In the period 2006 - 2013, a total of 32 trawl surveys were conducted in the
Common Fishing Zone (CFZ) between Vietnam and China in Gulf of Tonkin. A total of 1,060 trawl
samplings (mesh size at cod end 2a = 30 mm) were conducted regularly in January, April, July and
October from 2006 - 2013 with towing duration of one hour per haul on average. Japanese horse
mackerel (Trachurus japonicus) frequently appeared in catch of the trawl samples with a frequency
of 77.5% (821/1,060 hauls). Catch of Japanese horse mackerel contributed about 5% in the total
trip catch, on average. Catch Per Unit Effort (CPUE) was highest in July and lowest in April.
Standing stock biomass of Japanese horse mackerel was seasonally dependent with the phase of
two-year drop and increase.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 561 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến động nguồn lợi cá sòng nhật (trachurus japonicus temminck & schlegel, 1844) ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ giai đoạn 2006 - 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
364
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 4; 2015: 364-370
DOI: 10.15625/1859-3097/15/4/6210
BIẾN ĐỘNG NGUỒN LỢI CÁ SÒNG NHẬT (TRACHURUS JAPONICUS
TEMMINCK & SCHLEGEL, 1844) Ở VÙNG ĐÁNH CÁ CHUNG VỊNH
BẮC BỘ GIAI ĐOẠN 2006 - 2013
Nguyễn Văn Hải
Viện Nghiên cứu Hải sản-Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
E-mail: shihanins@gmail.com
Ngày nhận bài: 19-5-2015
TÓM TẮT: Từ năm 2006 - 2013, 32 chuyến điều tra nguồn lợi hải sản bằng lưới kéo đơn đã
được tiến hành ở vùng biển đánh cá chung vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tổng số
1.060 mẻ lưới đã được thực hiện chia đều cho các tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10 trong năm.
Trung bình mỗi mẻ lưới được thực hiện trong 1 giờ. Trong tổng số 1.060 mẻ lưới thực hiện có 821
mẻ lưới bắt gặp cá sòng Nhật. Tỷ lệ sản lượng trung bình của cá sòng Nhật chiếm khoảng 5% tổng
sản lượng qua các chuyến điều tra. Năng suất khai thác trung bình của cá sòng Nhật cao nhất là
vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 4 hằng năm. Trữ lượng của cá sòng Nhật có sự biến động mạnh
theo chu kỳ 2 năm tăng và 2 năm giảm liên tục. Xét theo chu kỳ mùa, trữ lượng cá sòng Nhật cao
nhất vào mùa thu (tháng 7) và thấp nhất vào mùa xuân (tháng 1).
Từ khóa: Cá sòng Nhật, Trachurus japonicus, vùng đánh cá chung, nguồn lợi, trữ lượng.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá sòng Nhật (Trachurus japonicus
Temminck & Schlegel, 1844) là loài cá nổi nhỏ
phân bố chủ yếu ở phía tây Thái Bình Dương
bao gồm vùng biển Nhật Bản, kéo dài qua
vùng biển Trung Hoa, Đài Loan xuống tận
vùng biển Đông Nam Á [1]. Ở Việt Nam, cá
sòng Nhật phân bố hầu hết ở các vùng biển
nhưng tập trung nhiều ở vùng vịnh Bắc Bộ
trong đó có vùng đánh cá chung Việt Nam -
Trung Quốc. Chúng là loài cá có kích thước
trung bình, chiều dài cá thể thành thục sinh
dục dao động từ 18 - 20 cm. Đây là loài cá có
sản lượng khai thác cao bằng nghề lưới kéo đơn
trong vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ (VBB).
Chúng chiếm trung bình khoảng 5% trong tổng
sản lượng các chuyến điều tra trong vùng đánh
cá chung vịnh Bắc Bộ [2].
Cá sòng Nhật là loài cá di cư theo các mùa
trong năm, do vậy có sự biến động rất lớn về
nguồn lợi của loài cá này theo các mùa. Việc
điều tra nguồn lợi hải sản ở vùng đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ được tiến hành từ năm 2006
tới nay và một năm có 4 chuyến điều tra đại
diện vào các tháng 1, 4, 7 và 10. Nguồn dữ liệu
về cá sòng Nhật đã được thu thập rất chính xác
và khoa học từ năm 2006 tới nay sẽ được phân
tích để xác định biến động nguồn lợi của loài cá
này trong giai đoạn từ 2006 - 2013.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Tài liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là loài cá sòng Nhật
(Trachurus japonicus Temminck & Schlegel,
1844) thuộc họ cá khế Carangidae (hình 1).
Khu vực nghiên cứu là vùng biển đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ, được xác định trong
Hiệp định Hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ
giữa Việt Nam - Trung Quốc, được giới hạn
Biến động nguồn lợi cá sòng Nhật
365
từ 17028’ - 20000’ N và 106035’ - 108045’ E
(hình 2).
Nguồn số liệu sử dụng để phân tích được
trích xuất từ 32 chuyến điều tra bằng lưới kéo
đơn đáy ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ từ
năm 2006 - 2013 của dự án “Điều tra liên hợp
Việt - Trung”. Từ năm 2006 - 2007 sử dụng hoàn
toàn số liệu từ 8 chuyến điều tra của phía Việt
Nam. Từ năm 2008 - 2013 phía Việt Nam và phía
Trung Quốc mỗi bên có 12 chuyến điều tra và
nguồn số liệu được trao đổi giữa 2 bên sau mỗi
chuyến điều tra.
Hình 1. Cá sòng Nhật
Trạm vị phía Việt Nam Trạm vị phía Trung Quốc
Hình 2. Sơ đồ trạm vị nghiên cứu ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ
[Nguồn: Đào Mạnh Sơn và Nguyễn Viết Nghĩa (2008)]
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế trạm vị thu mẫu
Phía Việt Nam thiết kế 35 trạm điều tra
trong khi phía Trung Quốc thiết kế 30 trạm điều
tra, các trạm nghiên cứu được thiết kế theo các
tuyến mặt cắt song song với đường vĩ tuyến.
Khoảng cách giữa các mặt cắt là 15 hải lý. Dọc
theo các tuyến mặt cắt, các trạm được thiết kế so
le nhau, với khoảng cách giữa các trạm là 30 hải
lý [3]. Sơ đồ trạm đánh lưới thu mẫu phía Việt
Nam và Trung Quốc được trình bày ở hình 1.
Thu mẫu sản lượng mẻ lưới
Tại mỗi trạm nghiên cứu tiến hành đánh
một mẻ lưới, thời gian đánh lưới trung bình là 1
giờ và tối thiểu phải đạt 45 phút. Sau mỗi mẻ
lưới, các thông tin về mẻ lưới, kết quả đánh
lưới và số liệu sinh học được ghi chép lại đầy
đủ trong các biểu chuẩn bị sẵn.
Thông tin về kết quả đánh lưới bao gồm
thông tin về sản lượng, thành phần loài trong mẻ
lưới. Tên loài được xác định theo tài liệu hướng
dẫn phân loại của FAO. Việc cân, đếm số lượng
các loài bắt gặp trong đó có cá sòng Nhật được
tiến hành sau khi phân loại các loài.
Phân tích số liệu
Năng suất khai thác (CPUE): Là sản lượng
khai thác trên 1 giờ kéo lưới (kg/h) được tính
theo công thức [4]:
Nguyễn Văn Hải
366
( )
C
CPUE kg h
t
Trong đó: C là sản lượng đánh bắt của mẻ lưới
(kg), t thời gian kéo lưới.
Phân bố: Phân bố năng suất khai thác của
cá sòng Nhật được thể hiện trên bản đồ theo hệ
tọa độ WGS84. Kích thước to nhỏ của các điểm
trạm trên bản đồ thể hiện năng suất khai thác cá
sòng Nhật cao hoặc thấp theo không gian.
Ước tính mật độ và trữ lượng:
Trữ lượng của cá sòng được ước tính cho
toàn vùng biển nghiên cứu theo phương pháp
diện tích Guland [5]. Diện tích vùng đánh cá
chung VBB được xác định trên hệ tọa độ WGS84
với tổng diện tích khoảng 33.618,5 km² [3].
*
A
B CPUA q ; * *
i
i
i iV D
C
CPUA t ;
*
A
Var B Var CPUA q
Trong đó: CPUAi là mật độ phân bố của các
loài hải sản ở trạm thứ i (kg/km2). Ci, ti, Vi lần
lượt là sản lượng (kg), thời gian (giờ) và tốc độ
kéo lưới (km/giờ) của trạm thứ i. D là độ mở
ngang của miệng lưới trung bình tính theo lý
thuyết thiết kế lưới kéo. B là trữ lượng (tấn), A
là diện tích của vùng đánh cá chung (km2), q là
hệ số thoát lưới. Đối với lưới giã đơn đánh bắt
ở vùng biển Đông Nam Á, giá trị q = 0,5 được
khuyến cáo áp dụng [6].
Toàn bộ số liệu được xử lý bằng thống kê
mô tả trên Microsoft Excel. Sử dụng phần mềm
Mapinfor 10.0 biểu diễn phân bố theo không
gian của cá sòng Nhật.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tỷ lệ sản lượng
Tổng số 1.060 lượt trạm nghiên cứu đã
được thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2013.
Trong đó có 821 lượt trạm bắt gặp cá sòng
Nhật và 239 lượt trạm nghiên cứu không bắt
gặp. Tỷ lệ bắt gặp cá sòng là 77,5% ở các trạm
nghiên cứu. Đây là tỷ lệ bắt gặp thuộc nhóm
những loài bắt gặp thường xuyên nhất trong
vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ.
Cá sòng Nhật là đối tượng bắt gặp nhiều và
chiếm tỷ lệ sản lượng cao trong các chuyến
điều tra bằng lưới kéo đáy ở vùng đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ. Tỷ lệ sản lượng cao được
thể hiện rõ qua hình 3. Trung bình theo các
năm từ 2006 - 2013 cá sòng Nhật luôn chiếm từ
3,76 - 16,47% tổng sản lượng trong năm.
Hình 3. Tỷ lệ sản lượng của cá sòng Nhật trong
các chuyến điều tra từ năm 2006-2013
Tỷ lệ sản lượng cá sòng Nhật biến thiên
theo các năm khá rõ. Các năm 2006, 2007 tỷ lệ
sản lượng > 10%; các năm 2008 - 2010 tỷ lệ
sản lượng giảm xuống mức khoảng 5%; sau đó
lại tăng lên hơn 10% trong 2 năm tiếp theo là
2011 và 2012; tới năm 2013 lại giảm xuống
dưới 5%. Hình 3 cho thấy tháng 7 là tháng luôn
chiếm tỷ lệ sản lượng cá sòng Nhật cao nhất,
luôn chiếm hơn 15% tổng sản lượng. Đặc biệt
chuyến tháng 7 năm 2011 cá sòng Nhật chiếm
tới 48,3% tổng sản lượng chuyến điều tra.
Trong khi đó tháng 4 lại là tháng bắt gặp cá
sòng Nhật ít nhất. Tỷ lệ trong tháng 4 chỉ dao
động từ 1 - 2% tổng sản lượng, ngoại trừ năm
2012 chiếm 7,2%. Điều này được giải thích bởi
mùa vụ sinh sản cá sòng Nhật là vào các tháng
đầu năm tới tháng 4, do vậy tới tháng 7 quần
đàn cá bổ sung đã đạt được kích thước mà ở đó
mắt lưới kéo đã có thể bắt gặp. Một yếu tố nữa
ảnh hưởng tới tỷ lệ trên chính là sự di cư của cá
sòng Nhật. Mặc dù sự di cư của cá sòng Nhật ra
khỏi vùng đánh cá chung vẫn chưa được nghiên
cứu, tuy nhiên có thể khẳng định trong tháng 7
cá sòng Nhật tập trung sinh sống nhiều ở vùng
đánh cá chung giữa vịnh Bắc Bộ. Chính 2 yếu
tố trên giải thích cho tỷ lệ sản lượng cá sòng ở
tháng 7 luôn luôn cao nhất trong năm. Ngược
lại, tháng 4 và tháng 1 nằm trong mùa sinh sản
của cá sòng Nhật, lúc này quần đàn cá được bổ
sung năm trước đã bị hao hụt khá nhiều do đó
sản lượng cá sòng bị giảm nhiều so với tháng 7
và tháng 10.
Biến động nguồn lợi cá sòng Nhật
367
Năng suất khai thác
Năng suất khai thác (CPUE) của cá sòng Nhật
có sự biến động mạnh theo thời gian (hình 4).
Hình 4. Năng suất khai thác trung bình cá sòng
Nhật theo các chuyến điều tra từ 2006 - 2013
Trong các chuyến điều tra có sự biến động
mạnh năng suất khai thác cá sòng Nhật. Có
những chuyến điều tra năng suất khai thác rất
cao song có những chuyến lại rất thấp. Biên độ
dao động năng suất khai thác từ 0,04 -
83,3 kg/h. Hầu hết các chuyến điều điều tra vào
tháng 1 và tháng 4 đều cho năng suất rất thấp.
Chuyến tháng 4/2010 năng suất trung bình chỉ
đạt 0,04 kg/h; chuyến tháng 4/2011 cũng chỉ
đạt 0,2 kg/h. Trong khi đó các chuyến điều tra
vào tháng 7 năng suất lại rất cao, cao nhất đạt
tới 83,3 kg/h vào tháng 7/2011.
CPUE trung bình theo các tháng cũng có sự
biến động rất mạnh. Tháng 1 và tháng 4, CPUE
chỉ đạt 1,62 kg/h và 1,02 kg/h. Trong khi đó
tháng 7 CPUE đạt tới 45,45 kg/h và tháng 10 là
10,07 kg/h (hình 5). Điều này càng khẳng định
cá sòng Nhật tập trung nhiều ở vùng đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ trong năm vào tháng 7.
Hình 5. Biến động năng suất khai thác trung
bình (CPUEtb) cá sòng Nhật theo tháng
Xét theo chuỗi thời gian từ 2006 - 2013,
năng suất khai thác có chiều hướng biến động
theo chu kỳ tăng giảm. Cứ cách 2 năm tăng rồi
lại tới 2 năm giảm mạnh về năng suất. Trong đó
năm 2011 là năm có năng suất khai thác trung
bình cao nhất, đạt 23,25 kg/h (hình 6).
Hình 6. Biến động năng suất khai thác cá sòng
Nhật từ năm 2006 - 2013
Qua hình 6 ta thấy năng suất khai thác năm
2013 giảm một cách rõ rệt. CPUE đang từ
18,82 kg/h năm 2012 giảm xuống mạnh chỉ còn
2,33 kg/h trong năm 2013. Như vậy với sự biến
động mạnh của nguồn lợi cá sòng Nhật và sự
biến động có tính chất chu kỳ ta có thể dễ dàng
nhận thấy năm 2014 sẽ là năm ít bắt gặp cá sòng
Nhật ở vùng đánh cá chung tương tự năm 2013.
Phân bố
Vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ tuy là
vùng biển chỉ có diện tích khoảng hơn 33 nghìn
km2 và không bị chia cắt địa hình. Tuy vậy độ
sâu khác nhau và môi trường dinh dưỡng có sự
khác nhau giữa các khu ô, do vậy sự tập trung
phân bố của cá sòng Nhật cũng có sự khác nhau
giữa các khu ô trong vùng. Có những tháng cá
sòng Nhật tập trung ở phía bắc của vùng, có
những tháng lại tập trung nhiều tại phía nam
hoặc giữa vùng đánh cá chung (hình 7).
Qua hình 7 ta thấy hiện trạng phân bố cá
sòng Nhật trong năm 2013. Tháng 1 cá sòng
Nhật phân bố nhiều hơn ở phía bắc vùng trong
khi đó tháng 7 và tháng 10 cá sòng tập trung
nhiều hơn ở phía nam vùng đánh cá chung.
Riêng tháng 4 có sự phân bố rải rác với năng
suất khai thác thấp đều ở toàn vùng. Trong
tháng 7 cá sòng Nhật có xu hướng tập trung rất
nhiều tại một số vị trí. Tại các vị trí này (có
CPUE cao) sự tập trung phản ánh chính xác sự
tụ đàn của cá sòng Nhật. Điều này cho thấy cá
sòng Nhật thường tụ thành từng đàn rất lớn để
kiếm ăn và sinh tồn cùng nhau - chúng là loài
cá sống theo đàn kể cả không phải trong mùa
sinh sản (tháng 7).
Nguyễn Văn Hải
368
Tháng 1/2013
Tháng 4/2013
Tháng 7/2013
Tháng 10/2013
Hình 7. Hiện trạng phân bố năng suất khai thác cá sòng Nhật trong năm 2013
Biến động trữ lượng
Kết quả ước tính trữ lượng tức thời của cá
sòng Nhật qua từng chuyến điều tra được thể
hiện qua bảng 1.
Theo đó, trữ lượng tức thời của cá sòng
Nhật ở vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ cao
nhất vào tháng 7 năm 2012, đạt 23.000 tấn và
thấp nhất chỉ đạt 24,5 tấn vào tháng 4/2010.
Xét trung bình theo các năm, năm 2012 có trữ
Biến động nguồn lợi cá sòng Nhật
369
lượng cả năm ước đạt khoảng hơn 7.000 tấn và
thấp nhất vào năm 2013, trữ lượng ước đạt chỉ
còn gần 900 tấn cá sòng Nhật.
Dựa vào những kết quả phân tích về tỷ lệ
sản lượng, biến động mật độ phân bố và trữ
lượng trung bình của cá sòng Nhật qua các năm
ta có thể kết luận cá sòng Nhật có sự biến động
nguồn lợi theo mùa và theo chu kỳ năm. Trong
1 năm, theo các mùa thì mùa thu (tháng 7) cá
sòng Nhật có trữ lượng nhiều nhất và thấp nhất
thường vào mùa xuân hoặc hè. Xét theo chuỗi
thời gian từ năm 2006 - 2013 thì mùa thu năm
nào trữ lượng cá sòng Nhật cũng cao nhất và
cao hơn rất nhiều các mùa còn lại. Phân tích
ANOVA (P < 0,05) cho thấy không có sự khác
nhau đáng kể về trữ lượng trung bình giữa mùa
đông (tháng 1) và mùa hè (tháng 4). Điều này
cho thấy trong mùa cá sòng sinh sản (từ tháng 1
- tháng 4) cá sẽ di cư nhiều hơn tới các vùng
nước khác ngoài vùng đánh cá chung vịnh Bắc
Bộ, làm cho trữ lượng tức thời trong vùng đánh
cá chung xuống thấp trong mùa này.
Xét theo chu kỳ năm ta có thể dễ dàng nhận
ra sự biến động nguồn lợi cá sòng Nhật xét theo
trữ lượng trung bình hằng năm. Cứ sau 2 năm
trữ lượng tăng cao sẽ tới 2 năm tiếp theo trữ
lượng cá sòng Nhật xuống thấp. Và nếu quy
luật này chính xác thì dự báo năm 2014 trữ
lượng cá sòng Nhật cũng sẽ rất thấp, tương tự
như năm 2013. Nếu tiếp tục được điều tra thì
dự báo năm 2015 và 2016 trữ lượng cá sòng
Nhật sẽ tăng cao trong vùng đánh cá chung
vịnh Bắc Bộ. Sự biến thiên theo chu kỳ 2 năm
của cá sòng Nhật trong vùng đánh cá chung
vịnh Bắc Bộ cần được quan tâm kỹ hơn để giải
thích hiện tượng này, từ đó có cơ sở dự báo
được ít nhất là cho những loài cá nổi nhỏ có tập
tính di cư.
Bảng 1. Trữ lượng tức thời (tấn) cá sòng Nhật qua các chuyến điều tra từ 2006 - 2013
Năm Tháng 1 Tháng 4 Tháng 7 Tháng 10 Trung bình
2006 226,4 721,2 7.296,5 6.302,7 3.636,7
2007 542,8 520,0 10.615,3 6.294,0 4.493,1
2008 271,8 592,8 21.558,7 2.356,5 6.194,9
2009 880,0 276,0 5.859,1 928,1 1.985,8
2010 138,8 24,5 4.510,2 743,7 1.354,3
2011 261,8 69,9 19.401,3 4.938,9 6.168,0
2012 1.641,9 1.363,3 23.000,0 2.738,7 7.186,0
2013 1.258,4 300,7 1.435,0 600,8 898,7
Trung bình 652,7 483,5 11.709,5 3.112,9
KẾT LUẬN
Cá sòng Nhật là loài chiếm tỷ lệ sản lượng
cao trong vùng đánh cá chung vịnh Bắc Bộ,
trung bình tỷ lệ này là 5% trong tổng sản lượng
của các chuyến điều tra.
Năng suất khai thác biến động từ 0,04 -
83,3 kg/h. Trong năm, năng suất khai thác cao
nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 4.
Cá sòng Nhật phân bố rải rác khắp vùng
đánh cá chung, tuy vậy chúng tập trung nhiều
hơn ở phía bắc và phía nam vùng đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ.
Biến động nguồn lợi cá sòng Nhật trong
vùng đánh cá chung theo chu kỳ 2 năm liên tục.
Xét theo chu kỳ mùa thì mùa thu là mùa cá
sòng Nhật tập trung nhiều nhất ở vùng đánh cá
chung vịnh Bắc Bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Udupe, K. S., 1986. Statistical method of
estimating the size at first maturity in
fishes. Fishbyte, 4(2): 8-10.
2. Trần Văn Cường, 2008. Nguồn lợi cá sòng
Nhật (Trachurus japonicus) ở vùng đánh cá
chung Việt Nam - Trung Quốc ở vịnh Bắc
Bộ giai đoạn 2006 - 2007. Tuyển tập
nghiên cứu nghề cá Biển, 2008. Tập V.
Tr. 126-133.
3. Đào Mạnh Sơn và Nguyễn Viết Nghĩa,
2008. Hiện trạng nguồn lợi và một số đề
xuất quản lý khai thác hải sản ở vùng đánh
Nguyễn Văn Hải
370
cá chung vịnh Bắc Bộ. Tuyển tập nghiên
cứu nghề cá biển. Tập V. Tr. 110-125.
4. Sparre, P., and Venema, S. C., 1998.
Introduction to tropical fish stock
assessment-Part 1: Manual. Fao.
5. Gulland, J. A., 1969. Manual of methods
for fish stock assessment: Part 1 Fish
population analysis. Food and Agriculture
Organization of the United Nations.
6. Pauly, D., 1980. A selection of simple
methods for the assessment of tropical fish
stocks. FAO Fisheries Circulars (FAO).
No. 729.
VARIATION OF JAPANESE JACK MACKEREL (TRACHURUS
JAPONICUS TEMMINCK & SCHLEGEL, 1884) POPULATION IN
TONKIN GULF COMMON FISHING ZONE DURING 2006 - 2013
Nguyen Van Hai
Research Institute for Marine Fisheries-Ministry of Agriculture and Rural Development
ABSTRACT: In the period 2006 - 2013, a total of 32 trawl surveys were conducted in the
Common Fishing Zone (CFZ) between Vietnam and China in Gulf of Tonkin. A total of 1,060 trawl
samplings (mesh size at cod end 2a = 30 mm) were conducted regularly in January, April, July and
October from 2006 - 2013 with towing duration of one hour per haul on average. Japanese horse
mackerel (Trachurus japonicus) frequently appeared in catch of the trawl samples with a frequency
of 77.5% (821/1,060 hauls). Catch of Japanese horse mackerel contributed about 5% in the total
trip catch, on average. Catch Per Unit Effort (CPUE) was highest in July and lowest in April.
Standing stock biomass of Japanese horse mackerel was seasonally dependent with the phase of
two-year drop and increase.
Keywords: Japanese jack mackerel, Trachurus japonicus, common fishing area, resource,
biomass.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6210_27365_1_pb_1651_2079672.pdf