Giá tham chiếu của các cổ phiếu trong ngày đầu tiên đưa vào giao dịch được xác định căn cứ vào giá trị sổ sách (book value) của các doanh nghiệp. Nhưng thực tế, cách tính giá trị doanh nghiệp hiện nay lại không phản ánh đầy đủ các giá trị tài sản công ty như quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế doanh nghiệp, thương hiệu. . . nên giá cổ phiếu tham chiếu khi niêm yết không phản ánh đúng giá trị thực của công ty, thấp hơn nhiều so với giá trị thực. Mặt khác việc xác định giá tham chiếu này còn không tính đến yếu tố cung - cầu trên thị trường, không phản ánh nhu cầu về cổ phiếu đó vào giá tham chiếu. Do đó, khi các nhà đầu tư nhận thấy rằng giá cổ phiếu hiện nay là quá rẻ so với giá trị thực của nó tất yếu sẽ dẫn đến việc đổ xô vào mua, cầu tăng lên nhanh chóng.
Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới thì việc giá chứng khoán tăng trong thời gian đầu và giảm trong thời gian sau đối với thị trường chứng khoán mới ra đời là tất yếu. Điều đó được giải thích bởi quy luật biến động giá của các IPO (Initial Public Offerings-các chứng khoán phát hành lần đầu ra công chúng), theo đó, các IPO luôn được định giá thấp hơn so với giá trị dù sử dụng phương pháp định giá nào (chiết khấu theo luồng cổ tức, tiền mặt hay dựa trên giá trị tài sản ròng). Do nhiều nguyên nhân mà các IPO này bị định giá thấp, trong trường hợp đối với Việt Nam thì các IPO được định giá thấp là do việc xác định giá tham chiếu của cơ quan quản lí.
82 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo, các nhà đầu tư ồ ạt bán ra cổ phiếu REE dẫn đến giá cổ phiếu này giảm, đồng thời kéo theo giá một số cổ phiếu khác cũng giảm trong vài phiên. Tuy nhiên, sau khi nghe ngóng thăm dò mà không có thông tin xấu nào được phát ra cả, nhà đầu tư dần dần ổn định ngay trở lại và giá cổ phiếu REE tiếp tục tăng.
Tuy nhiên, tâm lí của các nhà đầu tư không ảnh hưởng đến xu hướng của thị trường mạnh mẽ và bất thường như các giai đoạn trước. Các nhà đầu tư phản ứng trước các thông tin của thị trường hoàn toàn là điều tất yếu, nó thể hiện sự hoạt động bắt đầu hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam, chẳng hạn như việc Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh cho phép Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài hay việc Công ty cổ phần cơ điện lạnh quyết định tăng vốn điều lệ nên tặng cho các cổ đông nắm giữ cổ phiếu REE cứ 2 cổ phiếu cũ thì được tặng thêm một cổ phiếu mới; thông tin về việc thị trường giao dịch bảng 2 dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sắp được thành lập cũng tạo thêm tâm lí tốt cho các nhà đầu tư về khả năng phát triển của thị trường. Các nhà đầu tư đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới các thông tin từ phía các công ty niêm yết để ra các quyết định đầu tư, đưa thị trường dần dần hoạt động mang tính chất “thị trường” hơn, giúp cho thị trường chứng khoán nước ta phát triển và ổn định.
IV. Thực trạng các giải pháp vận dụng để khắc phục sự biến động giá cổ phiếu trong thời gian qua
Thay đổi biên độ dao động giá
Một trong những nhân tố có tác động mạnh, hình thành nên xu thế và chu kì thị trường đó là việc thay đổi biên độ dao động giá từ +/-2% lên +/-7% vào phiên giao dịch thứ 133 ngày 12/6/2001 và từ +/-7% về +/-2% vào phiên giao dịch 182 ngày 10/10/2001. Suốt 6 tháng đầu năm 2001, thị trường luôn trong tình trạng tăng nhiệt. Giá các loại chứng khoán tăng dần đều 2% qua từng phiên giao dịch, đến mức đã có những cảnh báo về hiện tượng giá “bong bóng”. Cung luôn trong tình trạng thấp hơn cầu. Chỉ số VN – index tăng nhanh trong một thời gian dài. Chỉ tính riêng tháng 6/2001, chỉ số VN – index tăng tới 96,54 điểm, bằng tốc độ tăng của cả 5 tháng trước đó cộng lại (từ tháng 8/2001 đến 12/2001), đạt mức cao nhất 571,04 điểm vào phiên giao dịch ngày 25/6/2001.
Khi áp dụng biên độ giao dịch mới là +/-7%, xu hướng thị trường bắt đầu có dấu hiệu đổi chiều. Tốc độ tăng giá chứng khoán giảm dần, khối lượng giao dịch qua các phiên tăng dần, khoảng cách cung cầu rút ngắn. Xu hướng này đã được thể hiện rõ qua các phiên giao dịch tháng 8, 9, 10 tới những tháng cuối năm 2001 khi biên độ dao động giá quay trở lại +/-2% /phiên, thị trường vẫn theo quán tính cũ.
Quy định giới hạn khối lượng đặt lệnh mua
Việc quy định số lượng tối đa 2.000 chứng khoán cho một lệnh đặt mua trong một phiên giao dịch đối với nhà đầu tư được áp dụng vào phiên 136 ngày 22/6/2001. Liên tục các phiên giao dịch của tháng 7, 8, 9 kể từ sau khi bắt đầu áp dụng quy định này, khối lượng và giá giao dịch qua các phiên thu hẹp lại, khiến tổng khối lượng và giá trị giao dịch tứng tháng giảm xuống. Tốc độ tăng của VN – index chững lại và có xu hướng giảm xuống. Việc giới hạn khối lượng đặt lệnh mua đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nhỏ có thể tham gia giao dịch và phần nào đã điều hoà được cung cầu trên thị trường, từ đó bình ổn lại giá cổ phiếu trên thị trường.
Tuy nhiên, việc làm này đã làm cho không khí giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có phần trầm lắng. Đến ngày 10/8/2001 khi Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh quy định bãi bỏ giới hạn đặt khối lượng đặt mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán mới khởi động trở lại, nhưng phải đến tháng 10 khi biên độ giao động giá là +/-2% được áp dụng trở lại thì thị trường mới bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trở lại.
Thành lập quỹ bình ổn thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang bị chi phối bởi các nhà đầu
tư nhỏ lẻ. Do vậy, chỉ cần có một cú sốc nhẹ trên thị trường cũng có thể gây ra sự sụt giảm lớn đối với giá cổ phiếu.
Một quỹ bình ổn thị trường cổ phiếu dùng để bình ổn giá cổ phiếu trên thị trường thông qua việc kích cầu trên thị trường cổ phiếu. Các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm và các công ty niêm yết sẽ cung cấp vốn cho Quỹ bình ổn. Quy mô của quỹ vào khoảng từ 5% đến 10% giá trị thị trường. Trong trường hợp thị trường chứng khoán rơi vào tình trạng hoạt động kém hiệu quả trong thời gian dài, Quỹ bình ổn sẽ tham gia vào hoạt động mua chứng khoán. Hoạt động của quỹ chịu sự quản lý và giám sát của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước.
Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nhiệm vụ tự doanh
Hiện nay, nghiệp vụ tự doanh của các công ty chứng khoán chủ yếu mới chỉ tập trung vào các trái phiếu và một số lượng ít các cổ phiếu. Đây là nghiệp vụ rất quan trọng không chỉ giúp các công ty chứng khoán tạo ra thu nhập mà còn góp phần tạo ra một nhà đầu tư lớn có vai trò nhất định trên thị trường. Tuy nhiên, do vốn điều lệ thấp, kinh nghiệm còn ít, các công ty không thể quá mạo hiểm trong việc kinh doanh chứng khoán. Do đó, các công ty chứng khoán cần phải tăng vốn điều lệ, hiện đại hoá công nghệ, cơ sở vật chất kĩ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cho cán bộ công ty, có kế hoạch đào tạo thích hợp nhằm giúp cho việc cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán đạt hiệu quả cao.
Kết hợp một số biện pháp khác nhau
Ngoài các biện pháp ở trên, Uỷ ban chứng khoán nhà nước còn phối kết hợp các biện pháp khác nhau nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh như: miễn giảm thuế thu nhập cho các cá nhân đầu tư vào thị trường chứng khoán, tăng phiên giao dịch từ 3 lên 5 phiên một tuần, rút thời gian thanh toán từ T+4 xuống còn T+3, cho phép mọi chủ thể tham gia thị trường đều được phép giao dịch thoả thuận, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua bán tất cả các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam...đã có tác dụng bước đầu kích cầu thực tế cho thị trường, góp phần vào việc bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể khẳng định rằng, những biện pháp tương đối đồng bộ của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã phát huy hiệu quả, tuy nhiên cầu thực tế của thị trường chứng khoán vẫn còn yếu. Để chuyển một lượng cầu tiềm năng còn khá lớn trở thành cầu thực tế trong tương lai, ngoài sự điều tiết của thị trường, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần tiếp tục đưa thêm các biện pháp kích cầu cho thị trường như tăng lần khớp lệnh, giảm chi phí môi giới cho khách hàng, cho phép đặt lệnh gián tiếp qua điện thoại, Fax, sớm ổn định thị trường địa ốc....nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Chương III
Một số giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Dự báo sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai
Căn cứ vào nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là “Đẩy mạnh công ngghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Phát triển nhanh và vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn trung và dài hạn. Tổ chức vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả..”
Về hệ thống hoạt động: Hiện có 19 công ty niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến năm 2005 sẽ có 100 công ty niêm yết và đến năm 2010 sẽ có 500 công ty niêm yết. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội dự kiến mở cửa hoạt động vào năm 2003 với 10 đến 15 công ty niêm yết và đến 2010 sẽ có 700 công ty niêm yết trên thị trường này.
Về trái phiếu và cổ phiếu công trình, dự kiến năm 2005 phát hành từ 5 đến 7 ngàn tỷ đồng và năm 2010 là 10 đến 15 ngàn tỷ đồng đưa vào giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
Về quy mô thị trường: Năm 2002 tổng giá trị thị trường đạt 0,34% GDP, dự kiến năm 2005 sẽ là từ 4% đến 5% GDP tương đương với 25.000 đến 37.000 tỷ đồng. Năm 2010, quy mô thị trường vào khoảng 110.000 – 190.000 tỷ đồng, bằng 15% đến 20% GDP.
Về tổ chức trung gian tài chính: Quy mô và số lượng của tổ chức trung gian tài chính phụ thuộc vào quy mô thị trường. Năm 2002 có 9 công ty chứng khoán, dự kiến năm 2005 sẽ có 15 đến 20 công ty chứng khoán, 3 đến 5 công ty quản lý quỹ đầu tư, 2 công ty định mức tín nhiệm. Năm 2010, dự kiến có 30 đến 36 công ty chứng khoán, 5 đến 10 công ty quản lý quỹ, 2 đến 3 công ty định mức tín nhiệm. Về quỹ đầu tư, dự kiến có 3 đến 7 quỹ đầu tư vào năm 2005 và 10 đến 16 quỹ đầu tư vào năm 2010.
Dự báo sự phát triển thị trường chứng khoán từ nay đến năm 2010 phải đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
- Một là: Huy động vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển, đồng thời thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
- Hai là: ổn định và phát triển thị trường chứng khoán, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam.
- Ba là: Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường, bảo vệ người đầu tư hiệu quả, thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
Các giai đoạn phát triển
Giai đoạn 1: Từ nay đến 2005
Từng bước phát triển quy mô và phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán, đưa thị trường vào hoạt động ổn định, minh bạch, công bằng và hiệu quả.
Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động thị trường chứng khoán tiến tới chuẩn bị xây dựng luật chứng khoán.
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường bao gồm nâng cao năng lực kỹ thuật công nghệ, xây dựng các định chế trung gian tham gia thị trường.
Giai đoạn 2: Từ năm 2006 đến năm 2010
Nâng cao chất lượng hoạt động và cung cấp các dịch vụ tài chính của
thị trường.
Mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, tăng mạch số lượng hàng hoá và các nhà đầu tư.
Khuyến khích cạnh tranh, tăng cường chất lượng quản trị công ty, thúc đẩy hội nhập quóc tế.
Dự báo sự biến động giá cổ phiếu
1. Cơ sở dự báo
a, Sử dụng biểu đồ
Các nhà kinh tế đã từng bác bỏ việc sử dụng các mô hình phân tích những dữ liệu trong quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, các biểu đồ giá cổ phiếu mà các nhà phân tích thường áp dụng để dự đoán giá cổ phiếu có thể mang lại nhiều thông tin có giá trị.
Từ một thế kỷ trước đây, Charles Dow – nhà sáng lập ra chỉ số Dow Jones hiện nay đã phát minh ra thuyết Dow để dự đoán xu hướng giá cổ phiếu. Các biểu đồ được một số nhà đầu tư thế giới nổi tiếng thế giới sử dụng như Stanley Druckenmiller – người đang quản lý quỹ phòng ngừa rủi ro Quantum của George Soros và Jefrey Vinik – người đã từng quản lý quỹ tương hỗ Magellan. Các nhà kinh tế nghiên cứu thị trường tài chính vẫn xem phân tích kỹ thuật như một phép thần chú và có nhiều mối quan hệ với phân tích cơ bản mang tính chính xác như chiêm tinh với thiên văn học. Bằng việc sử dụng giá cổ phiếu của Mỹ trong các năm từ 1962 đến 1996, Andrew Lo và hai đồng tác giả đã kiểm tra khả năng dự báo của năm cặp mô hình phân tích kỹ thuật đang được sử dụng rộng rãi: Đỉnh dầu và vai, đỉnh đầu và vai lộn ngược, đỉnh và đáy rộng, ba đỉnh và đáy, hai đỉnh và đáy. Kết quả cho thấy, các mô hình phân tích kỹ thuật hầu như xảy ra thường xuyên hơn nếu chúng thực sự là các sự kiện ngẫu nhiên.
Nhìn chung, các biểu đồ chứa đựng các thông tin bổ ích về giá cổ phiếu trong tương lai. Tuy nhiên, có sự khác nhau rất lớn giữa các kết quả tại các thị trường khác nhau. Với những cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE) và Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (AMEX), chỉ có bảy trong số 10 mô hình phân tích kỹ thuật có đủ khả năng dự báo để thống kê. Đối với cổ phiếu trên thị trường Nasdaq thì cả mười mô hình đều có ý nghĩa quan trọng về mặt thống kê.
Do các nhà đầu tư đã sử dụng biểu đồ trong dự đoán giá cổ phiếu khoảng một trăm năm nay và chúng vẫn chứng tỏ tính hữu dụng của mình, nên khả năng dự đoán của các mô hình sẽ còn mãi mãi. Các mô hình truyền thống trong phân tích kỹ thuật vẫn còn khá sơ sài và được xác định bởi những cái có thể nhìn thấy.
b, Sử dụng luận thuyết Dow
Theo luận thuyết Dow, vì thị trường chứng khoán được coi như là một biển nước, sự lên xuống của giá chứng khoán giống như làn nước thuỷ triều. Trong đó, những đợt sóng lớn với đỉnh cao và đáy sâu (Wave and troughts) và những đợt gợn sóng nhỏ (Ripple’s splashes). Mỗi trào lưu của thị trường chứng khoán có 3 chuyển động.
Trào lưu chính (Primary trend)
Được coi như cả khối nước thuỷ triều bao trùm đại dương (thị trường chứng khoán) trong thời gian dài từ 1- 4 năm, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng hơn những đợt sóng lớn và những gợn sóng nhỏ (xu thế dài hạn)
Phản ứng nghịch (Secondary reactions or reversals)
Tự như những đợt sóng lớn, tuy có lúc đi ngược lại nước thuỷ triều, nhưng về căn bản vẫn lên hay xuống theo trào lưu chính (Xu thế trung hạn).
Sự lên xuống hàng ngày (daily fluctuation) chỉ là những gợn sóng nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đến trào lưu chính (Xu thế ngắn hạn).
Theo Dow, trào lưu chính có ảnh hưởng quan trọng nhất. Cần xác định xem lúc nào trào lưu lên giá (bull) và lúc nào có trào lưu xuống giá (bear). Muốn xác định một trào lưu phải căn cứ vào dấu hiệu lên hay xuống giá chứng khoán của cả hai ngành: kỹ nghệ và vận tải – một ngành sản xuất ra hàng hoá và một ngành vận chuyển hàng hoá đó.
- Nếu cả hai bờ biển (kỹ nghệ và vận tải) cùng tiếp xúc với một đại dương (thị trường chứng khoán), nhưng chỉ có một bên có nước phủ kín còn bờ bên kia nước vẫn chưa lên đầy thì chứng tỏ nước thuỷ triều vẫn chưa lên, tức chưa có bull.
- Chỉ khi nào thấy cả hai bờ cùng có nước bao trùm hoặc cùng có nước rut xuống trong một thời gian khá lâu mới có thể chắc chắn là nước thuỷ triều đang lên hoặc đang xuống.
- Đối với thị trường chứng khoán, khi nhóm chứng khoán của các công ty kỹ nghệ tăng giá lên cao hơn mức cũ, đồng thời nhóm chứng khoán của của các công ty ngành vận tải cũng phải tăng cao hơn mức cũ, trước khi nhóm kỹ nghệ trở về vị trí cũ, lúc đó mới xác nhận có trào lưu lên giá trên thị trường chứng khoán.
c, Sử dụng luận thuyết tăng lên – giảm xuống (The advance – decline therory)
Chỉ số tăng lên – giảm xuống đo lường số cổ phiếu đã tăng lên so với số cổ phiếu đang giảm xuống đối với một đợt giao dịch hay khoảng thời gian. Dữ liệu này có khuynh hướng trình bày hướng đi của thị trường cũng như bề rộng của một chuyển động thị trường và điều này được công bố hàng ngày.
Theo luận thuyết này, một chỉ số tăng lên – giảm xuống (nhiều cổ phiếu tăng lên hơn số cổ phiếu giảm xuống) là báo hiệu một một môi trường đầu tư có giá tăng lên. Tuy nhiên, nó được xem như môi trường đầu tư có giá hạ xuống nếu chỉ số bình quân thị trường tăng lên nhưng chỉ số tăng lên – giảm xuống có tính liên tục.
d, Sử dụng luận thuyết quyền bán tạm thời
Bán tạm thời hay bán ngắn hạn chứng khoán là việc bán chứng khoán mà người bán không sở hữu. Để thực hiện được việc chuyển giao, người bán tạm thời vay mượn chứng khoán để bán. Theo luận thuyết này, cuối cùng những người bán tạm thời khác lo sợ giá cổ phiếu tăng lên trong tương lai, sẽ bảo vệ bán tạm thời của họ bằng cách tạo ra sự ngăn chặn hướng lên bổ sung thêm cổ phiếu (thường gọi là một giới hạn bán tạm thời). Vì vậy một quyền bán tạm thời cao được xem như báo hiệu giá lên.
Dự báo giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới
Trong gần một năm đầu hoạt động, thị trường luôn ở trong tình trạng giá lên do cầu lớn hơn nhiều lần cung với chỉ 5 loại cổ phiếu niêm yết chính thức tại trung tâm giao dịch, gồm 32.117.840 cổ phiếu trong đó lại có tới 60%-70% là không được phép giao dịch (cổ phiếu ngân quỹ, cổ phiếu của Nhà nước, cổ phiếu của thành viên hội đồng quản trị công ty niêm yết) thì không thể đáp ứng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư ngày càng gia tăng trên thị trường. Cung ít-cầu nhiều ắt dẫn đến tình trạng giá lên, đó là quy luật cung - cầu của thị trường, giá càng lên, lượng cầu càng tăng do cứ mua vào phiên trước là phiên sau đã có lãi, thị trường chứng khoán Việt Nam gần như quá tải trước các nhu cầu của người đầu tư. Các công ty chứng khoán phải đưa ra giải pháp tình thế là bốc thăm để đặt lệnh, mà ở đây chủ yếu là lệnh mua. Chỉ số VN-Index đạt đến mức đỉnh điểm là 571.04 điểm vào phiên giao dịch thứ 137 ngày 25/06/2001, một mức điểm mà thị trường chứng khoán các nước khác cũng phải mất nhiều năm mới có thể đạt được.
Việc thiếu hàng trầm trọng đó diễn biến trong một thời gian dài (gần một năm), cho đến 18/07/2001, cổ phiếu SGH của Công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn được đưa vào giao dịch trên thị trường chính thức. Nhưng đấy cũng lại là thời điểm mà giá cổ phiếu đang trong đà giảm xuống nên không giống như các loại cổ phiếu khác là tăng giá liên tục trong mấy chục phiên giao dịch, cổ phiếu của công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn chỉ tăng giá liên tục được trong 11 phiên rồi tiếp tục rơi vào vòng xoáy xuống giá qua từng phiên giao dịch của toàn bộ thị trường. Đến ngày 05/10/2001, chỉ số VN-Index giảm xuống còn 203,12 điểm, giảm 367,92 điểm so với thời điểm cao nhất. Sự xuống giá liên tục chủ yếu là do tâm lí bất ổn của các nhà đầu tư trước các biện pháp hành chính của cơ quan quản lí nhà nước. Hầu hết các cổ phiếu đều giảm giá quá nửa, điều đó cũng có nghĩa là một số lượng lớn các nhà đầu tư đã mất đi quá nửa số vốn đầu tư của mình.
Biểu đồ 4: Biến động giá cổ phiếu từ 28/7/2000 đến 31/07/2002
Nguồn: Công ty chứng khoán Công Thương
Đến đầu tháng 10/2001, giá cổ phiếu bắt đầu tăng trở lại do có sự điều chỉnh biên độ giao động giá từ 7% xuống 2%, các nhà đầu tư đã bắt đầu nghĩ đến một giai đoạn tăng giá liên tục mới nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Đợt tăng giá này chỉ kéo dài được 19 phiên giao dịch, trong hơn một tháng, từ 08/10/2001 đến 21/11/2001. Sau đó, một loạt cổ phiếu mới được ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp phép niêm yết đã tăng lượng hàng lên một cách dồn dập, gây hoang mang cho các nhà đầu tư làm cho giá cổ phiếu tiếp tục giảm đến mức thấp nhất từ trước đến nay, VN-Index đạt 180,73 điểm vào phiên thứ 246 ngày 11/03/2002, trong vòng 17 phiên giao dịch thì có tới 16 phiên chỉ số VN-Index giảm.
Trong các tháng 4, 5, 6 và 7/2002, giá cổ phiếu không còn biến động một chiều như các giai đoạn trước nữa. Có những đợt giá cổ phiếu tăng liên tục trong 15 đợt hoặc giảm liên tục trong vòng 10 đợt hoặc hơn nhưng đó không phải là xu thế chính của thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau gần hai năm đầy biến động đã bắt đầu dần ổn định trở lại. Trong một số phiên gần đây, giá cổ phiếu tăng giảm liên tục theo chu kì ngắn trong một vài phiên chứ không theo một chiều như trước kia nữa, báo hiệu một giai đoạn mới đầy triển vọng cho một thị trường chứng khoán còn non trẻ của nước ta.
Nhìn vào biểu đồ biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán trong thời gian vừa qua, dự báo trong thời gian tới, giá cổ phiếu biến động không nhiều, với chu kì ngắn, chỉ dao động nhỏ và giá cổ phiếu dần trở về với giá trị thực của nó
III. Một số giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
1. Nhóm giải pháp tăng cung chứng khoán niêm yết
a, áp dụng nhiều hơn các biện pháp khuyến khích về thuế đối với các công ty mới niêm yết
Hiện tại, các công ty niêm yết được miễn 59% thuế thu trong vòng 2 năm, trong khi đó các công ty cổ phần hoá được miễn thuế thu nhập trong vòng 1 năm và giảm 50% thuế thu nhập trong hai năm tiếp theo.
Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường vốn, hỗ trợ chính sách hiệu quả từ chính phủ là điều kiện tiên quyết trong việc phát triển thị trường vốn. Do đó, chính sách thuế là phương tiện hữu hiệu nhất thể hiện ý chí của nhà nước, Chính phủ của nhiều nước có thị trường mới nổi đã sử dụng chính sách thuế để phát triển những khu vực kinh tế nhất định. Nhằm khuyến khích hơn nữa việc các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán, các biện pháp ưu đãi thuế sẽ tiếp tục được áp dụng trong thời gian lâu hơn. Ví dụ như, ưu đãi 50% thuế trong vòng năm năm sẽ được
b, Thắt chặt mối quan hệ giữa cổ phần hoá và niêm yết
Việc phân phối cổ phiếu ra công chúng của các doanh nghiệp nhà nước không cần thiết phải thông qua IPO nhằm mục đích niêm yết trên thị trường cổ phiếu tập trung. Doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá thường bán cổ phiếu trực tiếp ra công chúng thông qua quảng cáo trên báo chí, tránh sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán nhà nước theo nghị định 48. Ngoài ra, người quản lý ở các doang nghiệp Việt Nam còn rất e ngại đối với việc niêm yết. Nói cách khác, quá trình cổ phần hoá bị tách rời khỏi hoạt động IPO và niêm yết. Mặc dù vậy, hoạt động IPO cần đảm bảo thả nổi các cổ phiếu được chào bán trên thị trườngcp chính thức nhằm tạo ra cơ hội hoàn vốn bằng cách bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Giải pháp trước tiên cho vấn đề này là làm cho các tiêu chuẩn cổ phần hoá đồng bộ với các tiêu chuẩn niêm ýet tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đồng thưòi bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước đáp ứng được các điều kiện niêm yết phải thực hiện niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thông qua chào bán lần đầu ra công chúng- IPO theo quy định của Nghị định 48 nhằm đảm bảo tính thanh khoản của cổ phiếu được chào bán.
Đối với các công ty cổ phần hoá, các biện pháp ưu đãi về thuế bổ sung sẽ được áp dụng tuỳ thuộc vào khoảng thời gian giữa quá trình cổ phần hoá và niêm yết. Trong trường hợp niêm yết trong vòng một năm sau khi cổ phần hoá, công ty được hưởng ưu đãi thuế thêm một năm nữa.
c, Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các công ty niêm yết trong việc vay vốn ngân hàng
Hiện nay không có khuyến khích nào đối với công ty niêm yết trong lĩnh vực vay vốn ngân hàng. Tình trạng tài chính và hoạt động của một công ty niêm yết là tương đối ổn định và đáng tin cậy do tính minh bạch được đảm bảo hơn so với các công ty niêm yết. Một ngân hàng cho vay mở rộng phạm vi cung cấp tín dụng cho một công ty niêm yết phải chịu rủi ro ít hơn so với việc cung cấp tín dụng cho các công ty không niêm yết. Do đó, công ty niêm yết xứng đáng được hưởng ưu đãi về lãi suất ví dụ như ưu đãi về lãi suất cơ bản, kỳ hạn khoản vay và hạn mức tín dụng...Ngân hàng cho vay đòi hỏi công ty đi vay phải thế chấp tài sản đối với khoản vay. Tài sản thế chấp của công ty niêm yết đối một khoản vay ngân hàng sẽ được định giá cao hơn so vơí tài sản của một công ty không niêm yết. Về vấn đề này cần có sự thoả thuận và phối hợp với phía Ngân hàng Nhà nước.
d, Khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội như là một thị rường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mặc dù hiện nay có hàng trăm doanh nghiệp vừa và nhỏ với các cổ đông bên ngoài không thể đáp ứng các quy định về niêm yết và cũng không có một thị trường chứng khoán chính thức nào để giao dịch các chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Chính phủ đã quyết định thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thành một thị trường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có từ 50 cổ đông bên ngoài công ty. Ước tính có khoảng 400 công ty cổ phần hoá và vài nghìn công ty cổ phần tư nhân đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch Hà Nội.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính đến yếu tố rủi ro
cao và lợi nhuận kỳ vọng cao, thị trường dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thiết lập tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tuy nhiên, thị trường này cần có sự phân hoá nhất định đối với sàn giao dịch thứ nhất là trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, trên cả hai khía cạnh quản lý và hoạt động.
e, Cho phép các công ty liên doanh chuyển đổi thành công ty cổ phần
Ước tính có khoảng 3000 công ty liên doanh đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, một công ty liên doanh có thể được tổ chức dưới hình thức một công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của luật, mà công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
Nếu công ty liên doanh được phép phát triển thành công ty cổ phần thì sẽ có một số lượng lớn các công ty liên doanh muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán. Về vấn đề này, luật Công ty liên doanh cần được sửa đổi . Cần có sự phối hợp điều chỉnh giữa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tư pháp điều chỉnh.
g, Khuyến khích các công ty niêm yết chào bán quyền mua chứng khoán dài hạn
Không có một ưu đãi về thuế nào được áp dụng chào bán các quyền mua chứng khoán của các công ty niêm yết. Ngược lại, có rất nhiều quy định về việc chào bán quyền mua chứng khoán. Hiện tại, một công ty niêm yết không được phép phát hành thêm cổ phiếu vượt quá lượng cổ phiếu đang lưu hành, hoặc việc phát hành thêm chỉ được thực hiện ít nhất một năm sau đợt phát hành thêm trước đó. Kết quả là chỉ có một công ty niêm yết là HAPACO có thể phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn trong thời gian vừa qua.
Từ góc độ công ty, cần huy động vốn thông qua cổ phiếu hơn là huy động vốn thông qua các khoản vay ngân hàng, vì mục đích chính của việc niêm yết là tài trợ thông qua thị trường cổ phiếu. Do đó, cần khuyến khích công ty niêm yết huy động vốn thông qua hoạt động chào bán quyền mua chứng khoán dài hạn bằng cách sử dụng chính sách hỗ trợ và các biện pháp từ phía chính phủ.
Những quy định không cần thiết về việc chào bán quyền mua chứng khoán của một công ty niêm yết được đề cập ở trên cần được bãi bỏ càng sớm càng tốt nhằm khuyến khích các công ty niêm yết phát hành những cổ phiếu mới. Định hướng chính sách của thị trường chứng khoán Việt Nam cần phải dựa trên nền tảng công bố thông tin đầy đủ hơn là dựa trên chơ chế quản lý theo những chuẩn mực định sẵn.
h, Xây dựng cơ chế đăng ký trước đối với hoạt động phát hành cổ phiếu
Hiện nay, không có một phương tiện nào để các công ty niêm yết thực hiện việc phát hành các quyền mua chứng khoán dài hạn một cách tiện lợi
Trong môi trường biến động thường xuyên, các công ty hiện nay cần có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối với các biến đổi có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình. Chỉ khi các công ty có thể có khả năng tiếp cận với thị trường vốn trong thời gian ngắn thì mới có thể huy động vốn cho cơ hội đầu tư mới.
i, Sử dụng các phương tiện của trung tâm giao dịch chứng khoán nhằm phân phối các chứng khoán phát hành trong quá trình cổ phần hoá
Hiện nay, cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được bán cho công chúng thông qua hình thức quảng cáo trên báo chí trong quá trình cổ phần hoá. Trong trường hợp này, công ty thường tiến hành phát hành trực tiếp. Ngoài hoạt động chào bán ra công chúng kể trên, đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán cũng được sử dụng như một phương thức chào bán ra công chúng. Các thành viên tham gia đấu giá giới hạn ở các công ty chứng khoán có mạng lưới Marketing rộng.
2. Nhóm biện pháp khai thác cầu
a, Thiết lập công ty tài chính Chứng khoán
Tính thanh khoản cao trên thị trường vốn cho phép các công ty trong nước huy động vốn ở mức giá cạnh tranh và chi phí hợp lý. Các công ty Chứng khoán ở Việt Nam có nguồn vốn hạn chế nên trên thị trường còn thiếu vắng hoạt động giao dịch tích cực. Một cách thức để tăng cường tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán là tạo điều kiện cho các hoạt động tài trợ liên quan đến chứng khoán. Hiện nay, các ngân hàng có thể cung cấp tài chính cho các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán cung cấp các loại tín dụng khác nhau cho các hoạt động giao dịch chứng khoán. Chính xác hơn công ty này cung cấp các hoạt động tài trợ liên quan đến chứng khoán cho nhà đầu tư hoặc công ty chứng khoán nhằm thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, mua và nắm giữ một số chứng khoán nhất định. Công ty chứng khoán góp phần điều chỉnh cung và cầu về tài trợ chứng khoán, kích hoạt hoặc bình ổn thị trường với chức năng cung cấp tài chính của mình.
b, Khuyến khích các nhà đầu tư tích cực tham gia hơn vào thị trường chứng khoán
Các nhà đầu tư cá nhân
Thị trường chứng khoán còn là một khái niệm mới mẻ đối với đa số người dân Việt Nam, ngay cả đối với những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh. Do đó cần tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán tới mọi người dân để việc đầu tư trên thị trường chứng khoán thực sự trở thành một hình thức sử dụng số tiền nhàn rỗi để kiếm lời mới của dân chúng. Nâng cao kiến thức cho người đầu tư còn góp phần xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, hiệu quả đối với cả công ty phát hành lẫn người đầu tư.
Mặt khác, đa số công chúng đầu tư còn đang trong tình trạng thăm dò, chờ đợi những diễn biến trên thị trường nên nhu cầu đầu tư vào thị trường chưa cao. Để thu hút sự quan tâm của công chúng đầu tư, cần có các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế hay hỗ trợ về mặt tài chính, tín dụng đối với người đầu tư, mở rộng việc cung cấp các dịch vụ của các công ty chứng khoán đối với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia trên thị trường.
Tạo niềm tin cho người đầu tư bằng việc tạo ra một khung pháp lí đồng bộ, rõ ràng, xây dựng định hướng, chiến lược phát triển rõ ràng cho thị trường, hệ thống quản lí, giám sát thị trường hiệu quả đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư khi tham gia thị trường. Đồng thời, nâng cao chất lượng của hệ thống giao dịch của trung tâm, tăng thêm các dịch vụ cung cấp cho khách hàng từ phía các công ty chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán của công chúng.
Các nhà đầu tư có tổ chức
Đây là những tổ chức kinh doanh lớn, có điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu, phân tích thị trường, mặt khác lại tập trung được nguồn vốn lớn do đó sẽ là nguồn cầu lớn, có ảnh hưởng nhất định tới thị trường. Mặt khác, các tổ chức đầu tư lớn còn là cầu nối gián tiếp giúp mọi người dân dù có lượng vốn nhỏ, trình độ hiểu biết về lĩnh vực chứng khoán còn ít cũng có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán thông qua các Quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ hưu trí. . .Vì vậy cần thúc đẩy việc thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lí Quỹ, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính lớn như các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư. . . bằng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, phí. . . đồng thời xây dựng một khung pháp lí chặt chẽ, rõ ràng, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Các nhà đầu tư nước ngoài
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất lớn cho sự
phát triển và ổn định của thị trường chứng khoán vì đây là lực lượng các nhà đầu tư có nhiều kiến thức, kinh nghiệm về đầu tư trên thị trường chứng khoán và có lượng vốn đầu tư khá lớn, có những ảnh hưởng nhất định đối với thị trường cả về khối lượng giao dịch thực tế mà họ tham gia lẫn ảnh hưởng về tâm lí đối với các nhà đầu tư trong nước.
Theo Nghị định 48/NĐ - CP thì tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập công ty liên doanh với đối tác Việt Nam. Tuy đây cũng là một giải pháp phổ biến đối với thị trường chứng khoán nhiều nước trên thế giới nhưng trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa có hiệu lực thì việc hạn chế sự tham gia của đối tác nước ngoài một cách chặt chẽ là không phù hợp.
Mặt khác, theo luật đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ có thể được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và không được phép chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Theo Quyết định 139/1999/QĐ-TTg, tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu của tổ chức, cá nhân nước ngoài còn bị quy định chặt chẽ . Những quy định này đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, không tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Việc hạn chế đó trong điều kiện những năm vừa qua có thể phùu hợp nhưng trong giai đoạn tới, để thực hiện các cam kết mà Việt Nam đã kí với Mỹ, khu vực và các nước khác, cơ chế pháp luật của chúng ta cần được sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn, dần dần xoá bỏ sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam.
Sự mâu thuẫn giữa Luật đầu tư nước ngoài và Quyết định 139/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về tỉ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam: theo quyết định 139 thì tỉ lệ vốn góp của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán kiên doanh tối đa là 30% trong khi đó theo Luật đầu tư nước ngoài, thì bên nước ngoài cần có tối thiểu 30%, tạo ra khó khăn cho các công ty nước ngoài muốn tham gia kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam, chúng ta cần chỉnh sửa những mâu thuẫn như thế trong các văn bản luật để tạo khung pháp lí chặt chẽ cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài ra, cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác khuyến khích dự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như Quỹ đầu tư, Công ty quản lí Quỹ, khuyến khích thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài và dần dần hình thành Qũy đầu tư chứng khoán của Việt Nam.
c, Phát triển chính sách hỗ trợ cho nhà đầu tư nhỏ lẻ
Để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể bình ổn trong tương lai, việc nhanh chóng phát triển các nhà đầu tư nhỏ lẻ là vấn đề thiết yếu. Tuy nhiên các nhà đầu tư nhỏ lẻ lại không tiếp cận thị trường một cách dễ dàng.
Do đó, cần tăng cường khả năng tiếp cận thị trường bằng cách nới lỏng quy định đối với việc mở tài khoản giao dịch. Mức thuế đối với thu nhập cần giảm hơn nữa và giao dịch đối với nhà đầu tư cá nhân nên giảm hơn nữa, đặc biệt thị trường chứng khoán cần phải được xúc tiến hơn nữa với các hoạt động đầu tư quy mô nhỏ thông qua củng cố các mối quan hệ với nhà đầu tư.
d, Nới lỏng hạn chế về đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay, quy định hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đối với các công ty niêm yết là 20%, hầu hết các công ty niêm yết đều đạt tỷ lệ này.
Để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia hơn nữa vào thị trường chứng khoán Viẹt Nam, mức trần giới hạn đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài cần được bãi bỏ dần dần, nhằm tránh những ảnh hưởng tiêu cực tới luồng tiền nóng chảy vào nền kinh tế quốc gia, thị trường ngoại hối và thị trường vốn.
Bên cạnh việc nới rộng mức trần đầu tư nước ngoài, những nỗ lực khác như xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường vững mạnh, thiết lập tổ chức thanh toán bù trừ chứng khoán độc lập, tăng tỷ lệ lưu ký tập trung, đăng ký theo tên đại diện...được coi là những nhân tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
3. Nâng cao chất lượng, mở rộng hoạt động của các công ty chứng khoán
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có 8 công ty chứng khoán được thành lập và hoạt động, bước đầu đã cung cấp được các dịch vụ cơ bản cho thị trường vận hành tốt, an toàn. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty mới chỉ tập trung ở nghiệp vụ môi giới, các nghiệp vụ khác còn lẻ tẻ, chưa phát triển. Để xây dựng một thị trường chứng khoán vận hành hiệu quả thì vai trò của các công ty chứng khoán là rất lớn.
a, Các công ty chứng khoán phải không ngừng nâng cao, mở rộng hoạt động cả về chất lượng lẫn quy mô, tập trung phát triển thêm các nghiệp vụ
Tư vấn
Trong thời gian đầu mới hình thành thị trường chứng khoán, sự hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, do đó nghiệp vụ tư vấn có ý nghĩa quan trọng hơn giúp đỡ khách hàng trong việc tìm hiểu thị trường, đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Quản lí danh mục đầu tư
Với số lượng, chủng loại các loại chứng khoán ngày càng gia tăng trong tương lại, người đầu tư sẽ rất khó nắm bắt, lựa chọn được danh mục đầu tư thích hợp. Phát triển nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán là rất cần thiết, có vai trò định hướng cho thị trường vận hành tốt.
Bảo lãnh phát hành: cho đến nay, chưa có công ty chứng khoán nào thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh cho chứng khoán phát hành ra công chúng mà mới chỉ dừng ở nghiệp vụ làm đại lí phát hành. Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành có ý nghĩ quan trọng giúp cho việc phát hành cổ phiếu của các công ty thuận lợi hơn, đồng thời xác định giá tham chiếu chính xác, có căn cứ cơ sở rõ ràng hơn, phù hợp với các thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam để giá cổ phiếu thay đổi không quá chênh lệch như thời gian vừa qua.
b, Phát triển mở rộng mạng lưới chi, nhánh nhận lệnh của khách hàng trên nhiều tỉnh thành hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nhà đầu tư có thể tham gia thị trường.
Hiện đại hoá hệ thống giao dịch phục vụ cho hoạt động nhận và thực hiện lệnh của khách hàng, cung cấp thông tin cho khách hàng nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đầu tư của họ.
Giảm hơn nữa mức phí môi giới nhằm thu hút khách hàng tham gia trên thị trường. Hiện nay, hầu hết các công ty chứng khoán đã đưa ra được các mức phí theo cấp độ khác nhau tuỳ theo khối lượng giao dịch, tuy nhiên mức phí hiện nay vẫn còn rất cao, phổ biến là mức phí 0.5% và 0.45% trên tổng giá trị giao dịch. Con số trông có vẻ nhỏ nhưng khi khối lượng giao dịch đạt được lớn thì mức phí lại quá cao so với mức lợi nhuận mà người đầu tư có thể đạt được trong tình hình hiện nay. Để thị trường phát triển lâu dài, mức phí cần được giảm hơn nữa, hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia.
Giảm số tiền kí quỹ mua chứng khoán xuống còn khoảng 50%-70%, tiến tới giảm hơn nữa khi thị trường chứng khoán đã phát triển. Mức kí quỹ 100% hiện nay làm cho các nhà đầu tư mất nhiều cơ hội mua được cổ phiếu khi giá giảm vì không còn tiền trong tài khoản.
Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng có thể cho tạm ứng hay vay tiền mua chứng khoán.
Các công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng thương mại có thể cho phép những nhà đầu tư có tài khoản tại ngân hàng đó được phép giao dịch mà không cần mở thêm tài khoản tại công ty chứng khoán nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong giao dịch, đồng thời giúp họ quản lí tiền của mình một cách chủ động hơn.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi hơn nữa về tài chính, ưu đãi khác đối với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh và làm dịch vụ chứng khoán. Từ đó giúp các công ty chứng khoán có điều kiện giảm phí cho khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ. . .
Mở rộng thêm đối tượng được phép tham gia cung ứng dịch vụ chứng khoán nhằm tăng thêm số lượng các trung gian mua bán chính thức cho thị trường, tạo sự cạnh tranh tích cực cho các công ty chứng khoán để họ phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của mình.
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý, hệ thống hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán
a, Hoàn thiện hệ thống quản lí thị trường chứng khoán
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Nghị định 48/1998/NĐ/CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành trước khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động nên sau một thời gian vận dụng đã bộc lộ nhiều thiếu sót. Trong thời gian tới cần chỉnh sửa lại Nghị định 48 và các quy chế hướng dẫn theo hướng bao quát rộng hơn mọi hoạt động của thị trường, điều chỉnh những chỗ chưa hợp lí cho phù hợp với những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Trong tương lai, có thể xây dựng một Pháp lệnh rồi tiến tới xây dựng Luật chứng khoán riêng, từ đó làm cơ sở pháp lí cao hơn, thống nhất với phạm vi điều chỉnh rộng, giúp cơ quan quản lí có thể giám sát thị trường một cách hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các định chế tài chính trung gian hoạt động tốt, người đầu tư yên tâm đầu tư, giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, phát triển nhanh chóng, ổn định.
Xác định vai trò, trách nhiệm cụ thể của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán chỉ giám sát và quản lí vĩ mô hoạt động của thị trường chứng khoán, đưa ra các kế hoạch, định hướng chung chứ không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động cụ thể của việc giao dịch chứng khoán.
Quy định rõ trách nhiệm, phạm vi can thiệp của từng cơ quan, từng bước nâng cao năng lực, tự chịu trách nhiệm trong điều hành, tổ chức giao dịch chứng khoán của trung tâm giao dịch.
Các quyết định từ phía cơ quan quản lí phải căn cứ vào một chiến lược cụ thể đã được xác định trước, không nên thay đổi liên tục gây xáo trộn tâm lí cho các nhà đầu tư vì ngay cả khi đó là quyết định hợp lí về mặt lí thuyết nhưng do phản ứng từ phía thị trường nó lại phản tác dụng. Do đó, trước khi đưa ra quyết định nào đó thì phải phân tích kĩ thị trường và tâm lí nhà đầu tư.
Phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo, phản hồi thông tin thị trường giữa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan khác để có thể phát hiện kịp thời, xử lí nghiêm minh các vi phạm xảy ra trên thị trường, giúp cho thị trường hoạt động an toàn, hiệu quả, công bằng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng quản lí tốt, nắm bắt kịp thời các thông tin trên thị trường, có thể đưa ra các quyết sách đúng đắn góp phần ổn định thị trường.
b, Hiện đại hoá, mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động các hệ thống của Trung tâm giao dịch chứng khoán
- Nâng cấp hệ thống giao dịch, lưu kí và thanh toán bù trừ
Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hơn để phù hợp với tốc độ phát triển của thị trường. Hiện nay, hệ thống giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là hệ thống bán tự động với mạng cục bộ, năng lực giải quyết tối đa 300.000 lệnh một phiên giao dịch, quy mô tối đa 9.900 cổ phiếu một lệnh. Nếu với mục tiêu đạt được con số 300.000 tài khoản giao dịch của khách hàng tại các công ty chứng khoán trong năm 2003 thì với hệ thống giao dịch này khó có thể đạt được mục tiêu đó. Do đó, cần phải nâng cấp tính năng của hệ thống giao dịch, nhằm đạt được một số bước tiến thúc đẩy thị trường phát triển hơn, thay đổi một số quy định có ý nghĩa tích cực đối với hoạt động lâu dài của thị trường như:
- Tăng biên độ dao động lên 5%-7%, sau khi thị trường ổn định về lâu dài có thể tăng lên 10%-15%. Hầu hết các nước đều có quy định về biên độ dao động giá để bảo vệ thị trường, nhưng biên độ của họ khá cao, như Thượng Hải là , Thái lan và Kuala Lumpur là hay không quy định biên độ dao động như thị trường chứng khoán New York. Quy định biên độ dao động giá 2% như vừa rồi của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chỉ là một giải pháp tình thế tạm thời giúp ổn định thị trường trong giai đoạn đầu mới hoạt động, còn về lâu dài cần có một biên độ rộng hơn tạo tính sinh động cho thị trường, hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia, góp phần phát triển thị trường chứng khoán nước ta.
- Khớp lệnh 2-3 lần trong một phiên giao dịch và tiến tới khớp lệnh liên tục nhằm tạo sự sôi động cho thị trường, đa dạng các mức giá trong một phiên giao dịch, hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán, tăng khối lượng giao dịch, tăng quy mô cho thị trường.
- Quy định một lô cổ phiếu nhỏ hơn mức 1 lô = 100 cổ phiếu như hiện nay để mọi người dân, kể cả những người có thu nhập thấp cũng có thể tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, đồng thời để những cổ đông có cổ phiếu lẻ cũng có thể bán trực tiếp trên thị trường mà không phải bán lại cho các tay “cò” chứng khoán hay các công ty chứng khoán với giá thấp hơn, đảm bảo lợi ích cho người đầu tư.
- Đa dạng hoá các loại lệnh: hiện nay mới chỉ có lệnh mua và lệnh bán, chưa có các loại lệnh mang tính chất bảo vệ người đầu tư như lệnh dừng, lệnh giới hạn, lệnh tuỳ nghi. . .giúp các nhà đầu tư có thể linh hoạt hơn trong việc đầu tư của mình.
- Cho phép các công ty chứng khoán nhận lệnh bằng nhiều hình thức như fax, điện thoại, e-mail. . .tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng ở mọi nơi có thể giao dịch được.
- Xây dựng trung tâm lưu kí và thanh toán bù trừ độc lập, tự động hoá hệ thống lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán, đảm bảo có thể quản lí đồng thời nhiều tài khoản lưu kí hơn vì sự phát triển của thị trường trong tương lai.
- Rút thời hạn thanh toán xuống còn t+2: việc rút thời hạn thanh toán từ t+4 xuống t+3 mà trung tâm giao dịch chứng khoán vừa thực hiện quả đã là một nỗ lực lớn trong quá trình dần dần xây dựng thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả. Tuy nhiên, để đảm bảo lợi ích hơn nữa cho các nhà đầu tư, thu hút họ tham gia thị trường, đẩy nhanh quy trình thanh toán, nâng cao hiệu quả hoạt động giao dịch chứng khoán, cần phải cố gắng hơn nữa để có thể rút thời hạn thanh toán xuống còn t+2.
c, Hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường
Hiện nay, hệ thống giám sát thị trường còn thủ công nên việc giám sát còn chậm chạp, chưa hiệu quả, để xảy ra nhiều hành vi gian lận, khi phát hiện thì cũng đã muộn, việc xử lí còn chưa thật nghiêm minh.
Để đảm bảo cho thị trường vận hành an toàn, hiệu quả và phát triển trong tương lai thì phải xây dựng hệ thống giám sát thị trường hiện đại, tự động kết nối với các hệ thống khác như hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu kí, thanh toán. Từ đó có thể phát hiện ra các sai phạm nhanh chóng, rõ ràng, xử lí kịp thời, đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho thị trường chứng khoán nước ta.
d, Phát triển hệ thống cung cấp thông tin
Cùng với việc cải tiến chế độ công bố thông tin của các công ty niêm yết, cần phải nâng cấp hệ thống cống bố thông tin hiện đại, đảm bảo cung cấp thông tin cho thị trường về giao dịch trên thị trường, về các công ty niêm yết, về các trung gian thị trường, về quản lí thị trường, các văn bản pháp quy. ..
Với hệ thống cung cấp thông tin hiện nay, các nhà đầu tư không thể có đủ dữ liệu để phân tích hay đánh giá về một Công ty nào đó để làm căn cứ ra quyết định đầu tư một cách chính xác, do đó hoạt động đầu tư trên thị trường hiện nay phần nhiều phải dựa vào cảm tính. Phải xây dựng một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng rãi, thống nhất, chính xác, đầy đủ, dễ tiếp cận đối với công chúng, thông qua các phương tiện truyền thông như qua mạng internet, báo chí, tin tức hàng ngày. . . đảm bảo quyền lợi cho các nhà đâu tư khi tham gia thị trường.
5. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức với vai trò là các nhà tạo lập thị trường
Để điều tiết thị trường chứng khoán một cách vĩ mô cần sử dụng các biện pháp mang tính thị trường. Các nhà tạo lập thị trường sẽ điều hoà thị trường bằng cách mua cổ phiếu vào để tạo cầu khi giá giảm và bán ra để tạo cung khi giá tăng, giúp trấn an tâm lí nhà đầu tư, đảm bảo sự ổn định của thị trường.
- Cần khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức đầu tư. . hoặc thành lập riêng một tổ chức chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường với vai trò tạo lập thị trường.
- Thành lập hiệp hội kinh doanh chứng khoán
ở các nước khác, sau khi thị trường chứng khoán ra đời một thời gian đều có sự xuất hiện của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán với vai trò phổ biến kiến thức về thị trường chứng khoán, nghiên cứu phát triển nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, tham gia quản lí, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường, hỗ trợ các nhà kinh doanh và thị trường khi cần thiết. Việc thành lập Hiệp hội kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam là cần thiết, có vai trò điều hoà lợi ích chung, tạo điều kiện bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức cho hội viên (chủ yếu là các công ty chứng khoán, thành viên lưu kí, các chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán), đồng thời có vai trò như một market makers góp phần phát triển thị trường một cách ổn định.
6. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Quỹ hỗ trợ thanh toán
Quỹ hỗ trợ thanh toán là quỹ do Trung tâm giao dịch chứng khoán lập ra để hỗ trợ cho các thành viên khi gặp rủi ro trong thanh toán. ở Việt Nam, Quỹ hỗ trợ thanh toán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên lưu kí nhưng hầu như không hoạt động. Quy mô của Quỹ còn quá nhỏ, hoạt động của quỹ lại chưa có các văn bản quy định cụ thể, thêm vào đó thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động nên các quy định đối với các thành viên lưu kí và các khách hàng về tiền kí quỹ, về cho vay. . . rất chặt chẽ, hầu như không có rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán do đó các thành viên lưu kí chưa phải sử dụng đến tiền của Quỹ. Nhưng trong tương lai, khi thị trường chứng khoán phát triển, các dịch vụ đối với khách hàng rộng rãi hơn thì vai trò của Quỹ hỗ trợ thanh toán sẽ được phát huy.
Do đó cần đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của Quỹ, có những biện pháp hữu hiệu để Quỹ trở thành một công cụ hữu hiệu giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy các hoạt động của thị trường.
Kết luận
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong những bước đi đầu tiên còn cần phải điều chỉnh dần dần mới có thể hoạt động ổn định và thực sự hiệu quả. Sự biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua đã tác động không nhỏ đến các nhà đầu tư cũng như đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu và về sau này. Do đó, phải nhanh chóng tạo dựng lại niềm tin cho nhà đầu tư bằng các biện pháp, chính sách bình ổn giá cổ phiếu trên thị trường.
Qua một quá trình nghiên cứu tương đối tổng hợp, từ lý luận đến thực tiễn về thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu, các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, và một số biện pháp nhằm bình ổn giá cổ, đề tài đã đem lại một số kết quả nhất định, đáp ứng mục đích nghiên cứu đã đề ra:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giá cổ phiếu và biến động giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.
Đưa ra một số giải pháp nhằm bình ổn giá cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Tuy nhiên, khoá luận vẫn còn những hạn chế nhất định do hạn chế về mặt thời gian, về kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế của người viết. Do đó, em hi vọng sẽ nhận được sự góp ý chân thành từ phía các thầy giáo, cô giáo, các nhà đầu tư chứng khoán và những người quan tâm đến chứng khoán để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS – TS Nguyễn Thị Quy đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành khoá luận này.