: (i) sử dụng nhiều 
năng lượng, tạo ra gánh nặng cho hệ thống truyền tải điện địa phương (không là vấn đề đối với 
các nước sản xuất dầu lửa như Arab Saudi); (ii) các trạm lọc nước tạo ra các hợp chất chứa hóa 
chất và kim loại nặng gây chết người và để tránh hiện tượng ăn mòn do muối, cứ mỗi lít nước 
được lọc lại có một lít chất độc được bơm trở lại biển (hiện tại các nhà máy lọc nước biển trên 
toàn thế giới tạo ra 20 tỷ lít chất thải mỗi ngày); và (iii) nước cấp cho các nhà máy lọc nước có 
thể chứa chất gây ô nhiễm (virus, vi khuẩn, tảo độc) mà cách lọc nước theo công nghệ thẩm 
thấu ngược hiện tại không loại bỏ được. Không khó để có thể hình dung được vấn đề về chất 
lượng nước sử dụng cho các trạm lọc nước biển khi mà các nước đang phát triển xả 90% lượng 
nước thải của họ xuống biển. 
Bên cạnh việc lọc nước biển, còn có những bài học mà các quốc gia ĐNA có thể học được từ 
kinh nghiệm của Xingapo trong việc quản lý nguồn nước. Do sự phụ thuộc của Xingapo vào 
nguồn nước nhập khẩu từ Johor (Malaixia) và quan hệ chính trị không ổn định giữa hai quốc gia 
này, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Mahathir Mohamad, chính phủ Xingapo đã thấy 
sự cần thiết cả về kinh tế và chính trị trong việc bảo đảm an ninh về nước cho đảo quốc của 
mình. Vì vậy, trong bốn thập kỷ gần đây, Bộ Môi trường và Nguồn nước (MEWR), Ủy ban Phúc 
lợi Công cộng (PUB) và các trường đại học (ĐH Quốc gia Xingapo, NUS và ĐH Công nghệ 
Nanyang) đã đầu tư lớn cả về tài chính và nhân lực cho các hệ thống chuyển đổi, bảo tồn và sản 
xuất nước (lọc nước biển, thu gom nước mưa trên đường phố, tái chế nước với công nghệ 
NEWater, tăng công suất hồ chứa, kiểm soát giá nước, mở rộng diện tích lưu vực tới 50% diện 
tích đảo, tăng cường hệ thống trữ nước ngầm). Hệ thống tái chế nước hiện tại đáp ứng khoảng 
30% nhu cầu sử dụng nước của Xingapo. 
Đảo quốc Xingapo đã trở thành “trung tâm đầu mối về nước toàn cầu” (Global Hydrohub), thu 
hút nhiều doanh nghiệp về công nghệ nước, đồng thời xuất khẩu công nghệ và chuyên gia đi 
khắp thế giới. Chính phủ Xingapo đầu tư rất nhiều cho nghiên cứu và triển khai (R&D) các công 
nghệ nước. Ví dụ, năm 2007, Ủy ban Phát triển Công nghiệp Nước và Môi trường đã tài trợ 330 
triệu USD cho Quỹ Nghiên cứu Nước và đào tạo nghiên cứu viên cho các giải pháp về nước 
trong khu vực tư nhân. Nhờ sự hỗ trợ từ Chính phủ và một môi trường thân thiện đối với R&D, 
nhiều công ty đang sử dụng đảo quốc như một nơi thử nghiệm của các công nghệ nước. Các 
công ty lớn như Black & Veatch (Mỹ), Siemen (Đức) đều chuyển cơ sở của họ sang Xingapo. 
Các công ty xử lý nước của Xingapo cũng “nở rộ”, trong đó phải kể đến Hyflux, công ty đã phát 
triển sáng kiến tái chế nước NEWater và đang xuất khẩu công nghệ này sang Ôxtrâylia, Ấn Độ, 
Thái Lan, Trung Đông và Trung Quốc. Xingapo tin tưởng rằng đến năm 2061, khi thỏa thuận về 
cung cấp nước sạch từ Malaixia hết hiệu lực, thì họ cũng có khả năng tự chủ về nước. Đóng góp 
quan trọng cho khả năng tự chủ này là của công nghệ tái chế nước NEWater. Đến năm 2020, sẽ 
 95 
có 5 nhà máy tái chế nước NEWater, cung cấp 197 triệu gallon/ngày đêm, đáp ứng 40% nhu cầu 
sử dụng (Savage, 2010). 
4.2. Thích ứng về hành vi của xã hội 
Giảm tiêu thụ năng lượng và nước là cần thiết để ứng phó với BĐKH. Điều này chỉ thực hiện 
được nếu các cá nhân và hộ gia đình từng bước thay đổi mô hình/hành vi tiêu dùng. Tuy nhiên, 
trong cuộc sống hiện đại, với vô số các trang thiết bị hiện đại, nhu cầu tiêu thụ năng lượng không 
ngừng tăng. Do gia tăng sóng nhiệt và khí hậu nóng hơn, các loại máy lạnh trở nên phổ biến 
trong các gia đình, công sở hay các khu vui chơi giải trí. Các thành phố giàu có như Bandar Seri 
Begawan, Kuala Lumpur, Băng Cốc, Jakarta, TP Hồ Chí Minh và Xingapo có xu hướng gia tăng 
“chủ nghĩa tiêu dùng”, tiêu thụ năng lượng và phát thải CO2 và đóng góp thêm nhiều vào sự ấm 
lên toàn cầu. Nếu không có sự thay đổi trong hành vi của xã hội, sẽ khó để giải quyết được các 
tác động của BĐKH đến các khu vực đô thị (Bảng 4.2). 
Trong các quốc gia ĐNA, Xingapo có lẽ là một hình mẫu về việc chính phủ không ngừng nỗ lực 
trong việc xây dựng trách nhiệm công dân và hành vi công cộng thông qua các quy định pháp 
luật chặt chẽ, thực thi pháp luật hiệu quả và các chiến dịch truyền thông được thường xuyên tổ 
chức, tới mức được coi như một “nhà nước bảo mẫu”. Với những nỗ lực như vậy, Xingapo đã 
giảm một cách đáng kể “dấu ấn nước”1 (Water Footprint). 
Tư tưởng cho rằng các vấn đề môi trường chỉ có thể được giải quyết bởi chính phủ ở tầm vĩ mô 
cần phải được thay đổi. Các quốc gia ĐNA cần thực hiện các hoạt động giáo dục công chúng, 
nhằm thay đổi hành vi trách nhiệm của công dân, bởi lẽ tiền bạc, công nghệ và pháp luật hà khắc 
cũng không thể bảo đảm sự bền vững của môi trường đô thị và giảm phát thải khí nhà kính, nếu 
người dân không thay đổi thói quen hành vi của mình. 
Bảng 4.2. Các loại hình thích ứng của hệ thống nhân văn đối với biến đổi khí hậu 
 Thích ứng khi đã xảy ra tác động Ứng phó mang tính phòng ngừa 
Khu vực tư 
nhân 
Di chuyển nhà 
Thay đổi mức/loại hình bảo hiểm 
Lắp đặt hệ thống điều hòa không khí 
Thay đổi kiến trúc các tòa nhà 
Mua bảo hiểm 
Sử dụng các sản phẩm tiêu dùng 
mới 
Khu vực công 
cộng 
Thực thi các chương trình bồi thường 
hoặc hỗ trợ 
Bắt buộc thực hiện các tiêu chuẩn/quy 
định xây dựng 
Trồng rừng, bảo vệ các bãi biển 
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm 
Thiết lập các tiêu chuẩn/quy định 
xây dựng mới 
Nguồn: UNFCCC, 2006. 
1 Water Footprint là một chỉ số về lượng nước sạch được sử dụng trực tiếp và gián tiếp cho sản xuất và 
tiêu dùng. 
96 
4.3. Thích ứng của các cơ chế quản lý 
Báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC, 2007) đã chỉ ra rằng, giải quyết 
các tác động và ứng phó với BĐKH không chỉ là vấn đề của nhận thức, mà cần xem như một vấn 
đề của quản lý và ra quyết định. Tự chủ và xây dựng năng lực thích ứng cần được coi như những 
bước đi chủ động đầu tiên để chống lại những thách thức của BĐKH đối với khu vực ĐNA. 
Nhận thức được tầm quan trọng của các hệ sinh thái tự nhiên trong việc bảo vệ các vùng ven 
biển, chống lại nước biển dâng và gia tăng lũ lụt, nhiều quốc gia đã coi việc phục hồi các rừng 
ngập mặn như là một giải pháp quan trọng trong ứng phó của các thành phố ven biển. Tuy nhiên, 
phục hồi rừng ngập mặn không hề là việc dễ thực hiện, bởi lẽ các khu rừng ven biển này đã bị 
thay thế bằng các hoạt động sinh lợi về kinh tế như nuôi tôm và nuôi trồng thủy hải sản khác. 
Hiện tượng này có thể thấy ở các khu vực ven biển quanh các thành phố như Hồ Chí Minh, Băng 
Cốc, Jakarta, Xingapo và Manila. Bất chấp các quy định pháp luật về bảo vệ các giá trị của rừng 
ngập mặn, chính phủ các nước như Thái Lan, Inđônêxia, Philipin và Malaixia đã có những 
nhượng bộ đối với các hoạt động nuôi tôm, dẫn tới việc suy giảm, thậm chí biến mất của những 
cánh rừng ngập mặn. Sự phát triển nhanh của các diện tích nuôi tôm đã khiến diện tích rừng 
ngập mặn của Thái Lan giảm từ 370.000 ha năm 1961 xuống 170.000 ha năm 1996. Tại quận 
ven biển Bang Khunthia của Băng Cốc, hơn 483 ha rừng ngập mặn đã bị xóa sổ trong gần ba 
mươi năm qua. Tại Philipin, nuôi thủy hải sản đã làm mất 380.000 ha rừng từ năm 1968 đến nay. 
Tại Malaixia, cũng có 20% rừng ngập mặn biến mất do nuôi trồng thủy hải sản (ADB, 2009). 
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hợp Quốc (FAO, 2008) đã dự báo, BĐKH sẽ ảnh 
hưởng đến nguồn nước, sự sẵn có và phân bổ hàng năm của nguồn tài nguyên này. Do nông 
nghiệp sử dụng tới 70% tổng lượng nước khai thác hàng năm, FAO cảnh báo rằng, nguy cơ khan 
hiếm nước sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và hoạt động đánh bắt, nuôi 
trồng thủy hải sản và an ninh lương thực. Nếu an ninh lương thực và khan hiếm nước là hai hệ 
quả tiêu cực của BĐKH, ngay từ bây giờ, chính phủ các quốc gia ĐNA cần chú trọng đến các cơ 
chế thích ứng để chống chịu với các hệ quả tiêu cực đó. Khủng hoảng lương thực toàn cầu năm 
2007-2008 là nguyên nhân gây ra các cuộc bạo động ở hơn 60 quốc gia và tranh cướp đất đai ở 
châu Phi và ĐNA. Một vài quốc gia trên thế giới đã có những bước đi nhằm hạn chế sự phụ 
thuộc vào nguồn cung lương thực thông qua các biện pháp như mua/thuê các diện tích canh tác 
nông nghiệp của các nước sản xuất lương thực. Ví dụ, Trung Quốc thuê đất của Áo, Brazil, 
Myanma, Nga và Uganda; Ấn Độ thuê đất của Paragoay và Urugoay; Arab Saudi trông chờ vào 
các diện tích canh tác của Ai Cập, Pakistan, Nam Phi, Sudan, Thổ Nhĩ Kỳ; Hàn Quốc thuê đất 
của Madagasca, Nga và Sudan. Tại ĐNA, các quốc gia phụ thuộc vào nguồn cung lương thực 
như Xingapo, Philipin và Brunây đã và đang triển khai các thỏa thuận với các quốc gia xuất khẩu 
lương thực như Thái Lan và Việt Nam, nhằm bảo đảm nguồn cung. Tổ chức ASEAN có vai trò 
trong việc trợ giúp và bảo đảm rằng, an ninh lương thực trong nội bộ ASEAN được duy trì trên 
cơ sở hợp tác. 
Năm 1980, ASEAN đã thành lập Ủy ban Dự trữ và An ninh Lương thực (AFSRB) nhằm kiểm 
soát những vấn đề phát sinh trong dự trữ và cung cấp lương thực cho các quốc gia thành viên. 
Tại thời điểm đó, ASEAN có 5 thành viên và lượng lương thực dự trữ là 50.000 tấn. Con số này 
tăng lên 87.000 tấn cho 10 quốc gia thành viên từ năm 2001, nhưng được đánh giá là quá thấp 
nếu khủng hoảng lương thực xảy ra trong khu vực. Đối mặt với những thách thức môi trường 
 97 
gây ra do BĐKH, vấn đề an ninh lương thực của ĐNA cần được xem xét một cách cẩn trọng 
hơn. Hiện tại, cả Thái Lan và Myanma đang hướng nguồn cung của họ tới các quốc gia thiếu 
lương thực nhưng giàu có hơn. Trung Quốc đã thuê đất của Myanma, Arab Saudi cũng để mắt 
tới đất nông nghiệp của Thái Lan. Những quan hệ về đất đai như vậy có thể dẫn đến những vấn 
đề nhạy cảm về chính trị mà chúng ta đã thấy qua sự kiện Tổng thống Malagasy bị lật đổ do việc 
cho một tập đoàn (Chaebol) của Hàn Quốc thuê đất canh tác (Savage, 2010). 
Một tác động quan trọng nữa của BĐKH đến xã hội là vấn đề phát tán và kiểm soát các bệnh 
nhiệt đới. Con số được các nhà khoa học ước tính là cộng đồng thế giới sẽ phải tốn 13 tỷ USD để 
giảm được 50% số ca mắc bệnh sốt rét, để bảo vệ 90% trẻ sơ sinh và giảm 72% tỷ lệ tử vong của 
trẻ dưới 5 tuổi (Stern, 2009). Cả việc khan hiếm hay dư thừa nước do ngập lụt tại các thành phố 
đều có thể gây ra hậu quả tàn khốc đến sức khỏe người dân. Nước tù đọng là nguồn sinh trưởng 
của muỗi và các ký sinh trùng gây bệnh nguy hiểm cho con người, nếu không có các biện pháp 
kiểm soát sự sinh trưởng của các loài này. Trong khi đó, hạn hán và khan hiếm nước lại gây ra 
tình trạng môi trường kém vệ sinh đối với người dân đô thị. Các thành phố cần xem xét các giải 
pháp thay thế cho việc sử dụng các nhà vệ sinh, nếu tình trạng khan hiếm nước xảy ra. Nhiều 
dịch bệnh nhiệt đới như sốt rét, sốt xuất huyết, sốt dengue, giun sán không chỉ phát sinh do 
điều kiện khí hậu nhiệt đới, mà còn là kết quả của tình trạng hạ tầng đô thị kém phát triển (thiếu 
đường giao thông, thiếu hệ thống cấp thoát nước, nhà ở chật hẹp kém vệ sinh). Phát triển đô 
thị bền vững được coi là một chỗ dựa trong cuộc chiến chống lại các bệnh nhiệt đới. Tuy nhiên, 
đây không hề là vấn đề đơn giản và có thể sớm đạt được với nhiều đô thị ở ĐNA. 
4.4. Các chính sách thích ứng 
Chính phủ các quốc gia ĐNA cần coi các chương trình chiến lược phát triển dài hạn như là cách 
thích ứng của quốc gia đối với BĐKH. Một trong những vấn đề liên quan đến các quy định của 
chính phủ và khu vực công là sự thiếu nhận thức về BĐKH trong các lĩnh vực kinh tế, y tế, an 
ninh lương thực, tài nguyên nước, sử dụng năng lượng, sản xuất nông nghiệp, kiểm soát lũ/hạn 
hán, đa dạng sinh học và nước biển dâng. Trước khi các quốc gia và cộng đồng trong khu vực 
ĐNA có thể cam kết cùng chống lại BĐKH, cần có những chính sách định hướng cung cấp cho 
các quốc gia/cộng đồng các thông tin đầy đủ, chân thực, chính xác về các thách thức của BĐKH. 
Ở tầm vĩ mô, thách thức lớn nhất đối với xã hội và cộng đồng đô thị là cần phải đánh giá lại tính 
bền vững của động lực tăng trưởng kinh tế hiện tại. Các quốc gia ĐNA cần nhận thức được rằng, 
“thích ứng phải là một phần của phát triển” và “phát triển là cách thích ứng quan trọng nhất” 
(Stern, 2009). Tiến trình phát triển của các quốc gia ĐNA trong vòng 50 năm trở lại đây chưa 
thực sự thể hiện sự quan tâm và nhất quán trong việc giải quyết các thất bại của thị trường và 
thất bại chính sách. Điều này đang làm gia tăng chênh lệch giữa các cộng đồng và các vùng 
miền, quan liêu và tham nhũng, tình trạng nghèo và bị “bỏ rơi” khỏi tiến trình phát triển của một 
số cộng đồng. ADB (2009) chỉ ra rằng, trong năm 2005, có 221 triệu người (40%) dân ĐNA 
sống với mức thu nhập thấp hơn 2 USD/ngày, trong đó 93 triệu người (18%) sống dưới mức thu 
nhập 1,25 USD/ngày. Các quốc gia nghèo nhất trong khu vực bao gồm Timo Leste, Campuchia, 
Lào, Myanma và Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn nhất khi xây dựng và triển khai thực hiện các 
chương trình thích ứng với BĐKH. 
98 
Do an ninh lương thực và nguồn nước là những thách thức chủ yếu đối với cộng đồng đô thị ở 
ĐNA, vấn đề cần được các chính phủ quan tâm là chúng ta cần có sự lựa chọn đánh đổi (Trade-
off) hợp lý. Thiếu năng lượng đã dẫn tới việc đẩy mạnh đầu tư vào các nhà máy thủy điện ở Thái 
Lan, Philipin, Inđônêxia, Việt Nam và các quốc gia vùng sông Mê Kông. Liệu đó có phải là sự 
lựa chọn đúng và hợp lý? Thủy điện có thể tạo ra nguồn điện năng được coi là rẻ và sạch, nhưng 
lại gây ra mất rừng, tác động đến đa dạng sinh học, dẫn đến việc mất nơi sinh sống của nhiều 
cộng đồng dân cư, đồng thời có thể gây ra những tác động tiêu cực đến cấp nước và sản xuất 
nông nghiệp. Nếu thời gian khô hạn kéo dài nhiều tháng, các hồ chứa cũng giảm khả năng phát 
điện và ảnh hưởng xấu đến các hệ thống thủy lợi. Những tác động chính của tiêu dùng lượng 
thực, thực phẩm và các tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng dân cư đô thị chính là việc chúng 
ta tạo ra “dấu ấn nước” (Water Footprint), không chỉ bao gồm lượng nước chúng ta dùng để 
uống, mà quan trọng hơn, là lượng “nước ảo” được chúng ta sử dụng trong sản xuất. Việc quyết 
định mức “đánh đổi tối ưu” (Optimal Trade-off) giữa các nhu cầu sử dụng nguồn lực khan hiếm 
như vậy luôn là việc không hề đơn giản đối với từng cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Các chính 
sách sử dụng công cụ pháp lý và công cụ kinh tế, nhằm đạt được sự lựa chọn đánh đổi, cần được 
các chính phủ áp dụng một cách khôn ngoan và thận trọng. 
Để tìm ra các hệ thống thích ứng thân thiện về mặt sinh thái và tăng năng suất nông nghiệp, các 
chính phủ cũng cần có chính sách lựa chọn của quốc gia đối với việc phát triển các hệ thống 
nông nghiệp mới như canh tác hữu cơ, canh tác nông nghiệp bền vững, sử dụng thực phẩm biến 
đổi gen (GM). Thực phẩm biến đổi gen dường như đang là biện pháp giải cứu cho vấn đề an 
ninh lương thực trong thế kỷ XXI, đặc biệt với các quốc gia thiếu lương thực. Năm 2009, thị 
trường giống GM toàn cầu đạt giá trị 10,5 tỷ USD, giá trị sản lượng GM đạt 130 tỷ USD. Rõ 
ràng, khi dân cư đổ dồn về các đô thị và BĐKH gây ra những thay đổi điều kiện thời tiết một 
cách bất thường và khó dự báo, thì thích ứng của sản xuất nông nghiệp là một lĩnh vực nghiên 
cứu và triển khai (R&D) quan trọng. Tạp chí The Economist (2010) đã diễn đạt điều này “từ 
quản lý đất đai đến dự báo thời tiết, đến bảo quản, nghiên cứu và sử dụng đa dạng sinh học trong 
nông nghiệp, có nhiều cách thức cải thiện hệ thống nông nghiệp để bảo đảm nguồn lương thực 
cung cấp cho thế giới và làm cho các hệ thống này thích ứng tốt hơn, sinh lợi nhiều hơn. Một 
trang trại không chỉ là một vụ mùa thông thái, mà là một hệ sinh thái được quản lý bằng tri thức. 
Canh tác GM có vai trò rất to lớn trong sự phát triển này, nhưng GM chỉ là một phần của tất cả”. 
4.5. Năng lực thích ứng và quan điểm của các quốc gia 
Báo cáo của WWF (2009) về BĐKH ở châu Á đã chỉ rõ: các đô thị ĐNA có năng lực rất khác 
nhau trong việc giải quyết và thích ứng với các tác động của BĐKH. Theo thang điểm đánh giá 
của WWF, các thành phố giàu hơn với hệ thống hạ tầng và năng lực quản lý tốt hơn như 
Xingapo, Kuala Lumpur và Thành phố Hồ Chí Minh có năng lực thích ứng cao hơn (điểm tương 
ứng là 1, 3 và 3) so với Phnôm Pênh, Jakarta hay Manila (điểm tương ứng là 10, 7 và 7). 
Với thực tế là nhiều quốc gia trong khu vực còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, trong khi rất 
nhiều tác động của BĐKH đối với các đô thị còn chưa rõ ràng, chính phủ nhiều quốc gia ĐNA 
vẫn còn lưỡng lự trong việc thực thi các biện pháp dự phòng trong thích ứng với BĐKH. 
 99 
Nghiên cứu của Yuen và Kong (2009) chỉ ra rằng, không có trường nào trong số 28 trường đại 
học đào tạo về quy hoạch đô thị ở ĐNA có chương trình chuyên về BĐKH. Có thể thấy ĐNA 
còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu thích ứng với BĐKH. 
Nghiên cứu của Francisco (2008) lại cho thấy một thực tế là, các chính sách và giải pháp ứng 
phó với BĐKH còn ít được đề cập trong các văn bản pháp luật của nhiều quốc gia. Thực tế 
không được lạc quan lắm về sự sẵn sàng ứng phó với BĐKH tự nó đã nói lên việc hoặc là chính 
phủ các nước ĐNA còn phân vân về BĐKH, hoặc là họ đang bỏ qua những xu hướng và tác 
động của BĐKH đối với xã hội (Bảng 4.3). 
Bảng 4.3. Các chính sách và giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong các 
văn bản pháp luật của một số quốc gia Đông Nam Á 
Quốc gia 
Tổng số trang văn 
bản liên quan 
Số trang về tác động 
và tính dễ bị tổn 
thương 
Số trang về chính 
sách và giải pháp 
thích ứng 
Campuchia 63 10 2 
Inđônêxia 116 10 3 
Lào 97 2 dòng 1 dòng 
Malaixia 131 30 7 
Xingapo 75 5 1 dòng 
Thái Lan 100 15 2,5 
Philipin 107 20 12 
Nguồn: Francisco, 2008. 
Theo nhiều cách khác nhau, cộng đồng ĐNA đã có truyền thống dài lâu trong việc chống chịu 
với những hiểm họa môi trường như hạn hán, lũ lụt, động đất và đã có hàng thế kỷ hình thành 
các cơ chế thích ứng với các vấn đề này. Cộng đồng dân cư nơi đây đã quen ứng phó với thiên 
tai đến mức các hiện tượng này không còn được coi là “một hiện tượng bất thường”, mà trở 
thành “một phần bình thường trong cuộc sống”. Mặt trái của quan niệm này là, có thể làm con 
người ở đây có một cái nhìn thờ ơ, coi đó như định mệnh, ít quan tâm đến việc nhà nước và cộng 
đồng dân cư cần phải sẵn sàng ứng phó với các thảm họa môi trường, mà hành động đơn lẻ ở 
từng địa phương không thể giải quyết được. Việc chống chịu với các vấn đề môi trường liên 
quan đến BĐKH có thể làm nảy sinh một loạt các thách thức nằm ngoài tầm giải quyết của các 
cộng đồng và chính phủ nếu không có, ngay từ bây giờ, các kế hoạch, biện pháp và chính sách 
thích hợp. 
5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ 
HẬU Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM 
Đông Nam Á là khu vực đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, đồng thời cũng là khu vực cực 
kỳ dễ bị tổn thương bởi BĐKH và các hiện tượng liên quan như: nước biển dâng, bão và áp thấp 
nhiệt đới, ngập lụt, nguy cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề an ninh 
100 
lương thực và tị nạn môi trường. Nhiều biện pháp về công nghệ, kinh tế, hành vi xã hội, cơ chế 
quản lý và chính sách đã và đang được áp dụng tại nhiều đô thị ĐNA nhằm thích ứng với BĐKH 
tại khu vực này. Tuy nhiên, không ít hạn chế/khó khăn đối với các cách tiếp cận ứng phó với 
BĐKH đã và đang đòi hỏi chính quyền các đô thị trong khu vực cần có những thay đổi cả trong 
nhận thức, biện pháp, chính sách và tổ chức thực hiện. 
Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi BĐKH. Khi xem xét 
các nguy cơ của BĐKH đối với các đô thị của Việt Nam trong sự so sánh với các thách thức về 
tiếp cận thích ứng với BĐKH của khu vực ĐNA, có thể nhận thấy một số hạn chế/khó khăn liên 
quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách thích ứng với BĐKH của các đô thị Việt Nam, 
gồm: (i) thực trạng quy hoạch đô thị theo cơ chế tập trung, thiếu sự tự chủ về tài chính cũng như 
năng lực của chính quyền đô thị để thích ứng với BĐKH; (ii) thiếu phương pháp luận và các 
công cụ để giới thiệu và cung cấp tư vấn về các tiếp cận thích ứng BĐKH cho những người có 
thẩm quyền ra quyết định; (iii) thiếu sự điều phối chung để lồng ghép thích ứng BĐKH vào quy 
trình xây dựng chính sách, quy hoạch và chương trình phát triển của các ngành, các địa phương; 
(iv) thiếu minh bạch về thông tin cũng như khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến môi trường 
và BĐKH; (v) sự tham gia của cộng đồng vào quá trình ra quyết định còn rất hạn chế; (vi) nhận 
thức chưa đầy đủ về phạm vi, mức độ cũng như các giải pháp thích ứng với BĐKH; và (vii) sự 
chưa chắc chắn về xu hướng diễn biến của BĐKH và các tác động của hiện tượng này đến các 
hoạt động kinh tế-xã hội. 
Để thích ứng có hiệu quả hơn với BĐKH, chính sách của các chính quyền đô thị tại Việt Nam 
trong thời gian tới cần quan tâm giải quyết một số vấn đề như sau: 
+ Củng cố năng lực của chính quyền đô thị trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý đô thị gắn với 
các vấn đề BĐKH; 
+ Tăng cường năng lực và các công cụ tư vấn về BĐKH cho các tổ chức, cá nhân liên quan; 
tăng cường tư vấn cộng đồng và sự tham gia của cộng đồng về BĐKH trong quy hoạch đô thị; 
+ Xây dựng năng lực điều phối chung để lồng ghép thích ứng BĐKH vào quy trình xây dựng 
chính sách, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của các ngành, các địa phương; bảo 
đảm các đánh giá chi tiết về tính dễ bị tổn thương do BĐKH được bao gồm trong các quy hoạch 
và kế hoạch phát triển ngành/địa phương; 
+ Củng cố hệ thống thông tin và tăng cường khả năng tiếp cận thông tin về BĐKH; 
+ Đầu tư cho công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về môi trường và BĐKH cho 
các công chức Nhà nước, các tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư; 
+ Củng cố các chính sách giảm nghèo đô thị và bất bình đẳng, hỗ trợ các cộng đồng người nhập 
cư và người nghèo để giảm mức độ dễ bị tổn thương, tăng khả năng phục hồi khi bị ảnh hưởng 
bởi BĐKH; 
+ Đầu tư cho hệ thống cảnh báo sớm ở các khu vực đô thị, đặc biệt là các đô thị ven biển; 
+ Có chính sách phù hợp khuyến khích cả khu vực công và tư đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng 
thích ứng với BĐKH. 
 101 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ADB (Asian Development Bank), 2009. The Economics of Climate Change in the Southeast 
Asia: A Regional Review. Manila. 
2. CIESIN (Center for International Earth Science Information Netwwork), 2006. Low 
Elevation Coastal Zone: Urban – Rural Estimates. Columbia University, New York. 
3. FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations), 2008. Water and Food 
Security. FAO Event, 26-28 February 2008. 
4. Francisco H., 2008. The Economics of and Institutions for Adaptation to Climate Change 
Impacts: A Regional Outlook for Southeast Asia. Institute of Southeast Asia Study, 
Singapore. 
5. IPCC (Intergovernmental Panel on Climate Change), 2007. Climate Change 2007: The 
Physical Science Basic. Summary for Policymakers. Geneva IPCC Secretariat. 
6. Marwan Owaygen, 2010. Mapping Climate Change Vulnerability in Southeast Asia. 
International Development Research Center. 
7. Nicholls R.J. et al., 2008. Ranking Port Cities with High Exposure and Vulnerability to 
Climate Extremes: Exposure Estimate. OECD Environmental Working Papers. No.1. Paris. 
8. Savage V.R., 2010. Sustaining Cities with Climate Change: Is there a Future for Human 
Livelihood, in World Cities: Achieving Liveablility and Vibrancy. Singapore World 
Scientific. 
9. Stern N., 2009. A Blueprint for a Safer Planet: How to Manage Climate Change and Create 
a New Era of Progress and Prosperity. London Bodley Head. 
10. The Economist, 2010. Attach the Really Quite Likeable Tomatoes. The Economist, 394/14. 
11. UNDP (United Nations Development Program), 2007. Human Development Report 
2007/08: Fighting Climate Change: Human Solidarity in a Divided World. New York. 
12. UNFCCC (UN Framework for Climate Change Convention), 2006. Technologies for 
Adaptaion to Climate Change. Adaptation, Technology and Science Program of the 
UNFCCC Secretariat. 
13. WWF (World Wild Fund for Nature), 2009. Mega-stress for Mega Cities: A Climate 
Vunerability Ranking of Major Coastal Cities in Asia. 
14. Yuen B. and L. Kong, 2009. Climate Change and Urban Planning in Southeast Asia. Survey 
and Perspectives Integrating Environment and Society. 
102 
Summary 
CLIMATE CHANGE AND SOUTHEAST ASIAN URBAN AREAS: STATUS AND 
ISSUES OF ADAPTATION APPROACH 
Tran Tho Dat and Le Thu Hoa 
National Economics University 
Urban areas, on the one hand, withness increased concentration of population and economic 
activities, which are the sources of greenhouse gases emission causing climate change; on the 
other hand, urban areas are affected by climate change and are places where activities on 
responses to climate change are initiated. Southeast Asia (SEA) is in the process of rapid 
urbanization as well as vulnerable to climate change impacts. This paper aims to identify major 
impacts of climate change on SEA’s urban areas such as sea level rise, typhoons/tropical 
cyclones, floods, water scarcity, extreme weather events, food security and environmental 
refugees. The paper also discusses the issues and challenges of adaptations, relating to the 
technology, social behavior, management mechanisms, policy oriented adaptive mechanisms, 
regional capacity and point of view of Southeast Asia countries. Based on the regional context 
comparisons, the paper also draws some limitations and implications to climate change 
adaptation policy in Vietnam’s urban areas. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
bien_doi_khi_hau_va_cac_khu_vuc_do_thi_o_dong_nam_a_thuc_trang_va_cac_van_de_trong_tiep_can_thich_un.pdf