Tổng cộng có 428 loài được ghi nhận qua
khoảng 3 thập kỷ, trong đó đợt thu mẫu
tháng 5/2013 đã ghi nhận được 229 loài, bổ
sung 39 loài mới ghi nhận cho khu hệ
TVPD trong khu vực nghiên cứu, trong
đó có 20 loài thuộc chi tảo hai roi
Protoperidinium. Các nghiên cứu trước
năm 2004 ghi nhận được số loài ít hơn hẳn
có thể do những hạn chế trong thu mẫu và
định loại. Số lượng loài tảo silic ghi nhận
trong tháng 5/2013 gia tăng không đáng kể
nhưng số lượng loài tảo hai roi lại tăng khá
rõ sau 30 năm. Các nhóm tảo khác như vi
khuẩn lam, tảo lục và tảo xương cát không
có biến động đáng kể theo thời gian. Trong
khi mật độ tế bào có xu hướng tăng thì sinh
khối carbon có xu hướng giảm từ năm 1994
đến năm 2013, tuy nhiên những biến động
này là khá thấp và chưa rõ quy luật. Các
điều kiện khí tượng-thủy văn, động lực bao
gồm cả sự tồn tại lớp phân tầng nhiệt-muối
đã ảnh hưởng rõ rệt đến đặc trưng phân bố
thành phần loài cũng như sinh vật lượng
TVPD ở vịnh Vân Phong thông qua những
biến động TVPD theo mùa (mưa-khô), thủy
triều, chu kỳ ngày đêm, tầng nước
17 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến động số lượng loài và sinh vật lượng thực vật phù du ở vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2014, tập 20: 104 - 120
BIẾN ĐỘNG SỐ LƯỢNG LOÀI VÀ SINH VẬT LƯỢNG THỰC VẬT PHÙ DU
Ở VỊNH VÂN PHONG, TỈNH KHÁNH HÒA
Nguyễn Chí Thời, Nguyễn Thị Mai Anh, Trần Thị Lê Vân, Hồ Văn Thệ,
Phan Tấn Lượm, Đoàn Như Hải, Nguyễn Ngọc Lâm
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Các nghiên cứu biến động thực vật phù du ở vùng biển ven bờ trong thời
gian dài khá hiếm trên thế giới và đặc biệt hiếm ở Việt Nam. Bài báo trình
bày biến động số lượng loài và sinh vật lượng thực vật phù du (TVPD) ở
vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa dựa trên số liệu từ nhiều đề tài khác nhau
trong vòng 3 thập kỷ qua. Các biến động này khá rõ rệt và phụ thuộc vào các
yếu tố như mùa mưa-khô, thủy triều, và tầng nước. Mức độ biến động của
quần xã TVPD tùy thuộc vào vị trí của trạm có liên quan đến khả năng trao
đổi nước và đặc điểm môi trường ở vị trí đó. Các nghiên cứu trước năm 2004
ghi nhận được số loài ít hơn hẳn có thể do những hạn chế trong thu mẫu và
định loại. Đợt thu mẫu tháng 5/2013 ghi nhận 229 loài và đã bổ sung mới 39
loài cho thành phần loài cho vịnh Vân Phong. Mật độ tế bào trung bình trạm
cao trong một vài chuyến khảo sát trong mùa gió đông bắc như trong tháng
2/2004, 11/2005, 10/2009. Những loài tảo silic có kích thước tế bào
nhỏ thuộc các chi như Chaetoceros, Pseudo-nitzschia, Bacteriastrum,
Skeletonema thường chiếm ưu thế về mật độ tế bào. Tuy nhiên, ở một vài
thời điểm, các loài có kích thước tế bào lớn như Noctiluca scintillans hay
Rhizosolenia imbricata chiếm ưu thế về sinh khối carbon.
VARIATIONS IN NUMBER OF SPECIES AND ABUNDANCE
OF PHYTOPLANKTON IN VAN PHONG BAY, KHANH HOA PROVINCE
Nguyen Chi Thoi, Nguyen Thi Mai Anh, Tran Thi Le Van, Ho Van The,
Phan Tan Luom, Doan Nhu Hai, Nguyen Ngoc Lam
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract Long-term variations of phytoplankton communities in coastal waters have
been rarely studied in many places over the world and in Vietnam. We
analyse variations in species number and abundance of phytoplankton in
Van Phong bay, South Central Vietnam during the last three decades basing
on data of various projects. These variations were remarkable and depended
upon changes in seasons, tides, and sampling depths over the time. Scales of
these changes reflected sampling locations, water-exchange intensities and
the environmental characteristics of sampling site. There were lower
numbers of species recorded before 2004 probably because of limitations in
sampling and species identification. A total of 229 species taxa were
identified during May 2013, in which 39 species were firstly recorded in the
105
study waters. High cell densities were found in February 2004, November
2005, and October 2009, mostly during northeast monsoon. In summary,
small cell - size diatoms of genera Chaetoceros, Pseudo-nitzschia,
Bacteriastrum, and Skeletonema frequently dominated. However, by large
species, e.g. Noctiluca scintillans and Rhizosolenia imbricata were
occasionally dominant in carbon biomass.
I. MỞ ĐẦU
Thực vật phù du (TVPD hay vi tảo) là
những thực vật đơn bào sống đơn lẻ hay
liên kết thành tập đoàn và lơ lửng trong
khối nước. Đây là nhóm sinh vật sản xuất
chủ yếu nên có vai trò quan trọng trong
năng suất sinh học của thủy vực. Thành
phần loài và cấu trúc quần xã TVPD thường
được sử dụng trong đánh giá tình trạng hệ
sinh thái (Gin và cs., 2000; Coutinho và cs.,
2012; Lugoli và cs., 2012). Sự bùng phát
của nhiều loài TVPD có liên quan trực tiếp
đến các điều kiện nhiệt độ, độ muối, và hàm
lượng các muối dinh dưỡng (Granéli &
Turner, 2006). Các yếu tố khác như gió,
dòng chảy, thủy triều cũng ảnh hưởng đến
sự nở hoa của một số loài TVPD biển thông
qua tác động gián tiếp đến cấu trúc nhiệt
muối, ánh sáng trong cột nước (Trigueros &
Orive, 2000; D’Costa & Anil, 2010). Ngoài
việc chịu tác động của biến đổi khí hậu như
nhiệt độ nước biển tăng, thay đổi lượng
mưa,... trên toàn thế giới nói chung thì thực
tế trong những năm gần đây, hệ sinh thái
thủy sinh nói chung và hệ TVPD nói riêng
của vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) còn
chịu tác động bởi các hoạt động như nuôi
trồng thủy sản, ngọc trai, chuyển tải dầu và
hoạt động trung chuyển khác của cảng quốc
tế Vân Phong, du lịch, và quá trình đô thị
hóa. Báo cáo đầu tiên về TVPD vịnh Vân
Phong của Nguyễn Thị Bình và cs. (1985)
đã ghi nhận tổng cộng 154 loài trong 3
chuyến khảo sát mùa khô từ tháng 4/1982-
2/1984. Tiếp đến là báo cáo về thành phần
loài và tính toán các chỉ số đa dạng sinh học
của quần xã TVPD vịnh Vân Phong của các
tác giả Nguyễn Ngọc Lâm & Đoàn Như Hải
(1995) với 201 loài được ghi nhận trong các
chuyến khảo sát tại 16 trạm mặt rộng và 1
trạm liên tục trong khoảng thời gian 1994-
1995. Ngoài ra, có nhiều đề tài, dự án
lớn nhỏ từng tiến hành thu mẫu khảo
sát TVPD trong khu vực này trong
những năm 1999 - 2000, 2004 - 2009. Hiện
tượng bùng phát của một số loài tảo như
Noctiluca scintillans, Thalassiosira mala,
Leptocylindrus danicus, Proboscia alata,
cũng được ghi nhận trong vùng biển này
(Nguyen-Ngoc và cs., 1997; Larsen &
Nguyen-Ngoc, 2004). Với một số lượng
nghiên cứu nhiều năm trong vịnh Vân
Phong như vậy nhưng cho đến nay vẫn
chưa có nghiên cứu nào đánh giá được biến
động dài kỳ của TVPD trong thủy vực. Bài
báo này có sử dụng các nguồn số liệu được
tập hợp từ các đề tài khác nhau trong 3 thập
kỷ qua để đánh giá xu thế biến động theo
thời gian về số lượng loài cũng như sinh vật
lượng TVPD trong vịnh Vân Phong. Đồng
thời nghiên cứu cũng bổ sung thành phần
loài cho khu hệ TVPD ở khu vực. Nghiên
cứu này ngoài mục đích cung cấp cơ sở
khoa học cho các nghiên cứu khác như về
đa dạng sinh học, đánh giá nguồn lợi,... còn
có thể sử dụng cho các nghiên cứu liên
quan đến biến đổi khí hậu sau này.
II. PHƯƠNG PHÁP
1. Khu vực nghiên cứu
Vịnh Vân Phong nằm phía bắc của tỉnh
Khánh Hòa, thuộc loại thủy vực nửa kín,
ven bờ nam trung bộ, chịu tác động của chế
độ gió mùa nhiệt đới. Gió mùa đông bắc từ
tháng 11 đến tháng 3 (mạnh từ tháng 11 đến
tháng 1) và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến
tháng 9 (mạnh từ tháng 6 đến tháng 8).
Nhiệt độ không khí cao vào khoảng thời
gian từ tháng 5 đến tháng 8 (trung bình
>28°C) và thấp trong các tháng 12 đến
106
tháng 2 (<25°C). Lượng mưa tập trung cao
vào các tháng 9 đến tháng 12. Trên cơ sở
đánh giá biến động nhiệt-muối và dòng
chảy, có thể chia làm 3 phần: phần vụng
Bến Gỏi-Hòn Khói có độ sâu <20m và môi
trường chịu tác động của các hoạt động
nhân sinh; vùng cửa vịnh Vân Phong có độ
sâu từ 20-30m, chịu sự tương tác của nước
biển khơi và cả vùng vụng Bến Gỏi-Hòn
Khói; phần vụng Cổ Cò-lạch Cửa Bé với
trắc diện ngang hình chữ V thì độ sâu tăng
dần từ 2 bên bờ lạch ra giữa dòng (sâu
>30m), trao đổi nước mạnh với vùng biển
khơi nên biên độ nhiệt-muối nhỏ hơn 2
vùng còn lại đáng kể (Bùi Hồng Long và
cs., 2011).
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ
sở kế thừa số liệu của các đề tài, dự án đã
thực hiện từ năm 1982 (chi tiết được liệt kê
trong bảng 1) của tập thể tác giả. Thêm vào
đó, chúng tôi đã tiến hành 1 chuyến khảo
sát thu mẫu bổ sung tại 14 điểm của vùng
vịnh Vân Phong vào tháng 5/2013 (vị trí 14
điểm thu mẫu trong hình 1).
Bảng 1. Một số thông tin về các nghiên cứu trước có số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này
Table 1. Brief information about previous studies with the data used for this study
Ghi chú: MR (trạm mặt rộng), LT (trạm liên tục)
MR (grid station), LT (anchor station)
Năm Đề tài Thời gian thu mẫu Số lượng trạm Độ sâu (m)
1982-1984 Sinh vật nổi vùng biển
Việt Nam
4/1982;
8/1983;
2/1984
22 trạm MR 5-33
1994-1997 Xây dựng cơ sở khoa học
cho việc quy hoạch sử
dụng có hiệu quả vịnh
Vân Phong-Bến Gỏi
6/1994;
2,5/1995;
7,10/1995
16 trạm MR
1 trạm LT
5 trạm MR
1 trạm LT
5-23
1999 HABViet 3-4/1999;
1-12/1999
1 trạm
1 trạm
5-6
2004-2009 Nuôi trồng thủy sản và
quản lý môi trường biển
ven bờ (NUFU)
2/2004
11/2004
8/2005
6/2006
11/2006
8/2007
12/2007
6/2008
9/2008
8/2009
8 trạm MR, 5 trạm LT
8 trạm MR, 3 trạm LT
8 trạm MR, 3 trạm LT
9 trạm MR, 1 trạm LT
12 trạm MR
13 trạm MR
13 trạm MR
6 trạm MR
6 trạm MR
6 trạm MR
5-33
2009 Giám sát môi trường vịnh
Vân Phong
4/2009
10/2009
10 trạm MR,
1 trạm LT
10 trạm MR
5-33
107
Hình 1. Bản đồ vị trí trạm thu mẫu vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, tháng 5/2013
Fig. 1. The sampling sites in Van Phong bay, Khanh Hoa province, May 2013
2. Phương pháp thu và phân tích mẫu
vật
Mẫu định tính TVPD được thu bằng lưới có
đường kính miệng lưới 30cm và kích thước
mắt lưới 20µm, kéo chậm thẳng đứng từ
gần đáy lên mặt nhiều lần, sử dụng dung
dịch formaldehyde để cố định mẫu sao cho
nồng độ formaldehyde cuối cùng trong
dung dịch là khoảng 4 đến 5%. Mẫu định
lượng TVPD được thu bằng chai thu mẫu
Niskin tại tầng mặt và tầng đáy, cố định
bằng dung dịch lugol trung tính. Sử dụng
kính hiển vi quang học và kính hiển vi
huỳnh quang, tương phản pha LEICA-
DMLB ở các độ phóng đại khác nhau, cùng
với máy chụp ảnh kỹ thuật số Olympus-
DP71 để phân tích các mẫu TVPD đã thu
được. Sử dụng phương pháp so sánh hình
thái để định loại các loài TVPD dựa vào các
tài liệu định loại chủ yếu của Trương Ngọc
An (1993), Tomas (1997), Taylor (1976),
Larsen & Nguyen-Ngoc (2004). Xác định
mật độ tế bào theo phương pháp của
Sournia (1978) bằng cách sử dụng buồng
đếm Sedgewick-Rafter có thể tích 1mL để
đếm mẫu. Để quan sát định loại và đếm tảo
hai roi, vật mẫu được nhuộm bằng dung
dịch calcofluor-white MR2. Các dữ liệu về
thành phần loài, sinh vật lượng TVPD được
tập hợp, phân tích từ bộ số liệu của các
nghiên cứu trước đây. Tên loài của tất cả
các nghiên cứu sử dụng số liệu được cập
nhật và chỉnh tên đồng vật (synonym). Số
liệu định tính và định lượng tế bào TVPD
được nhập vào phần mềm PlanktonSys
BioConsult AS để tính toán sinh vật lượng
tế bào (mật độ và sinh khối carbon) dựa vào
hình dạng và các số đo kích thước tế bào.
Các phần mềm Microsoft Office Excel
2007, PRIMER v.6, GraphPad Prism v.5
được sử dụng cho các phân tích thống kê,
phân tích thành phần loài. Số liệu được
kiểm tra phương sai, luật phân phối, và
chuẩn hóa trước khi thực hiện các phép
thống kê tham số (Fowler & Cohen, 1990).
Vịnh
Vân Phong
Biển Đông
108
Các thông số nhiệt độ, độ muối, huỳnh
quang thực vật (fluorescence) cũng được đo
tại tất cả các trạm thu mẫu bằng CTD-
Seabird 19plus V2 trong tháng 5/2013.
Ngoài ra, số liệu các thông số khác như gió,
dòng chảy, hàm lượng chất rắn lơ lửng,
chlorophyll a, các muối dinh dưỡng như
ammoni, nitrate, nitrite, phosphate, silicat
được phân tích bởi các phòng chuyên môn
của Viện Hải dương học (Phòng Vật lý,
phòng Thủy-địa-hóa) cũng được sử dụng
trong thảo luận kết quả nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Các điều kiện vật lý, hóa học và hải
dương học trong đợt khảo sát tháng
5/2013
Trong thời điểm khảo sát vào tháng 5/2013,
tốc độ gió tăng lên đáng kể sau 9 giờ sáng
và đạt cường độ mạnh trong khoảng thời
gian từ 11h đến 16h với hướng gió thịnh
hành là hướng nam. Về dòng chảy, khu vực
lạch Cổ Cò có tốc độ dòng chảy lớn nhất
với giá trị đo đạc được là 38,6cm/s theo
hướng bắc-tây bắc tại độ sâu 2m của trạm
VP07. Về biến động nhiệt-muối, có sự
chênh lệch nhiệt độ lên tới trên 6°C giữa
tầng mặt và tầng đáy ở nhiều trạm ở vùng
cửa vịnh có độ sâu lớn như trạm VP07,
VP14, VP11. Trong khi đó, sự chênh lệch
độ muối giữa các trạm là vào khoảng <1‰.
Hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng tương đối
thấp với phần lớn các giá trị đo được là
<4mg.L-1, cao ở tầng đáy các trạm VP05 và
VP07, lần lượt là 5,55mg.L-1 và 6,55mg.L-1.
Hàm lượng chlorophyll a hầu như ≤1µg.L-1
ngoại trừ giá trị lớn nhất đo được tại tầng
đáy trạm VP05 là 2,02 µg.L-1. Nhìn chung
ở hầu hết các trạm hàm lượng các muối
nitrate và phosphate tại tầng mặt cao hơn so
với tầng đáy (biến thiên trong khoảng 34,1-
39,1µg.L-1 tại tầng mặt và 26,2-38,5µg.L-1
tại tầng đáy đối với muối nitrate và 8,1-
12,3µg.L-1 tại tầng mặt và 4,9-10,05µg.L-1
tại tầng đáy đối với muối phosphate). Hàm
lượng muối nitrat tại các trạm VP01, VP02
cao hơn rõ rệt so với các trạm khác. Hàm
lượng muối silicat ở tầng mặt cao hơn so
với tầng đáy ở 13 trạm khảo sát (lần lượt
biến thiên trong khoảng 177-537µg.L-1 và
77-386µg.L-1). Hàm lượng muối ammoni
dưới ngưỡng phát hiện ở hầu hết các trạm
và chỉ đo được tại tầng đáy của trạm VP02
(6,4µg.L-1) trong khi muối nitrite có hàm
lượng thấp tại tầng đáy các trạm VP04,
VP05, VP06, VP07.
2. Hiện trạng số lượng loài và sinh vật
lượng TVPD trong đợt khảo sát tháng
5/2013
Kết quả khảo sát vào tháng 5/2013 tại 14
trạm thuộc vịnh Vân Phong cho thấy, tổng
cộng có 229 loài đã được ghi nhận, trong đó
nhóm tảo silic-Bacillariophyceae có số
lượng loài cao nhất với 134 loài, tiếp đó là
nhóm tảo hai roi-Dinophyceae với 88 loài,
nhóm vi khuẩn lam-Cyanobacteria có 4 loài
và các nhóm tảo lục-Chlorophyceae và tảo
xương cát-Dictyochophyceae chỉ có 1-2
loài. Tảo silic có số lượng loài cao ở tất cả
các trạm với sự biến thiên từ 41 đến 80 loài
trong mỗi mẫu. Những trạm VP13, VP11,
VP10 có số lượng loài cao (lần lượt là 115,
114, 113 loài) trong khi các trạm VP02,
VP14 có số lượng loài thấp với lần lượt 69
và 72 loài. Các loài phân bố ở hầu hết các
trạm trong tháng 5/2013 là những loài
ven bờ rộng nhiệt muối, thường gặp trong
các thủy vực miền trung Việt Nam như
các loài tảo silic Asteromphalus cleveanus,
Chaetoceros diversus, Dactyliosolen fragi-
lissimus, Guinardia striata, Leptocylindrus
danicus, Pseudosolenia calcaravis, Thal-
assionema frauenfeldii hay các loài tảo hai
roi như Ceratium furca, C. fusus, Gony-
aulax polygramma Các chi đa dạng về
loài bao gồm Chaetoceros với 38 loài, tiếp
đến là Protoperidinium (31 loài), Ceratium
(19 loài). Kết quả phân tích chỉ số giống
nhau về thành phần loài TVPD (theo Bray-
Curtis) ở vùng nghiên cứu trong tháng
5/2013 thể hiện trên MDS-2D (Multi-
Dimensional Scale) như hình 2 cho thấy,
thành phần loài ở tầng đáy giữa các trạm
giống nhau nhiều hơn so với tầng mặt với
chỉ số tương đồng trung bình lần lượt là
26,5% và 14,9%. Thành phần loài trong
108
tầng mặt và tầng đáy khác nhau đáng kể với
chỉ số tương đồng chỉ 12,8%. Đáng chú ý là
thành phần loài tại tầng đáy của các trạm
VP06, VP07, VP14 (khu vực vụng Cổ Cò
và lạch Cửa Bé) khác biệt so với tầng mặt
và so với các trạm còn lại. Trong tất cả các
trạm khảo sát thì chỉ duy nhất trạm VP08 có
thành phần loài trong tầng mặt và tầng đáy
giống nhau nhiều nhất (chỉ số tương đồng là
77,9%). Tại 13/14 trạm khảo sát, số lượng
loài hiện diện ở tầng đáy cao hơn so với
tầng mặt (giá trị trung bình tại 14 trạm lần
lượt là 33±2 và 24±1 loài).
Trong đợt khảo sát vào tháng 5/2013,
mật độ tế bào tại tầng mặt cao hơn so với
tầng đáy ở 10/14 trạm thu mẫu với giá
trị trung bình của 14 trạm (±độ lệch
chuẩn) lần lượt là 72.070±151.425tb.L-1 và
7.728±6.542tb.L-1 (α=0,05; tstatistic=1,864>
tcritical-one tail=1,746 khi phân tích t-test).
Điểm đáng chú ý là tại tầng mặt các trạm
VP06 và VP07, loài tảo silic trung tâm dạng
chuỗi Leptocylindrus danicus có mật độ ưu
thế lần lượt là 558.000 và 198.198tb.L-1,
chiếm 98,9 và 98,8% tổng số mật độ tế bào
của mẫu. Trong khi ở những trạm có mật độ
tế bào tầng mặt thấp hơn tầng đáy như trạm
VP01, VP09, VP11, VP13 thì các giá trị
mật độ tế bào tổng cộng lại rất thấp, biến
thiên từ 1.231 đến 5.098tb.L-1. Phân bố mặt
rộng của TVPD trong tháng 5/2013 cho
thấy, mật độ tế bào cao ở khu vực vụng Cổ
Cò và lạch Cửa Bé và thấp ở khu vực phía
bắc của vũng Bến Gỏi và khu vực phía nam
của vịnh Vân Phong (Hình 3). Giá trị sinh
khối carbon của TVPD cao nhất ghi nhận
được là 102,36 mgC.m-3 tại tầng mặt trạm
VP06 và thấp nhất là 61,6 mgC.m-3 tại tầng
đáy trạm VP03. Tuy nhiên, kết quả phân
tích ANOVA một nhân tố cho thấy không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mật
độ cũng như sinh khối tế bào giữa các trạm
(p>0,05).
Hình 2. Phân tích MDS-2D về thành phần loài TVPD dựa vào số liệu mật độ tế bào sau khi tính
ma trận giống nhau theo Bray-Curtis tại tầng mặt và tầng đáy tháng 5/2013
Fig. 2. MDS-2D analysis of species composition of phytoplankton based on cell density data using
similarity matrix Bray-Curtis of surface and bottom samples in May 2013
109
110
Hình 3. Mật độ tế bào (trái) và sinh khối (phải) TVPD tại tầng mặt và tầng đáy
các trạm trong tháng 5/2013
Fig. 3. Cell density (left) and biomass (right) of phytoplankton
of surface and bottom samples in May 2013
3. Xu thế biến động số lượng loài và sinh
vật lượng TVPD ở vịnh Vân Phong qua 3
thập kỷ
Tổng số loài ghi nhận được qua các đợt
khảo sát từ năm 1982 đến năm 2013 ở vịnh
Vân Phong là 428 loài thuộc 6 nhóm, trong
đó nhóm tảo silic có 259 loài (tảo silic trung
tâm có 184 loài, tảo silic lông chim có 75
loài), nhóm tảo hai roi có 159 loài, nhóm vi
khuẩn lam có 5 loài, nhóm tảo lục có 3 loài
và nhóm tảo xương cát có 2 loài. Kết quả
nghiên cứu vào tháng 5/2013 đã bổ sung 39
loài lần đầu ghi nhận cho khu hệ TVPD
vịnh Vân Phong, trong đó nhiều nhất là chi
tảo hai roi có vỏ giáp Protoperidinium với
20 loài, kế đến là chi Chaetoceros với 4
loài. So với kết quả nghiên cứu trước đây
tiến hành tại 22 trạm mặt rộng vịnh Vân
Phong trong 3 đợt vào các tháng 4/1982,
tháng 8/1983 và tháng 2/1984 (với tổng
cộng 154 loài TVPD được ghi nhận bao
gồm 115 loài tảo silic, 38 tảo hai roi và 1
loài vi khuẩn lam) (Nguyễn Thị Bình và cs.,
1985) và với kết quả nghiên cứu tại 16 trạm
mặt rộng vào tháng 6/1994 (Nguyễn Ngọc
Lâm & Đoàn Như Hải, 1995) thấy rằng, số
lượng loài tảo silic ghi nhận trong tháng
5/2013 gia tăng không đáng kể nhưng số
lượng loài tảo hai roi lại tăng khá rõ sau 30
năm (Hình 4). Các nhóm tảo khác như vi
khuẩn lam, tảo lục và tảo xương cát dao
động từ 1-5 loài và không có biến động
đáng kể theo thời gian. Các đợt thu mẫu
vào tháng 6/2008, 9/2008, 8/2009, chỉ có 6
trạm thu mẫu và số lượng loài ghi nhận
được cũng thấp hơn đáng kể so với các đợt
khảo sát tháng 8/2007, 12/2007, 4/2009,
10/2009 (với từ 10-13 trạm khảo sát). Kết
quả tổng hợp cũng cho thấy, tuy tổng số
loài ở từng nhóm trong mùa mưa (tháng
10/2009) trong toàn vịnh là không cao so
với các đợt khác (Hình 4) nhưng kết quả
phân tích trên hình 5 cho thấy số lượng loài
TVPD trung bình trạm trong tháng 10/2009
là cao nhất với 109±6 loài và phân bố khá
đồng đều giữa các trạm (biến thiên 102-118
loài), sự giống nhau về thành phần loài
cũng khá cao (chỉ số giống nhau trung bình
trong tháng 10/2009 giữa các trạm là
71,60%). Trong khi đó, vào mùa khô tháng
4/2009 có tổng cộng 203 loài nhưng số
lượng loài ở các trạm không đồng đều, chỉ
số giống nhau về thành phần loài khá thấp
(chỉ số giống nhau trung bình giữa các trạm
là 26,91%). Chỉ số giống nhau về thành
phần loài trung bình giữa tháng 4/2009 và
tháng 10/2009 chỉ là 10,01% cho thấy thành
phần loài TVPD ở vịnh Vân Phong biến
động mạnh giữa mùa khô và mùa mưa
trong năm 2009, nhất là khu vực phía bắc
của vịnh.
102
0
20
40
60
80
100
VP
01
VP
02
VP
03
VP
04
VP
05
VP
06
VP
07
VP
08
VP
09
VP
10
VP
11
VP
12
VP
13
VP
14
Si
n
h
kh
ố
i (m
gC
.
m
-
3)
Trạm
Tầng mặt
Tầng đáy
564.300 200.691
0
20000
40000
60000
80000
100000
VP
01
VP
02
VP
03
VP
04
VP
05
VP
06
VP
07
VP
08
VP
09
VP
10
VP
11
VP
12
VP
13
VP
14
M
ật
đ
ộ
tế
bà
o
(tb
.
L-
1 )
Trạm
Tầng mặt
Tầng đáy
112
Hình 4. Biến thiên số lượng loài TVPD tổng cộng ở từng nhóm ghi nhận được trong vùng nghiên
cứu từ năm 1982-2013. * từ tháng 4/1982-2/1984 số liệu của cả 3 đợt khảo sát
Fig. 4. Variations in total number of phytoplankton species of each group in study area
from 1982 to 2013. *Data of 3 surveyed cruises from April 1982 to February 1984
Hình 5. Biến thiên số lượng loài TVPD ở từng trạm và trung bình trạm trong từng đợt thu mẫu
trong vùng nghiên cứu từ năm 1994-2013
Fig. 5. Variations in number of phytoplankton species of each station and cruise average
in study area from 1994 to 2013
0
20
40
60
80
100
120
140
82
-
84
*
6/
19
94
2/
20
04
11
/2
00
4
8/
20
05
11
/2
00
5
6/
20
06
11
/2
00
6
8/
20
07
12
/2
00
7
6/
20
08
9/
20
08
4/
20
09
8/
20
09
10
/2
00
9
5/
20
13
22* 16 8 8 8 8 9 12 13 13 6 6 10 6 10 14
Số
lư
ợ
n
g
lo
ài
Thời gian/số trạm mặt rộng thu mẫu
Tảo hai roi
Vi khuẩn lam
Tảo xương cát
Tảo lục
111
6/1
99
4
2/2
00
4
11
/20
04
8/2
00
5
11
/20
05
6/2
00
6
11
/20
06
8/2
00
7
12
/20
07
6/2
00
8
9/2
00
8
4/2
00
9
8/2
00
9
10
/20
09
5/2
01
3
0
20
40
60
80
100
120
Tháng
Số lượng loài
113
Về sinh vật lượng, so với các kết quả
nghiên cứu khác trong khoảng 30 năm ở
khu vực này thấy rằng, nhìn chung mật độ
tế bào trung bình trong toàn vịnh biến thiên
khá rõ theo thời gian với giá trị mật độ
trung bình (± độ lệch chuẩn) thấp nhất và
cao nhất lần lượt là 4.009±4.238tb.L-1 trong
tháng 8/2005 và 133.772±59.495tb.L-1
trong tháng 10/2009. Các thời điểm có mật
độ tế bào trung bình tương đối cao là tháng
2/2004, tháng 11/2005, và tháng 8/2007.
Mật độ trung bình TVPD ghi nhận trong
đợt khảo sát tháng 5/2013 ở mức độ trung
bình, 39.899±110.155 tb.L-1. Sinh khối
carbon của tế bào trung bình trong toàn
vịnh biến động từ 6,17±2,83mgC.m-3 (tháng
5/2005) đến 95,66±89,76mgC.m-3 (tháng
11/2005). Chiếm ưu thế về sinh khối trong
tháng 11/2005 là loài tảo silic kích thước
lớn Rhizosolenia imbricata. Sinh khối
TVPD trong đợt khảo sát tháng 5/2013
ở mức trung bình, 17,29±21,15mgC.m-3.
Trong tháng 4/1982 sinh khối tế bào TVPD
tập trung cao tại khu vực Bến Gỏi-Hòn
Khói và vùng vụng Cổ Cò-lạch Cửa Lớn
thuộc phía bắc của vịnh Vân Phong với sự
ưu thế của các loài tảo silic ven bờ kích
thước tế bào nhỏ như Chaetoceros
curvisetus, Thalassionema nitzschioides
trong khi khu vực ngoài cửa vịnh Vân
Phong có sinh khối là thấp nhất (Nguyễn
Thị Bình và cs., 1985). Trong nghiên cứu
vào tháng 6/1994, phân bố mặt rộng về mật
độ tế bào cũng có xu thế tương tự như tháng
4/1982 với sự ưu thế của các loài tảo silic
rộng nhiệt - muối như Thalassionema
frauenfeldii, T. nitzschioides, Chaetoceros
sp., Bacteriastrum furcatum, Bacteriastrum
sp.. Trong đợt khảo sát vào tháng 6/2006,
mật độ tế bào cũng phân bố cao tại khu vực
phía bắc của vịnh Bến Gỏi-Hòn Khói
nhưng do những loài tảo hai roi có vỏ giáp
chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Bên cạnh
đó có thể thấy sự chênh lệch về mật độ tế
bào giữa các trạm khác nhau tùy theo các
đợt thu mẫu. Nhìn chung, các đợt khảo sát
tháng 10/2009 sự chênh lệch này là rõ ràng,
tiếp đến là các tháng 2/2004, 8/2007,
8/2009, 5/2013 trong khi sự phân bố về
tổng mật độ tảo giữa các trạm là tương đối
ngang nhau trong các đợt khảo sát tháng
8/2005 và tháng 12/2007 với các giá trị mật
độ khá thấp (Hình 6 và 7). Nhìn chung,
trong khi mật độ tế bào có xu hướng tăng
thì sinh khối carbon có xu hướng giảm từ
năm 1994 đến năm 2013, tuy nhiên những
biến động này là khá thấp và chưa rõ quy
luật.
Phân tích kết quả nghiên cứu tại trạm
liên tục 30 ngày từ tháng 6-7/1995 khu vực
nuôi tôm tại Xuân Tự có độ sâu khoảng 6m,
ven bờ phía tây vịnh Vân Phong cho thấy
có sự tương quan tương đối giữa sự biến
động mật độ tế bào TVPD nói chung và các
nhóm tảo silic và tảo hai roi nói riêng với
biên độ triều các ngày trong tháng (Hình 8).
Nhìn chung có thể thấy xu hướng là mật độ
tảo cao vào những ngày biên độ triều thấp
và ngược lại. Ngoài ra, tảo silic hầu như
chiếm ưu thế về mật độ tế bào ở các ngày
trong tháng trừ một vài thời điểm của ngày
8, 9, 12/6/1995 (Hình 8). Tương tự, kết quả
của chuyến khảo sát 3 ngày đêm liên tục
với tần suất thu mẫu cách nhau 4 giờ tại
khu vực gần Hòn Ké-Lạch Cửa Lớn (vũng
Bến Gỏi) vào tháng 6/1994, cũng cho thấy
mật độ tế bào TVPD trong vịnh Vân Phong
thay đổi theo chu kỳ thủy triều, chu kỳ
ngày-đêm. Mật độ tế bào tại tầng 10-0m và
tầng 17-10m đều cao vào thời điểm triều
thấp và ở những thời điểm đỉnh triều thì
mật độ tế bào ở tầng mặt luôn cao hơn so
với tầng đáy. Bên cạnh đó, nghiên cứu tại
trạm liên tục 1 ngày đêm trong mùa khô
(tháng 7/1995) cho thấy, vào ban đêm thì
mật độ tế bào tảo silic và tảo hai roi ở tầng
20-10m cao hơn tầng 10-0m trong khi vào
ban ngày thì có xu thế ngược lại. Với những
kết quả phân tích trong mùa mưa (tháng
10/1995) cho thấy mật độ tảo silic và tảo
hai roi ở tầng 10-0m đều cao hơn ở tầng 17-
10m (Hình 9).
2
114
Hình 6. Biến thiên mật độ tế bào TVPD trong vùng nghiên cứu từ năm 1994-2013
Fig. 6. Variations in cell density of phytoplankton in study area from 1994 to 2013
Hình 7. Biến thiên sinh khối TVPD trong vùng nghiên cứu từ năm 1994-2013
Fig. 7. Variations in phytoplankton biomass in study area from 1994 to 2013
Tháng
Sinh khối tế bào (mgC.m-3)
302,796
6/1
99
4
2/2
00
4
11
/20
04
8/2
00
5
11
/20
05
6/2
00
6
11
/20
06
8/2
00
7
12
/20
07
6/2
00
8
9/2
00
8
4/2
00
9
8/2
00
9
10
/20
09
5/2
01
3
0
50
100
150
6/1
99
4
2/2
00
4
11
/20
04
8/2
00
5
11
/20
05
6/2
00
6
11
/20
06
8/2
00
7
12
/20
07
6/2
00
8
9/2
00
8
4/2
00
9
8/2
00
9
10
/20
09
5/2
01
3
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
Tháng
M
a
ät
ñ
o
ä t
e
á b
a
øo
(
te
á b
a
øo
.L
-1
)
447.823 554.300
113
114
Hình 8. Biến thiên mật độ tế bào (tb.L-1) và mực thủy triều (m) theo thời gian tại trạm khảo sát liên
tục 30 ngày trong vịnh Vân Phong vào tháng 4/6/1995-2/7/1995
Fig. 8. Temporal variations in cell density (tb.L-1) and tidal level (m) at anchor station in 30 days
in Van Phong bay from 4 June 1995 to 2 July 1995
Hình 9. Biến thiên mật độ tế bào (tb.L-1) của 2 nhóm tảo ở 2 tầng nước theo thời gian tại trạm khảo
sát liên tục 1 ngày đêm gần mũi Hòn Khói trong vịnh Vân Phong từ 21/7/1995 -
22/7/1995 (hình trái) và 5/10/1995-6/10/1995 (hình phải)
Fig. 9. Temporal variations in cell density (tb.L-1) of 2 phytoplankton groups at 2 layers
at anchor station in 1 day nearby Hon Khoi cape in Van Phong bay from 21 July 1995
to 22 July 1995 (left) and from 5 October 1995 to 6 October 1995 (right)
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
Mật độ tế bào Mức triềuMậtđộ tế bào (tb.L-1) Mức triều (m)
78797 58000
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 1 2
Tảo hai roi Tảo silic
6/1995 Ngày 7/1995
0
50
100
150
200
250
300
350
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
18
:0
0
21
:0
0
0:
00
3:
00
6:
00
9:
00
12
:0
0
15
:0
0
Tảo Silic (17-10m)
Tảo Silic (10-00m)
Tảo hai roi (17-10m)
Tảo hai roi (10-00m)
Tảo Silic
tb.L-1
Tảo hai roi
tb.L-1
Giôø
0
10
20
30
40
50
60
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
12
:0
0
16
:0
0
20
:0
0
0:
00
4:
00
8:
00
12
:0
0
Tảo Silic (17-10m)
Tảo Silic (10-00m)
Tảo hai roi (17-10m)
Tảo hai roi (10-00m)
Tảo Silic
tb.L-1
Giôø
Tảo hai roi
tb.L-1
116
IV. THẢO LUẬN
1. Về biến động số lượng loài TVPD theo
thời gian
Theo lý thuyết, trong cùng một hệ sinh thái,
số lượng loài TVPD thu được thường tỉ lệ
thuận với kích thước mẫu cũng như tần suất
thu mẫu. Điều này đúng với những trạm có
độ sâu lớn (khoảng 30m) và trao đổi nước
tốt với biển khơi như các trạm VP13, VP11,
VP10 có số lượng loài cao hơn các trạm
còn lại. Tuy nhiên cũng có thể thấy với độ
sâu lớn (khoảng 28m) và trao đổi với biển
khơi tốt nhưng trạm VP14 có số lượng loài
thấp hơn hẳn (chỉ gặp 72 loài) so với các
trạm còn lại. Trong đợt khảo sát tháng
5/2013, sự phân tầng nhiệt độ trong cột
nước khá rõ rệt nên lớp nước phía trên tầng
đột biến nhiệt có sự xáo trộn tốt, cường độ
bức xạ mặt trời cao, hàm lượng các muối
dinh dưỡng nitrate, phosphate, và silicat tại
tầng mặt cao nên các loài ưu thế trong cạnh
tranh phát triển nhanh và mạnh. Do đó, số
lượng loài ở tầng mặt thấp hơn tầng đáy
nhưng mật độ tế bào thì ngược lại. Cụ thể,
mật độ của loài tảo silic Leptocylindrus
danicus cao và gần như chiếm ưu thế tuyệt
đối tại tầng mặt từ khu vực cửa lạch Cửa Bé
(trạm VP14) vào đến lạch Cổ Lớn (trạm
VP05), và đạt mật độ cao nhất tại tầng mặt
của trạm VP06 trong vụng Cổ Cò,vịnh Vân
Phong. Sự yếu thế trong cạnh tranh về ánh
sáng và các muối dinh dưỡng cũng như
thích nghi kém với những thay đổi nhiệt độ-
độ muối là các nguyên nhân khiến nhiều
loài sinh trưởng kém, hoặc hóa bào tử, lắng
đáy, thậm chí chết đi như kết quả của
những thí nghiệm về giới hạn của
nitrate và silicat trên loài Chaetoceros
pseudocurvisetus (Kuwata và cs., 1993) hay
của sắt và nitrogen trên loài Thalassiosira
nordenskioeldii (Sugie & Kuma, 2008) hay
của nitrate và ammoni trên loài
Leptocylindrus danicus (Davis và cs.,
1980). Đây có thể là điều kiện thuận lợi để
các loài có lợi thế trong cạnh tranh như L.
danicus bùng phát nhanh chóng về mật độ
hay như trong vài trường hợp ưu thế khác
trước đây của các loài Chaetoceros spp.,
Proboscia alata, Pseudonitzschia spp.,
Thalassionema frauenfeldii, T. Nitzschi-
oides, Bacteriastrum furcatum,... ở vùng
nghiên cứu. Sự nở hoa của loài L. danicus
tại các vịnh Cam Ranh, Vân Phong đã được
báo cáo từ khá lâu và được xem như là loài
quyết định sinh vật lượng TVPD trong khu
vực ở một vài thời điểm nhất định (Larsen
& Nguyen-Ngoc, 2004). Loài L. danicus
phân bố rộng rãi ở các thủy vực ven bờ
nhiệt đới và thường bùng phát trong điều
kiện khô hạn và dinh dưỡng gia tăng. Loài
này cũng thường nở hoa ở Nhật Bản và
được cho là gây hại đến cá mú nuôi lồng
(Livingston, 2005). Phân tích biến động số
lượng loài TVPD theo thời gian cho thấy số
lượng loài tảo hai roi tăng rõ rệt có thể là do
sai số trong việc thu mẫu và định loại.
Trong giai đoạn 1982-1995, lưới Juday số
68 (có đường kính mắt lưới khoảng 76µm)
được sử dụng để thu mẫu định tính TVPD
trong khi ở vịnh Vân Phong có khá nhiều
loài TVPD sống đơn lẻ với kích thước tế
bào <70µm, đặc biệt là nhóm tảo hai roi.
Bên cạnh đó, việc hạn chế về phương tiện
phục vụ công tác định loại như thiếu tài liệu
nghiên cứu, kính hiển vi chưa hiện đại, khả
năng định loại hạn chế nên số lượng loài
thu thập, quan sát và định loại được tương
đối thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu
trong khoảng một thập kỷ trở lại đây. Cụ
thể như chi Protoperidinium là chi có số
lượng loài khá cao ở các thủy vực ven bờ
Việt Nam nói riêng và nhiệt đới nói chung,
tuy nhiên trong giai đoạn 1982-2009 mới
chỉ ghi nhận được 11 loài ở vịnh Vân
Phong, đến đợt khảo sát tháng 5/2013, khi
chi này được nghiên cứu kỹ hơn, đã xác
định được 31 loài. Như vậy đã bổ sung 20
loài vào thành phần khu hệ TVPD vịnh Vân
Phong. Ngoài ra, có thể thấy số lượng loài
định loại được có sự tương quan mật thiết
với số lượng trạm cũng như phạm vi phân
bố các trạm. Khá nhiều loài như
Chaetoceros diadema, C. dichaeta, Synedra
ulna, Ornithocercus steinii, Pyrocystis
pseudonoctiluca... bắt gặp trong các đợt
khảo sát năm 1994-1995 nhưng lại không
ghi nhận được trong các đợt khảo sát trong
5
116
khoảng 10 năm trở lại đây hoặc ngược lại
có nhiều loài chỉ mới được quan sát trong
những năm gần đây như Chaetoceros
socialis, Thalassiosira angustalineata, Cer-
atium hexacanthum, C. hircus, C. inflatum,
C. ranipes,...
2. Về biến động sinh vật lượng TVPD
theo thời gian
Ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng
thủy văn như mưa, gió, dòng chảy, thủy
triều tới quần xã TVPD là rõ rệt thông qua
tác động của chúng tới cấu trúc nhiệt-muối,
hàm lượng các muối dinh dưỡng. Nguyễn
Ngọc Lâm & Đoàn Như Hải (1995) đã ghi
nhận loài Noctiluca scintillans có mật độ
thấp trong mùa mưa và bắt đầu phát triển
vào đầu mùa khô. Đáng chú ý, trong tháng
5/1995, giá trị mật độ cực đại của loài này
là 30.000tb.L-1, trung bình đạt 13.200 tb.L-1
ở tầng mặt và 5.600tb.L-1 ở tầng đáy trong
toàn vịnh với hàm lượng trung bình của
muối dinh dưỡng nitrate và phosphate lần
lượt là 317,3µg.L-1 và 2,7µg.L-1. Kết quả
thí nghiệm cho thấy, sự di chuyển thẳng
đứng của loài Noctiluca scintillans nhằm
thích nghi với sự thay đổi độ muối và chờ
điều kiện môi trường thuận lợi để phát
triển, trong khi các quần thể ở tầng mặt dễ
chết đi khi độ muối giảm do nước sông hay
mưa (Lirdwitayaprasit và cs., 2012). Điều
đó có thể lý giải vì sao loài này thường gặp
vào cuối mùa khô và tập trung mật độ tế
bào ở tầng đáy cho đến khi nở hoa. Mức độ
biến động thành phần loài cũng như sinh
vật lượng TVPD theo thời gian phụ thuộc
vào vị trí của trạm thu mẫu do mức độ thay
đổi các yếu tố môi trường. Cụ thể vào tháng
5/2013, có thể thấy những trạm nằm sâu
trong vịnh và trong vùng nuôi trồng thủy
sản có khả năng trao đổi nước với khối
nước biển khơi bị hạn chế. Kết quả phân
tích chỉ số giống nhau về thành phần loài và
mật độ tế bào giữa tầng mặt và tầng đáy, và
giữa các trạm cho thấy, có sự sai khác khá
rõ về thành phần loài tại tầng đáy trong khu
vực vụng Cổ Cò và lạch Cửa Bé so với
thành phần loài ở tầng mặt và khu vực còn
lại do ưu thế về mật độ của loài L. danicus.
Do sự khác nhau đáng kể về kích thước tế
bào của các loài có mật độ cao tại các trạm
nên phân bố về sinh khối carbon của TVPD
có nhiều khác biệt so với phân bố mật độ tế
bào. Cụ thể có thể thấy loài L. danicus tuy
có kích thước tế bào tương đối nhỏ nhưng
do có mật độ cao tại tầng mặt trạm VP06
nên cho sinh khối cao đáng kể và đóng góp
chủ yếu vào tổng sinh khối TVPD cao nhất
trong số các trạm khảo sát. Ngược lại, 2 loài
tảo silic trung tâm khác có kích thước tế
bào lớn là Guinardia flacida tuy mật độ chỉ
là 1.051tb.L-1 tại tầng mặt trạm VP14 và
loài Neocalyptrella robusta có mật độ
15tb.L-1 tại tầng đáy nhưng sinh khối lại
chiếm lần lượt tới 43,7% và 31,1% tổng
sinh khối của mẫu thu. Sinh khối tế bào
TVPD, hàm lượng chlorophyll a và
fluorescence tại tầng mặt thấp hơn rõ rệt so
với tầng đáy.
Phân tích kết quả khảo sát 3 ngày đêm
liên tục tại khu vực gần Hòn Ké- lạch Cửa
Lớn (vũng Bến Gỏi) vào tháng 6/1994 và
trạm liên tục 1 ngày đêm gần mũi Hòn Khói
trong mùa khô (tháng 7/1995) và mùa mưa
(tháng 10/1995) cho thấy: mật độ tế bào
TVPD nói chung và của 2 nhóm tảo chính
là silic và hai roi nói riêng trong vịnh Vân
Phong tại tầng mặt và tầng đáy thay đổi
theo thời gian như chu kỳ thủy triều, chu kỳ
ngày-đêm. Khoảng thời gian biên độ triều
rộng thì sự trao đổi nước giữa điểm nghiên
cứu và khối nước biển khơi là tốt hơn cả và
khối nước biển khơi này mang một lượng
đáng kể tảo hai roi vào sâu trong vịnh.
Trong khi đó tảo silic chiếm ưu thế gần như
tuyệt đối về mật độ tế bào trong những thời
điểm biên độ triều thấp. Ngoài ra, biến
động này còn phụ thuộc vào sự di chuyển
thẳng đứng của nhóm tảo hai roi, sự ăn mồi
của nhóm động vật phù du, động vật
nguyên sinh. Trong cột nước, cường độ ánh
sáng giảm theo hàm mũ (theo quy luật
Lamber-Beer) và phụ thuộc vào hàm lượng
chất lơ lửng, độ đục của nước. Do đó, yếu
tố mùa (mưa-khô) có ảnh hưởng đến phân
bố mật độ theo không gian mặt rộng và tầng
nước thông qua biến động hệ số tiêu giảm
ánh sáng trong cột nước bên cạnh thay đổi
116
hàm lượng các muối dinh dưỡng, cấu trúc
nhiệt độ và độ muối. Khu vực phía bắc và
tây của vịnh thường có hàm lượng các muối
dinh dưỡng cao là điều kiện để các loài tảo
silic kích thước tế bào nhỏ gia tăng mật độ
nhanh chóng, quy định đặc trưng phân bố
sinh vật lượng TVPD trong toàn vịnh trong
các đợt khảo sát. Có thể thấy mật độ tế bào
thường cao ở phía bắc và phía tây của vịnh
Vân Phong, nơi tập trung các khu nuôi
trồng thủy sản, khu dân cư.
Mật độ tế bào TVPD trung bình của vịnh
Vân Phong gần như tương đương với các
vùng biển có sự trao đổi nước tốt với biển
khơi như tại Hòn Dung của vịnh Nha
Trang, phía ngoài cửa sông Nha Phu
(Khánh Hòa), vịnh Phan Thiết (Bình
Thuận) nhưng lại thấp hơn đáng kể so với
các trạm khảo sát trong vùng cửa sông giàu
dinh dưỡng như trạm Cửa Bé (Khánh Hòa),
trạm Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu) và cao
hơn đáng kể so với vịnh Thái Lan, bờ
đông Peninsular (Malaysia), vịnh Coron
(Philippines) (Boonyapiwat, 1997; Nguyễn
Ngọc Lâm và cs., 2002; Nguyễn Chí Thời
và cs., 2011). Các loài thường xuyên chiếm
ưu thế trong vịnh Vân Phong và các điểm
được so sánh khác cũng khá giống nhau và
đều là những loài rộng nhiệt-muối, có phân
bố rộng (Bảng 2). Số lượng loài gặp trong
tháng 5/2013 tại vịnh Vân Phong là 229
loài (từ năm 1994 đến 2013 là 422 loài) là
tương đối cao so với các vùng được so sánh
và cho thấy tương quan thuận với tần suất
thu mẫu và phạm vi nghiên cứu.
Bảng 2. Số lượng loài, mật độ tế bào TVPD ở một số vùng cửa sông, vịnh của Việt Nam
và khu vực Đông Nam Á
Table 2. Number of species, cell density of phytoplankton in estuaries and bays of Vietnam
and South-East Asia region
Trạm/Khu vực Năm Số loài Mật độ tế bào
(tb.L-1)
Các loài thường xuyên
ưu thế
Tài liệu TK
14 trạm,
vịnh Vân Phong,
Khánh Hòa
(n=14)
5/2013 229 Min-Max:
1.231-564.300
Average:
39.899±110.155
Leptocylindrus danicus,
Skeletonema costatum,
Thalassionema frauenfeldii
Nghiên cứu
này
1 trạm, Hòn
Dung, vịnh Nha
Trang, Khánh
Hòa (n=13)
4/2009-
11/2010
206 Min-Max:
695-319.830
Average:
30.307±75.856
Chaetoceros spp.,
Skeletonema spp.
Nguyễn Ngọc
Lâm và cs.,
2014
1 trạm, cửa sông
Nha Phu, Khánh
Hòa (n=13)
4/2009-
11/2010
204 Min-Max:
1.163-407.917
Average:
44.633±94.606
Chaetoceros spp.,
Pseudonitzschia spp.
Nguyễn Ngọc
Lâm và cs.,
2014
1 trạm, cửa sông
Cửa Bé, Khánh
Hòa (n=12)
3/2000-
2/2001
100 Min-Max:
11.826-1.404.308
Average:
256.867±360.746
Gonyaulax spp.,
Protoperidinium spp.,
Peridinium quinquecorne,
Coscinodiscus sp.,
Skeletonema spp.
Nguyễn Ngọc
Lâm và cs.,
2002
1 trạm, vịnh
Phan Thiết, Bình
Thuận (n=12)
5/2007-
9/2008
201 Min-Max:
2.727-104.451
Average:
44.966±30.843
Chaetoceros spp.,
Bacteriastrum sp.
Pseudo-nitzschia spp.,
Guinardia striata,
Bellerochea horologicalis
Nguyễn Ngọc
Lâm và cs.,
2014
117
118
1 trạm quan trắc
Vũng Tàu, Bà
Rịa-Vũng Tàu
(n=108)
5/2001-
8/2010
250 Min- Max:
643-2.632.400
Average:
164.372±360.465
Chaetoceros sp.,
Planktoniella blanda,
Skeletonema sp.,
Pseudonitzschia spp.
Nguyễn Chí
Thời và cs.,
2011
81 trạm, vịnh
Thái Lan và bờ
đông Peninsular
Malaysia
(n=161)
9-10/1995
4-5/1996
260 Min- Max:
135-113.336
Average:
3.254±10.287
Trichodesmium erythraeum,
Thalassionema frauenfeldii,
Chaetoceros lorenzianus,
Skeletonema costatum
Sopana
Boonyapiwat,
1997
33 trạm, vịnh
Coron,
Philippines
(n=33)
5/2004 119 Min-Max:
62-6.940
Average:
1.679±1.651
Chaetoceros, Bacteriastrum,
Coscinodiscus spp.
Asis và cs.,
2006
V. KẾT LUẬN
Tổng cộng có 428 loài được ghi nhận qua
khoảng 3 thập kỷ, trong đó đợt thu mẫu
tháng 5/2013 đã ghi nhận được 229 loài, bổ
sung 39 loài mới ghi nhận cho khu hệ
TVPD trong khu vực nghiên cứu, trong
đó có 20 loài thuộc chi tảo hai roi
Protoperidinium. Các nghiên cứu trước
năm 2004 ghi nhận được số loài ít hơn hẳn
có thể do những hạn chế trong thu mẫu và
định loại. Số lượng loài tảo silic ghi nhận
trong tháng 5/2013 gia tăng không đáng kể
nhưng số lượng loài tảo hai roi lại tăng khá
rõ sau 30 năm. Các nhóm tảo khác như vi
khuẩn lam, tảo lục và tảo xương cát không
có biến động đáng kể theo thời gian. Trong
khi mật độ tế bào có xu hướng tăng thì sinh
khối carbon có xu hướng giảm từ năm 1994
đến năm 2013, tuy nhiên những biến động
này là khá thấp và chưa rõ quy luật. Các
điều kiện khí tượng-thủy văn, động lực bao
gồm cả sự tồn tại lớp phân tầng nhiệt-muối
đã ảnh hưởng rõ rệt đến đặc trưng phân bố
thành phần loài cũng như sinh vật lượng
TVPD ở vịnh Vân Phong thông qua những
biến động TVPD theo mùa (mưa-khô), thủy
triều, chu kỳ ngày đêm, tầng nước.
Lời cảm ơn. Công trình này là một phần
của đề tài cấp cơ sở - Viện Hải dương học
(Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam). Các số liệu trong bài báo được
tổng hợp và phân tích từ nguồn tư liệu của
phòng Sinh vật phù du biển qua các đề
tài/dự án: Sinh vật nổi vùng biển Việt Nam
(1982-1984), Xây dựng cơ sở khoa học cho
việc quy hoạch sử dụng có hiệu quả
vịnh Vân Phong - Bến Gỏi (1994-1997),
HABViet (1998 - 2008), NUFU (2004 -
2009), và Giám sát môi trường vịnh Vân
Phong (2009).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asis J. J. C., W. L. Campos & F. M.
Nabuab, 2006. Abundance, composition
and distribution of phytoplankton in
Calamianes, Palawan. Science Diliman,
18(2): 1-9.
Boonyapiwat S., 1997. Distribution, abund-
ance and species composition of
phytoplankton in the South China Sea,
Area I: Gulf of Thailand and East Coast
of Peninsular Malaysia. Proceedings of
the First Technical Seminar on Marine
Fishery Resources Survey in the South
China Sea. Bangkok, Thailand. pp. 111-
134.
Bùi Hồng Long, Phạm Sỹ Hoàn, Lê Đình
Mầu, Nguyễn Kim Vinh, Nguyễn Văn
Tuân, Trần Văn Chung, Nguyễn Chí
Công, 2011. Cẩm nang tra cứu về điều
kiện tự nhiên, môi trường-sinh thái, kinh
tế, xã hội và quản lý tổng hợp đới ven bờ
biển Nam Trung bộ. Quyển 1. NXB.
120
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 220
trang.
Coutinho M. T. P, A. C. Brito, P. Pereira,
A. S. Gonçalves, M. T. Moita, 2012. A
phytoplankton tool for water quality
assessment in semi-enclosed coastal
lagoons: Open vs closed regimes.
Estuarine, Coastal and Shelf Science,
110: 134–146.
Davis C. O., J. T. Hollibaugh, Don L.
R.Seibert, W. H. Thomas, P. J. Harrison,
1980. Formation of resting spores by
Leptocylindrus danicus (Bacillariophy-
ceae) in a controlled experimental
ecosystem. Journal of Phycologia, 16:
296-302.
D’Costa P. M. & A. C. Anil, 2010. Diatom
community dynamics in a tropical,
monsoon - influenced environment:
West coast of India. Continental Shelf
Research, 30: 1324–1337.
Fowler J. & L. Cohen, 1990. Practical
statistics for field biology. Open
University Press. Printed by John Wiley
and Sons Ltd., England, pp. 179-207.
Gin Yew-Hoong K., X. Lin, S. Zhang,
2000. Dynamics and size structure of
phytoplankton in the coastal waters
of Singapore. Journal of Plankton
Research, 22 (8): 1465–1484.
Granéli E. & J. T. Turner, 2006. Ecology of
harmful algae. Ecological study, 189:
415pp.
Kuwata A., T. Hama & M. Takahashi,
1993. Ecophysiological characterization
of two life forms, resting spores and
resting cells, of a marine planktonic
diatom, Chaetoceros pseudocurvisetus,
formed under nutrient depletion. Marine
Ecology Progress Series, 102: 245–255.
Larsen J. & L. Nguyen - Ngoc (eds.), 2004.
Potentially toxic microalgae of Vietnam-
ese waters. Opera Botanica, 140: 216 pp.
Lirdwitayaprasit T., P. Chuabkarnrai, C.
Nitithamyong, K. Furuya, 2012. Effect
of salinity on vertical migration of green
Noctiluca under laboratory conditions.
Coastal Marine Science, 35 (1):70-72.
Livingston R., 2005. Restoration of aquatic
systems. CRC-Marine Science Series,
448p.
Lugoli F., M. Garmendia, S. Lehtinen, P.
Kauppila, S. Moncheva, M. Revilla, L.
Roselli, N. Slabakova, V. Valencia,
K. M. Dromph, A. Basset, 2012.
Application of a new multi - metric
phytoplankton index to the assessment
of ecological status in marine and
transitional waters. Ecological Indi-
cators, 23: 338–355.
Nguyễn Chí Thời, Đoàn Như Hải, Nguyễn
Ngọc Lâm, 2011. Thực vật phù du tại
trạm quan trắc Vũng Tàu từ năm 2001-
2010. Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
49 (6B): 57-64.
Nguyen-Ngoc L., N. H. Doan, V. T. Pham,
1997. Outbreak of Noctiluca scintillans
(Mac.) Ehr. related to eutrophication in
Vanphong-Bengoi bay, Central Vietnam.
Proceeding of the ASEAN - CANADA
Technical Conference on Marine
Science IX: 29-35.
Nguyễn Ngọc Lâm & Đoàn Như Hải, 1995.
Góp phần tìm hiểu cấu trúc quần xã
TVPD vịnh Vân Phong-Bến Gỏi. Báo
cáo chuyên đề, 5 trang.
Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Thị Mai Anh,
Đoàn Như Hải và Hồ Văn Thệ, 2002.
Biến đổi theo mùa của thực vật phù du
trong thủy vực nước nông vùng cửa sông
Cửa Bé, vịnh Nha Trang, miền Trung
Việt Nam. Tuyển tập nghiên cứu biển,
XII: 129-148. NXB. Khoa học và Kỹ
thuật.
Nguyễn Thị Bình, Hoàng Thúy Linh &
Nguyễn Ngọc Lâm, 1985. Thực vật nổi
vịnh Vân Phong-Bến Gỏi. Báo cáo
chuyên đề.
Sournia A., 1978. Phytoplankton manual.
UNESCO, printed in France, 337 pp.
Sugie Koji & Kenshi Kuma, 2008. Resting
spore formation in the marine diatom
Thalassiosira nordenskioeldii under
iron- and nitrogen-limited conditions.
Journal of Plankton Research, 30(11):
1245-1255.
19
120
Taylor F. J. R., 1976. Dinoflagellates from
the International Indian Ocean Expe-
dition. A report on material collected by
the R. V. “Anton Bruun” 1963-1964,
Stuttgart, Berlin.
Tomas C. R., 1997. Identifying marine
phytoplankton. New York: Academic
Press. Harcourt Brace & Company, 584
pp.
Trigueros J. M. & E. Orive, 2000. Tidally
driven distribution of phytoplankton
bloom in a shallow, macrotidal estuary.
Journal of Plankton Research, 22(5): 969
- 986.
Trương Ngọc An, 1993. Tảo Silic phù du
biển Việt Nam. NXB. Khoa học và Kỹ
thuật, 315 trang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_nguyenchithoi_trang104_120_4669_2070871.pdf