Tây nguyên có 638 hồ thủy lợi, thủy điện, tổng
diện tích mặt nước hồ là 78.698 ha, chiếm 1.44%
diện tích tự nhiên. Việc xây dựng hồ ảnh hưởng tới
nơi sinh sống của 4.013 loài (khoảng 30% số loài
của Việt Nam) thực vật, 126 loài thú, 412 loài chim,
64 loài bò sát, 30 loài ếch nhái ở Tây Nguyên.
Các công trình thủy lợi, thủy điện ở Tây
Nguyên tạo nên 142 thủy vực có diện tích 2-10 ha;
402 điểm có diện tích 10-100 ha và 94 điểm có
diện tích >100 ha. Điểm thủy vực có diện tích nhỏ
nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 2,09 ha và lớn nhất là hồ
Sê San 4 là hơn 10.000 ha. Đây là những nơi sống
mới cho các loài thủy sinh vật và những loài kiếm
ăn ở môi trưởng thủy vực.
Tổng sinh khối thực vật bị bị biến động do hồ
thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên tới năm 2012 vào
khoảng 15.7 triệu tấn. Tại Đắk Lắk là 2.828,560
tấn; Đắk Nông, 2.427,208 tấn; Gia Lai, 4.367,638
tấn; Kon Tum, 3.689,574 tấn; Lâm Đồng,
2.426,386 tấn. Đối với động vật công trình thủy
lợi, thủy điện ở Tây Nguyên làm chia cắt đường di
chuyển của các loài cá di cư và chia cắt đường di
cư của các loài động vật sống trên cạn không
biết bơi.
Các hồ thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên là tiền
đề cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở Tây
Nguyên. Tính đến năm 2010 dựa vào nghề nuôi
thủy sản trong các hồ, sản lượng thủy sản ở Tây
Nguyên đạt 20.603 tấn, chiếm 0,76% so với cả
nước, tăng gần gấp đôi kể từ 2006. Tỉnh Lâm Đồng
tăng cao nhất với 0,2237 tấn/ha và tỉnh Kon Tum
tăng thấp nhất, chỉ đạt 0,037 tấn/ha
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến động tài nguyên sinh vật do tác động của công trình thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
75
36(1), 75-81 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2014
BIẾN ĐỘNG TÀI NGUYÊN SINH VẬT
DO TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG TRÌNH THỦY LỢI,
THỦY ĐIỆN Ở TÂY NGUYÊN
NGUYỄN LẬP DÂN1, HÀ QUÝ QUỲNH2
Email: phongtnnm@gmail.com
1Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Ban ứng dụng và Triển khai công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 5 - 4 - 2013
1. Mở đầu
Việt Nam là nước nông nghiệp, đời sống của
đại bộ phận người dân phụ thuộc vào các sản phẩm
từ tài nguyên sinh vật (nuôi trồng, khai thác, đánh
bắt, thu hái,...). Trong ba thập kỷ qua do khai thác
tài nguyên sinh vật, phá rừng làm nương rẫy, khai
thác khoáng sản, mở rộng diện tích đô thị và xây
dựng công trình thủy lợi, thủy điện làm tài nguyên
sinh vật bị biến đổi về thành phần loài, diện tích,
sinh khối, hình thành các hệ sinh thái mới,
Vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia
Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Có tọa độ địa
lý từ: 11°14’ đến 15°24’ vỹ độ bắc và từ 107°12’
đến 108°59’ kinh độ đông.
Khi các công trình thủy lợi, thủy điện tích nước
làm thay đổi về cấu trúc tài nguyên sinh vật, sinh
khối và giá trị kinh tế của lãnh thổ.
Bài báo này trình bày sự thay đổi tài nguyên
sinh vật ở Tây Nguyên do các công trình thủy lợi,
thủy điện. Mục tiêu của bài báo là: (1) Chỉ ra sự
biến động của tài nguyên sinh vật do tác động của
các công trình thủy điện và thủy lợi; (2) Đánh giá
sự thay đổi của tài nguyên sinh vật ở Tây Nguyên.
2. Hệ thống công trình thủy lợi, thủy điện và tài
nguyên sinh vật ở Tây Nguyên
Tây Nguyên có 638 hồ thủy lợi. Các công trình
này tác động tới việc thay đổi từ hệ sinh thái cạn
sang hệ sinh thái ngập nước. Tỉnh Đắk Lắk có
nhiều công trình thủy lợi, thủy điện nhất với 321
hồ; Đắk Nông, 138 hồ đứng thứ 2; Lâm Đồng, 84
hồ; Gia Lai, 70 hồ, và tỉnh Kon Tum có 25 hồ.
Nhìn chung, các hồ phân bố khắp trên lãnh thổ Tây
Nguyên (hình 1). Diện tích đất chiếm dụng của các
công trình thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên là
78.698 ha, trong đó tỉnh Đắk Lắk là 14.143 ha, tỉnh
Đắk Nông 12.136 ha; Gia Lai, 21.838 ha, tỉnh Kon
Tum 18.448 ha và tỉnh Lâm Đồng là 12.132 ha. Tỷ
lệ diện tích các công trình thủy lợi, thủy điện so với
diện tích tự nhiên của các tỉnh như sau: tỉnh Đắk
Lắk chiếm 1,13%, Đắk Nông, 1,72%; Gia Lai,
1,4%, Kon Tum, 1,9% và tỉnh Lâm Đồng chiếm
1,24%.
Tài nguyên sinh vật gồm tài nguyên thực vật và
động vật. Tài nguyên thực vật ở Tây Nguyên tương
đối đa dạng và phong phú. Đã xác định được
4.013 loài thuộc 201 họ, 127 chi thực vật bậc cao
có mạch, chiếm > 30% tổng số loài thực vật ở Việt
Nam. Trong đó lớp 2 lá mầm là 3.127 loài, 1 lá
mầm là 866 loài.
Độ che phủ thảm thực vật ở Tây Nguyên cao
nhất so với các vùng khác trên cả nước, tính tới
năm 2010 diện tích rừng của tỉnh Kon Tum chiếm
67,3 %; Gia Lai là 46,0%; Đắk Lắk là 47,2%; Đắk
Nông là 49,0 và tỉnh Lâm Đồng là 61,2 %; tỷ lệ
che phủ trung bình cả nước là 26,2%.
Các kiểu rừng bị ngập trong các công trình thủy
lợi ở Tây Nguyên gồm: (1) Kiểu rừng kín thường
xanh; (2) Kiểu rừng kín nửa rụng lá; (3) Rừng
khộp; (4) Rừng thứ sinh; (5) Rừng hỗn giao tre
nứa; (6) Trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác;
(7) Trảng thực vật ngập nước; (8) Thảm cây
nông nghiệp.
76
Hình 1. Vị trí các hồ đập ở Tây Nguyên (Nguồn: Phòng Địa lý Thủy văn - Viện Địa lý)
77
Rừng kín thường xanh là nơi có điều kiện dinh
dưỡng cao và độ ẩm được duy trì. Thực vật tạo
rừng, phổ biến là các loài trong họ Dầu
(Dipterocarpaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ
hòn (Sapindaceae), họ Đậu (Leguminosae), họ
Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Dâu tằm
(Moraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Long não
(Lauraceae), họ Tử vi (Lythraceae), họ Bàng
(Combretaceae), họ Na (Annonaceae), họ Trâm
(Myrtaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Thị
(Eberaceae), họ Bứa (Guttiferae) và nhiều họ khác.
[3, 5].
Rừng kín nửa rụng lá chiếm diện tích nhỏ ở
những vùng có mùa khô dài hơn 5 tháng. Các loài
thực vật chủ yếu gồm: họ Tử vi (Lythraceae), dưới
tán rừng có nhiều loài tre trúc.
Rừng khộp phát triển ở những nơi có khí hậu
có mùa khô từ 6 đến 8 tháng. Các loài chủ yếu
thuộc họ Dầu (Dipterocarpus), dưới tán rừng là loài
tre rụng lá mọc thành các bụi dày.
Rừng thứ sinh, thành phần thực vật tạo rừng
phản ánh tính khô hạn của đất sau canh tác nương
rẫy nhiều lần. Các loài thực vật tạo rừng chịu khô
hạn chủ yếu gồm: Cáng lò (Betula alnoides), Bồ đề
vỏ đỏ (Styrax benjoin), Lát xoan (Choespondias
axillaris), Hu lá hẹp (Trema angustifolia),... Rừng
có 2 tầng cây gỗ, một tầng cây bụi và một tầng
thảm tươi của các loài thuộc họ Cỏ (Gramineae),
họ Lan (Orchidaceae), họ Gừng (Zingiberaceae),...
Thực vật ngoại tầng và phụ sinh phát triển.
Rừng hỗn giao tre nứa có các loài phổ biến
gồm: Lồ ô (Schizostachyum sp1.), Nứa
(Schizostachyum sp2), Các loài Le
(Pseudoxytenanthera spp.), loài Lịm (Melocalamus
compactiflorus) và loài Giang (Macclurochloa
vietnaensis) [3].
Trảng cỏ, cây bụi có các loài ưu thế gồm: Cỏ
tranh (Imperata cylindrica); loài dây leo như Bòng
bong (Lygodium spp.), Hà thủ ô trắng
(Streptocaulon griffithii), Sắn dây rừng (Pueraria
thomsonii); các loài rụng lá chịu khô hạn như:
Thẩu tấu lông hoe (Aporosa filicifolia), Thẩu tấu
răng cưa (Aporusa serrata), Lá nến (Macaranga
denticulata), Bùm bụp nâu (Mallotus paniculatus,
Thành ngạnh (Cratoxylon formosum), Sổ trứng
(Dillenia ovata), Chà hươu nhẵn (Wendlandia
glabrata), Chà hươu tôren (Wendlandia thorelii),
Cò ke lá lõm (Grewia tomentosa), Núc nác
(Oroxylon indicum), Cuống vàng (Gonocaryum
lobbianum),...
Trảng thực vật ngập nước, chủ yếu là loài Liễu
bốn hạt (Salix tetrasperma) thuộc họ Liễu
(Salicaceae) hoặc Dong dại (Donax cannaeformis)
thuộc họ Huỳnh tinh (Amarantaceae) mọc thành
từng đám nhỏ hay dải hẹp dọc theo suối. Trảng cỏ
thứ sinh tiên phong phục hồi phổ biến là Sậy
(Phragmites vallatoria) thuộc họ Cỏ (Gramineae).
Thảm cây nông nghiệp, diện tích nhỏ, thực vật
gây trồng đều là cây ngắn ngày như Sắn (Manihot
esculenta) và Lúa nước (Ozyza saltiva). Một vài
nơi có những trảng cỏ cao thứ sinh mọc trên đất lẫn
sỏi đá dọc theo suối.
Tài nguyên động vật có mối quan hệ mật thiết
với các tài nguyên thực vật nêu trên. Các kiểu rừng
trên ở Tây Nguyên là nơi sinh sống của 126 loài
thú thuộc 31 họ, 14 bộ, 412 loài chim thuộc 71 họ,
19 bộ, 64 loài bò sát thuộc 20 họ, 3 bộ, 30 loài ếch
nhái thuộc 8 họ, 2 bộ. Các kiểu rừng nêu trên còn
là môi trường sống của nhiều loài động vật quý
hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam như các loài
thuộc bộ Linh trưởng, bộ Dơi, bộ ăn thịt, bộ guốc
chẵn. Một số loài quý hiếm cụ thể ở Tây Nguyên
gồm: Bò xám (Bos sauveli), Voi (Elephas
maximus), Bò tót Bos gaurus, Bò rừng Bos banten,
Trâu rừng (Bubalus bubalis , hươu cà toong
(Cervus eldi), hươu vàng (Cervus porcinus), mang
lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Chà vá chân
đen (Pygathrix nigripes), Chà vá chân xám
(Pygathrix cinerea), Vượn má hung (Nomacus
gabriellae) [4].
3. Biến động và diễn thế tài nguyên sinh vật ở
Tây Nguyên do tác động của công trình thủy lợi,
thủy điện
Các công trình thủy lợi tác động tới tài nguyên
sinh vật ở Tây Nguyên, thể hiện qua: (1) vùng phân
bố; (2) sinh khối; (3) đường di cư; (4) các tác động
tới môi trường sống (tiếng ồn; bụi; đất; không khí);
và (5) phát triển ngành nuôi trồng thủy sản.
3.1. Vùng phân bố
Tây Nguyên có 638 hồ thủy lợi, tác động tới
vùng phân bố của tài nguyên sinh vật (hình 1). Do
xây dựng công trình nên tài nguyên sinh vật phân
bố trên diện tích 78.698 ha chịu những tác động
gồm; (1) Giảm diện tích phân bố của tài nguyên
thực vật; (2) Mất nơi sinh sống của một số loài
động vật; (3) tăng diện tích mặt nước cho các
78
loài thủy sinh vật.
Bảng 1 cho thấy 638 hồ làm giảm 78.698 ha
diện tích phân bố của tài nguyên thực vật (chiếm
1.44%) diện tích tự nhiên ở Tây Nguyên. Trong đó
tỉnh Đắk Lắk giảm 14.143 ha (chiếm 1,13% diện
tích tự nhiên) do xây dựng 321 hồ; tỉnh Đắk Nông
giảm 12.136 ha (1,72%), 138 hồ; tỉnh Gia Lai,
21.838 ha (1,4%), 70 hồ; tỉnh Kon Tum giảm
18.448 ha (1,9%), 25 hồ và tỉnh Lâm Đồng giảm
12.133 ha (chiếm 1,24%) do xây dựng 84 hồ.
Rừng kín ở vùng thượng nguồn đập là môi
trường sống của các loài động vật nên khi bị ngập
kéo theo các động vật quý hiếm bị thu hẹp môi
trường sống gồm: Voi (Elephas maximus), Bò tót
Bos gaurus, Bò rừng Bos banten, Trâu rừng
(Bubalus bubalis , hươu cà toong (Cervus eldi),
hươu vàng (Cervus porcinus), mang lớn
(Megamuntiacus vuquangensis), Chà vá chân đen
(Pygathrix nigripes), Chà vá chân xám (Pygathrix
cinerea), Vượn má hung (Nomacus gabriellae) [4].
Đối với rừng thứ sinh và trảng cây bụi, khi bị
ngập đã làm ảnh hưởng tới môi trường sống của
các loài thuộc họ Trĩ Phasianidae, bộ Gà
Galliformes, các loài kỳ đà và rắn.
Bảng 1. Diện tích mặt nước các công trình thủy lợi,
thủy điện ở các tỉnh Tây Nguyên [3]
TT Tỉnh Diện tích mặt nước hồ (ha) Số hồ
Diện tích
(đất tự
nhiên) ha
Tỷ lệ %
1. Đắk Lắk 14.143 321 1.251.937 1,13
2. Đắk Nông 12.136 138 704.916 1,72
3. Gia Lai 21.838 70 1.555.346 1,40
4. Kon Tum 18.448 25 968.745 1,90
5. Lâm Đồng 12.133 84 978.611 1,24
Tổng 78.698 638 5.459.555 1,44
3.2. Tạo môi trường sống mới cho các loài thủy
sinh vật
Công trình thủy lợi, thủy điện tạo nên môi
trường sống thủy vực mới cho các thủy sinh vật ở
Tây Nguyên. Có 638 điểm sinh sống mới ở Tây
Nguyên được tạo bởi 638 hồ thủy lợi, thủy điện.
Đây là môi trường sống thích hợp cho các loài thủy
sinh vật và một số loài chim nước.
Quy mô diện tích các thủy vực ở Tây Nguyên
bao gồm: 142 hồ có diện tích <10 ha; 402 hồ có
diện tích 10-100 ha và 94 hồ có diện tích
>100 ha (bảng 2). Tại tỉnh Đắk Lắk hồ có diện tích
nhỏ nhất rộng 2,09 ha và lớn nhất là 2.200 ha; tỉnh
Đắk Nông tương ứng là 5 ha và 3.486 ha; tỉnh Gia
Lai là 3,36 ha và 5.120 ha; tỉnh tỉnh Kon Tum là
6,78 ha và 7.481 ha và tỉnh Lâm Đồng là 8,59 ha
và 2.300 ha. Có 2 hồ thủy lợi thủy điện là Sê San 3
và Sê San 4 nằm trên diện tích 2 tỉnh Gia Lai và
Kon Tum. Tổng diện tích mặt nước hồ Sê San 4 là
hơn 10.000 ha, đây cũng là hồ có diện tích lớn nhất
ở Tây Nguyên.
Bảng 2. Quy mô diện tích hồ thủy lợi
ở các tỉnh Tây Nguyên [3]
Quy mô diện tích
TT Tỉnh
100 ha
Tổng
1. Đắk Lắk 112 189 20 321
2. Đắk Nông 15 101 22 138
3. Gia Lai 8 38 24 70
4. Kon Tum 5 15 5 25
5. Lâm Đồng 2 59 23 84
Tổng 142 402 94 638
Tài nguyên thủy sinh vật ở 638 hồ nhìn chung
phát triển theo 3 giai đoạn [1]:
Giai đoạn đầu, huỷ hoại hệ sinh thái cũ, các
dạng sống trên vùng đất khô gồm các loài thực vật,
động vật đất; các loài thủy sinh vật, sống trong vực
nước chảy, vùng thượng lưu và các loài thuỷ sinh
vật sống ở ven bờ như giun đất, các dạng ấu trùng
côn trùng sống bám hoặc ở khe sỏi đá, Giai đoạn
này ở hồ kéo dài không lâu, khoảng hai năm.
Trong giai đoạn đầu tích nước, dòng chảy bù được
xả cho đoạn sông phía hạ lưu đập. Sự điều chỉnh
này ảnh hưởng đến các loài thuỷ sinh vật ở phía hạ
lưu. Sản lượng cá khá tốt vì có nguồn thức ăn và
dinh dưỡng từ các vùng đất cạn bị ngập. Theo thời
gian, sản lượng cá giảm. Chỉ có một số loài cá sẽ
thích nghi được với đời sống trong hồ.
Giai đoạn hai, hình thành khu hệ thuỷ sinh vật
mới; thành phần loài và số lượng thực vật phù du
tăng do sự tích tụ các muối dinh dưỡng và vô cơ
hoá các chất hữu cơ có nguồn gốc từ xác thực vật
trong vùng ngập nước.
Giai đoạn ba, hình thành khu hệ thuỷ sinh
tương đối ổn định về thành phần loài và số lượng.
Do đặc điểm hồ sâu, hẹp, nguồn muối dinh dưỡng
từ các suối ngắn có độ dốc cao, nghèo dinh dưỡng
sẽ hình thành khu hệ thuỷ sinh vật đặc biệt là động
vật phiêu sinh và động vật đáy. Tính đa dạng của
79
cá sẽ giảm 30-50% [1].
Hồ ở Tây Nguyên đóng góp quan trọng cho
nghề nuôi trồng thủy sản, nuôi cá lồng đã được
triển khai trên hầu hết các hồ ở Tây Nguyên. Nhiều
sản phẩm thủy sản có giá trị cao được sản xuất ở
các hồ đập thủy lợi ở Tây Nguyên. Khoảng 31 loài
cá đã được nuôi, một số cá phổ biến như Chim,
Mè, Trôi, Trắm, Chép, Rô phi, các loài cá nước
lạnh như cá Giòn, các Tầm được nuôi ở tỉnh Lâm
Đồng [2].
3.3. Biến động về sinh khối
Theo các nghiên cứu của Thái Văn Trừng [3]
và một số công trình nghiên cứu khác thì lượng
sinh khối thực vật tích lũy trong các thảm thực vật
khu vực Tây Nguyên ước vào khoảng 100 tấn đến
250 tấn trên một ha. Qua thực tế sinh khối ở hệ
sinh thái rừng bị ngập trong các công trình thủy lợi,
thủy điện ở Tây Nguyên khoảng 200 tấn/ha. Như
vậy tổng sinh khối thực vật bị ngập trong hồ thủy
lợi, thủy điện ở Tây Nguyên được thể hiện trong
bảng 3.
Tổng lượng sinh khối thực vật bị ngập trong
các lòng hồ thủy lợi, thuỷ điện ở Tây Nguyên tới
năm 2012 vào khoảng 15,7 triệu tấn. Tỉnh Gia Lai
bị ngập lớn nhất >4,3 triệu tấn và Đắk Nông và
Lâm Đồng bị ngập ít nhất khoảng 2,4 triệu tấn
(bảng 3).
Bảng 3. Lượng sinh khối bị ngập trong lòng hồ
ở Tây Nguyên
TT Tỉnh
Diện tích
(ha)
Sinh khối
(tấn/ha)
Tổng sinh
khối (tấn)
1 Đắk Lắk 14.143 200 2.828.560
2 Đắk Nông 12.136 200 2.427.208
3 Gia Lai 21.838 200 4.367.638
4 Kon Tum 18.448 200 3.689.574
5 Lâm Đồng 12.133 200 2.426.386
Tổng 78.698 15.739.366
Tác động tích cực dễ nhận thấy nhất sau khi
xây dựng hồ chứa là điều kiện khí hậu địa phương
sẽ được cải thiện, mực nước ngầm dâng cao hơn,
độ ẩm không khí của đất sẽ được cải thiện. Đây là
những tác động tích cực đến tính đa dạng thực vật.
Quá trình định cư của thực vật dễ hơn, sự sinh
trưởng và phát triển thuận lợi hơn và là tiền đề tốt
cho việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Mặt khác,
việc tạo ra hồ chứa có diện tích mặt nước và dung
tích nước tương đối lớn sẽ mở ra những khả năng
phát triển mới cho kinh tế-dân sinh trong vùng.
3.4. Biến động đường di cư của tài nguyên
động vật
Ảnh hưởng tới đường di cư của động vật thể
hiện qua: chia cắt đường di chuyển của các loài cá
di cư; chia cắt đường di chuyển của các loài động
vật sống trên cạn không biết bơi.
Khả năng phát tán của động vật khác nhau,
những loài rộng sinh thái có thể sống trong những
điều kiện khác nhau, nên có thể chiếm vùng phân
bố rộng, những loài hẹp sinh thái có vùng phân bố
hẹp hơn. Song khả năng sinh tồn của loài không
phải là khả năng phát tán của nó. Những loài động
vật có giới hạn sinh thái sinh tồn rộng, nhưng sinh
thái phát tán kém thì khả năng phát tán kém.
Ngược lại chim nhờ có khả năng bay nên chúng có
khả năng mở rộng vùng phân bố dễ dàng hơn, có
giới hạn sinh thái phát tán lớn. Vì vậy công trình
thủy lợi, thủy điện là barie ngăn cản sinh thái phát
tán của các loài thú và mở rộng giới hạn sinh tồn
cho các loài chim nước [1].
Những động vật bé khả năng phát tán bị động
lớn và khả năng phát tán chủ động kém. Khả năng
phát tán bị động thể hiện rõ ở động vật không
xương sống. Phát tán nhờ trôi theo dòng nước bị
hạn chế do đập chặn dòng. Khả năng phát tán chủ
động phụ thuộc vào sự di động: bò, chạy, bay, bơi,
của động vật. Khi bị ngăn cách bởi hồ chỉ những
động vật bơi được mới có khả năng phát tán qua
hồ. Khi xây dựng đập, dòng chảy bị chia cắt, các
loài di cư xa, từ khu vực thượng nguồn tới hạ lưu
không còn đường di chuyển, như loài cá chình, cá
chiên, cá lăng,... là những loài có giá trị kinh tế
cao, sẽ mất đi do ảnh hưởng của đập chắn.
3.5. Phát triển nuôi trồng thủy sản
Bên cạnh tác động tiêu cực đến môi trường sinh
thái và tài nguyên sinh vật, các công trình thủy lợi,
thủy điện ở Tây Nguyên còn có những tác động
tích cực là: cung cấp môi trường sống cho nhiều
loài thủy sinh vật có giá trị kinh tế, tạo tiền đề cho
sự phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của các
tỉnh Tây Nguyên.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản ở Tây Nguyên
80
đạt 20.603 tấn, chiếm 0,76% so với cả nước, tăng
gần gấp đôi kể từ 2006. Tỉnh Đắk Lắk đạt 9468 tấn
cao nhất, tăng 3696 tấn so với 2006, tỉnh Kon Tum
đạt thấp nhất 1321 tấn tăng 448 tấn (bảng 4). Tính
theo sản lượng thủy sản tăng trên đơn vị diện tích
mặt hồ thì tỉnh Lâm Đồng tăng cao nhất với 0,2237
tấn/ha và tỉnh Kon Tum tăng thấp nhất, chỉ đạt
0,037 tấn/ha (bảng 5).
Bảng 4. Sản lượng thủy sản ở Tây Nguyên và
cả nước 2006 - 2010, (tấn) [6]
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Cả nước 1478870 2124555 2465607 2589790 2706752
Tây
Nguyên
11344 13017 15021 16333 20603
Kon Tum 873 1216 1361 1348 1321
Gia Lai 188 278 377 553 1988
Đăk Lăk 5774 5744 6481 6965 9468
Đăk
Nông
989 1561 1566 1639 1592
Lâm
Đồng
3520 4218 5236 5828 6234
Bảng 5. Sản lượng thủy sản tăng ở Tây Nguyên
2006 - 2010 [6]
TT Tỉnh
Tổng sản lượng
tăng 2006 - 2010
(tấn)
Diện
tích hồ
Sản lượng tăng
theo diện tích
(tấn/ha)
1. Kon Tum 448 14.143 0.0317
2. Gia Lai 1800 12.136 0.1483
3. Đắk Lắk 3694 21.838 0.1692
4. Đắk Nông 603 18.448 0.0327
5. Lâm Đồng 2714 12.133 0.2237
4. Kết luận
Tây nguyên có 638 hồ thủy lợi, thủy điện, tổng
diện tích mặt nước hồ là 78.698 ha, chiếm 1.44%
diện tích tự nhiên. Việc xây dựng hồ ảnh hưởng tới
nơi sinh sống của 4.013 loài (khoảng 30% số loài
của Việt Nam) thực vật, 126 loài thú, 412 loài chim,
64 loài bò sát, 30 loài ếch nhái ở Tây Nguyên.
Các công trình thủy lợi, thủy điện ở Tây
Nguyên tạo nên 142 thủy vực có diện tích 2-10 ha;
402 điểm có diện tích 10-100 ha và 94 điểm có
diện tích >100 ha. Điểm thủy vực có diện tích nhỏ
nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 2,09 ha và lớn nhất là hồ
Sê San 4 là hơn 10.000 ha. Đây là những nơi sống
mới cho các loài thủy sinh vật và những loài kiếm
ăn ở môi trưởng thủy vực.
Tổng sinh khối thực vật bị bị biến động do hồ
thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên tới năm 2012 vào
khoảng 15.7 triệu tấn. Tại Đắk Lắk là 2.828,560
tấn; Đắk Nông, 2.427,208 tấn; Gia Lai, 4.367,638
tấn; Kon Tum, 3.689,574 tấn; Lâm Đồng,
2.426,386 tấn. Đối với động vật công trình thủy
lợi, thủy điện ở Tây Nguyên làm chia cắt đường di
chuyển của các loài cá di cư và chia cắt đường di
cư của các loài động vật sống trên cạn không
biết bơi.
Các hồ thủy lợi, thủy điện ở Tây Nguyên là tiền
đề cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở Tây
Nguyên. Tính đến năm 2010 dựa vào nghề nuôi
thủy sản trong các hồ, sản lượng thủy sản ở Tây
Nguyên đạt 20.603 tấn, chiếm 0,76% so với cả
nước, tăng gần gấp đôi kể từ 2006. Tỉnh Lâm Đồng
tăng cao nhất với 0,2237 tấn/ha và tỉnh Kon Tum
tăng thấp nhất, chỉ đạt 0,037 tấn/ha.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Quýnh,
Nguyễn Quốc Việt, 2007: Chỉ thị sinh học môi
trường. Nhà xuất bản Giáo dục, 280tr.
[2] Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương
Đức Tiến, Mai Đình Yên, 2002: Thủy sinh học các
thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam. Nhà xuất
bản KH&KT Hà Nội, 399tr.
[3] Thái Văn Trừng, 1998. Những hệ sinh thái
rừng nhiệt đới ở Việt Nam. Nxb. KH&KT Hà Nội.
[4] Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện
KH&CNVN, 2007: Sách Đỏ Việt Nam. Phần 1.
Động vật. Nxb. KHTN&CN, 515tr.
[5] Bộ KH&CN, Viện KH&CNVN, 2007:
Sách Đỏ Việt Nam. Phần Thực vật, Phần Động vật.
Nxb. KHTN&CN.
[6] Niên giám thống kê năm 2010, 2011: Nhà
Xuất bản thống kê 2011.
81
SUMMARY
Bioresources changing and transite by Hydropower and irrigation system in Tay Nguyen
There are 638 hydropower and irrigation reservoirs, which covered 78.698 ha, approximate 1.44% area of Tay
Nguyen. The hydropower and irrigation system impacts to habitat of 4.013 species of plant (30% of Vietnam), 126
species of mammal , 412 species of bird, 64 species of reptile, 30 species of amphibian.
The total loosen biomass by the hydropower and irrigation system is 15.7 million tons, included: Dak Lak province
2,828,560 tons loss by flood; Dak Nong: 2,427,208 tons; Gia Lai - 4,367,638 tons; Kon Tum 3,689,574 tons; Lam Dong:
2,426,386 tons. The reservoirs also interrupt the migration route of aquatic animal.
Beside the impactions above, the hydropower and irrigation system in Tay Nguyen has created the 142 aquatic
habitat, with the area below <10ha; 402 site with the area from 10-100 ha and 94 aquatic habitat sites with large area,
over 100ha. The areas of 78696 ha of aquatic has increate habitat for aquatic species and the species feeding in water
environment. The total of 638 aquatic sites play an importance role for develop fishery economic. Up to 2010 the
fisheries productivity is 20.603 tons, approximate 0,76% of the Vietnam, and it is twice times of the 2006’s productivity.
The Lam Dong province increase with highest speed, about 0.2237 tons per hectare and Kon Tum province increases
with lowest speed about 0.037 tons per hectare.
Keyword: reservoirs, Tay Nguyen, bioresources, changing, hydropower and irrigation system
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4144_34306_1_pb_711_2100710.pdf