LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau tham gai vào nền kinh tế ngày càng nhiều và phức tạp. Điều đó đã tạo điều kiện cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn các sản phẩm khác nhau theo nhu cầu riêng. Do vậy, để có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau về nhiều phương diện. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chất lượng sản phẩm được coi là phương tiện cạnh tranh hiệu quả nhất để giành thắng lới. Có thể nói, từ khi có chính sách mở cửa nền kinh tế thì sản xuất kinh doanh đã thực sự trở thành "trận chiến nóng bỏng" với sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu của con người đối với các sản phẩm, hàng hoá không chỉ dừng lại ở số lượng mà cả chất lượng sản phẩm cũng ngày càng được người tiêu dùng quan tâm nhiều. Để đạt được các mục tiêu của mình, các doanh nghiệp phải tiêu thụ được sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đáng kể nhất vẫn là chất lượng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải tìm ra cho mình những giải pháp tối ưu để có được sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng - đó chính là con đường duy nhất để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài.
Nhà máy bia Đông Nam Á, tiền thân là Hợp tác xã Ba Nhất, trải qua hơn 30 năm phát triển Nhà máy đã từng bước vươn lên thành một doanh nghiệp có uy tín trên thị trường. Nhà máy luôn luôn đặt mục tiêu chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Vì hơn bao giờ hết Nhà máy biết rằng không chỉ có các doanh nghiệp Việt Nam, mà còn có cả các hãng nước ngoài cùng tham gia vào việc cung ứng loại nước giải khát này trên thị trường. Chính vì vậy mà Công ty luôn đầu tư vào việc cải tiến đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đào tạo nhân tố con người . nhằm nâng cao chất lượng của mình. Trong quá trình thực tập tại Nhà máy bia Đông Nam Á em đã chọn đề tài:
"Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy bia Đông Nam Á"
Nhằm góp phần vào việc tìm ra những quan điểm hướng đi và biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhà máy.
Đề tài được xây dựng và triển khai theo các phần sau:
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm.
Phần II : Phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm của Nhà máy bia Đông Nam Á.
Phần III: Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhà máy bia Đông Nam Á.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Hoàng Đức Thân, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ làm việc tại Nhà máy bia Đông Nam Á đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I. Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm 3
I-Chất lượng sản phẩm và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. 3
1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm. 3
2. Phân loại chất lượng sản phẩm 7
a) Phân loại chất lượng theo hệ thống ISO 9000. 7
b) Phân loại theo mục đích công dụng của sản phẩm. 8
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. 8
a) Nhóm nhân tố khách quan 8
b) Nhóm các nhân tố chủ quan. 11
4. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm 13
a) Nhóm các chỉ tiêu không so sánh được 14
b) Nhóm chỉ tiêu có thể so sánh được 14
II- Quản lý chất lượng sản phẩm. 16
1. Một số quan điểm về quản lý chất lượng sản phẩm và các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm. 16
a) Một số quan điểm về quản trị chất lượng sản phẩm 16
b) Các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm 17
2. Nội dung công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. 19
a) Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế. 19
b) Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào 20
c) Quản lý chất lượng khâu sản xuất. 20
d) Quản lý chất lượng trong và sau khi bán. 21
3. Các công cụ sử dụng trong quản lý chất lượng sản phẩm . 22
a) Biểu đồ luồng 22
b) Mô hình Ishikawa (mô hình xương cá) 23
c) Biểu đồ Pareto 24
d) Các mô hình phân tán. (Biểu đồ tán xạ) 26
4. Một số mô hình quản lý chất lưọng. 26
a) Mô hình quản lý chất lượng sản phẩm toàn diện. 26
b) Mô hình tổ chức quản lý chất lượng ISO-9000 28
III-Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm 30
1.Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam 30
2.Vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm 31
Phần II. Phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm của nhà máy bia đông nam Á. 33
I. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nhà máy bia đông nam á ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. 33
1. Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy bia Đông Nam Á. 33
2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý. 35
a. Nhiệm vụ của một phòng ban chính của nhà máy. 35
b. Đặc điểm lao động của nhà máy. 36
3. Đặc điểm về quy trình công nghệ chế biến sản phẩm. 38
4. Đặc điểm về vốn kinh doanh. 41
a. Tài sản cố định. 41
b. Tài sản lưu động. 42
II. Phân tích thực trạng CLSP của nhà máy bia Đông nam Á. 42
1. Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy 42
2. Tình hình sản phẩm và chất lượng sản phẩm của nhà máy 45
3. Thực trạng quản lý chất lượng sản phẩm của nhà máy 47
4. Tính toán các chỉ tiêu so sánh chất lượng ở nhà máy 48
III. Đánh giá chung tình hình quản lý chất lượng sản phẩm của Nhà máy bia ĐNA. 50
1. Thành tựu 50
2. Tồn tại: 51
3. Nguyên nhân tồn tại. 52
Phần III. Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhà máy Bia Đông Nam Á 53
I - Phương hướng sản xuất kinh doanh của Nhà máy Bia Đông Nam Á. 53
1. Những thuận lợi và khó khăn của nhà máy. 53
2. Mục tiêu và phương hướng sản xuất kinh doanh . 54
II. Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà máy bia Đông Nam Á 56
1. Đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất 56
a/ Căn cứ đề xuất giải pháp : 56
b/ Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp : 56
2. Biện pháp bảo đảm chất lượng nguyên vật liệu : 58
a/ Căn cứ đề xuất giải pháp : 58
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp. 58
3. Biện pháp về quản lý chất lượng sản phẩm. 60
a. Căn cứ đưa ra giải pháp. 60
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp. 61
4. Biện pháp về nhân sự. 62
a. Căn cứ đưa ra giải pháp. 62
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp. 63
Kết luận 65
Phụ lục 1: Sơ đồ bộ máy quản lý Nhà Máy 666
Phụ lục 2: Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất bia 677
Phụ lục 3: Bảng cân đối kế toán Nhà máy bia Đông Nam Á năm 1999 688
Danh mục tài liệu tham khảo 70
51 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy bia Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng. Quản lý lưu trữ hồ sơ tài liệu của công ty. Tổ chức đào tạo cán bộ, tuyên truyền chỉ đạo.
+ Các cửa hàng kinh doanh: Kinh doanh các mặt hàng của công ty.
+ Phòng kế toán tài chính: Có đầy đủ chức năng nhiệm vụ theo luật và pháp lệnh kinh tế nhà nước quy định. Ghi chép đầy đủ và phản ánh một cách chính xác, kịp thời, liên tục về tình hình quản lý và sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty. Thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán.
+ Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ tiếp cận và mở rộng thị trường cho công ty, tìm kiếm khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Với cơ cấu tổ chức như trên, Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội luôn đảm bảo sự thống nhất, nhất quán mệnh lệnh đưa xuống được rõ ràng, nhanh chóng và không bị chồng chéo, phân tách rõ ràng trách nhiệm của từng bộ phận. Các phòng ban chức năng đảm bảo công tác tham mưu cho hoạt động của công ty.
3.2. Tình hình lao động
Tình hình lao động của công ty được thể hiện qua bảng 1 (từ năm 1999-2000). Bảng 1 ngang **********************
Qua số liệu bảng 1 ta thấy:
Số lượng và kết cấu lao động của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 là 121 người so với năm 1999 là 118 người tăng 3 người, tỷ lệ 2000 so với 1999 đạt 102,54% nguyên nhân là do công ty mới tuyển dụng thêm một số nhân viên mới trong năm 2000. Nếu phân theo giới tính: Lao động nam năm 1999 đạt 48,3% trong khi đó lao động nữ chiếm 51,75 so với năm 2000 lao động nam giảm 5 người tương ứng còn 91,22% so với năm 1999, chiếm tỷ trọng 42,97%. Lao động nữ trong công ty vẫn tăng 8 người với tỷ lệ tăng là 13,11%. Lao động nữ chiếm tỷ trọng là 57,03%.
Nếu phân theo trình độ:
Năm 1999 số cán bộ trên đại học là 6 người chiếm tỉ trọng là 5,08%, năm 2000 là 7 người chiếm tỉ lệ là 5,78% lao động của công ty. So với năm 1999 tăng 1 người với tỉ lệ tăng là 16,67%.
Số cán bộ có trình độ đại học 1999 là 18 người chiếm tỷ trọng là 15,25%. Năm 2000 là 19 người chiếm tỷ trọng là 15,7%. So với năm 1999 tăng 1 người với tỷ lệ là 5,55%. Số lao động trung cấp 15 người chiếm 12,71% và đông nhất là lao động phổ thông 79 người chiếm 66,96% năm 1999. So với năm 1999 năm 2000 thì số lao động phổ thông không có sự thay đổi, lao động trung cấp tăng 1 người chiếm tỷ trọng 13,22%. Như vậy ta thấy kết cấu lao động trong 2 năm 1999-2000 tạm hợp lý. Số cán bộ có trình độ cao chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Đây chính là thế mạnh của công ty.
Sang đến năm 2001 tổng số lao động tăng 128 người tăng 7 người tương ứng với 105,78% so với năm 2000. Sở dĩ có sự thay đổi này là do tình hình phát triển của công ty, đồng thời bù đắp cán bộ do đặc điểm tuổi đời trung bình của cán bộ công nhân viên toàn công ty là trên 40 tuổi.
Vì vậy công tác kế toán hoá cán bộ là nhiệm vụ và mục tiêu phân đấu của công ty, lực lượng công nhân lao động giảm 1 người nhưng vẫn chiếm tỉ trọng là 60,94%. Số cán bộ có trình độ trên đại học tăng 4 người tương ứng 15714% so với năm 2000, chiếm tỉ trọng 8,6%.
Số cán bộ có trình độ đại học tăng 2 người tương ứng 110,52% so với năm 2000 chiếm tỷ trọng 16,4%.
Số cán bộ có trình độ trung cấp tăng 2 người tương ứng 112,5% so với năm 2000 chiếm tỷ trọng là 14,06%.
Đây là những con số đáng mừng cho hoạt động của công ty trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế. Tuy nhiên công ty không ngừng đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân viên để đáp ứng cho mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
4. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
4.1. Phân tích kế quả hoạt động kinh doanh theo doanh thu
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một trong những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các mặt hàng mà công ty kinh doanh rất đa dạng về mặt hàng, phong phú về chủng loại. Dưới đây là một số mặt hàng chủ lực chiếm tỉ trọng lớn và là những mặt hàng truyền thống của công ty trong những năm qua.
Qua bảng số liệu 2 ta thấy:
Trong 2 năm 2000 và 2001 tình hình các mặt hàng bán ra của công ty tương đối ổn định và có xu hướng tăng. Nguyên nhân là do thị trường trong nước ổn định và mức tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn không có dấu hiệu suy giảm nên nhu cầu các sản phẩm phục vụ nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng tạo điều kiện để công ty thực hiện mục tiêu bán ra của mình. Cụ thể:
Bảng 2: Các mặt hàng chủ yếu bán ra của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2000
Năm 2001
So sánh
Chênh lệch
Tỉ lệ %
Ô tô các loại
cái
45
48
3
6,67
Săm lốp ô tô
bộ
908
974
66
7,26
Máy xây dựng
cái
-
12
-
-
Phụ tùng các loại
trđ
18.207
22.394
4.187
22,9
Cao su
trđ
-
3.350
-
-
Nhôm, thép, kẽm
trđ
4.578
5.580
1.002
21,89
Sản lượng ô tô các loại năm 2000 là 45 xe sang đến năm 2001 là 48 chiếc tăng 3 xe tương ứng với tỷ lệ là 6,67%.
Săm lốp các lại năm 2001 cũng bán ra được nhiều hơn so với năm 2000. Mức tiêu thụ năm 2001 là 974 bộ tăng 66 bộ với tỷ lệ là 7,26% so với năm 2000, phụ tùng các loại năm 2000 bán ra được 18.027 triệu đồng nhưng đến năm 2001 lượng bán ra tăng 22.394 triệu so với năm 2000 tăng 4.187 triệu đồng với mức tăng là 22,5%. Nhôm, thép, kẽm trong năm 2001 cũng có mức tăng khá cao đạt 5580 triệu đồng tăng 1002 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 21,89% so với năm 2000.
Ngoài ra các mặt hàng mới của công ty như máy xây dựng, cao su cũng được công ty quan tâm, trong năm 2001 doanh thu bán các mặt hàng này có kết quả khả quan cụ thể: máy xây dựng năm 2001 bán được 12 cái với doanh thu là 5020 triệu đồng còn mặt hàng cao su mức bán ra đạt 3350 triệu đồng. Đây là những dấu hiệu thuận lợi để công ty mở rộng thị trường của các mặt hàng này.
Công ty đã có nhiều cố gắng để không ngừng nâng cao công tác bán hàng nhằm đạt được doanh thu cao đáp ứng được chỉ tiêu mà công ty đề ra.
b) Phân tích tình hình bán hàng theo doanh thu trên từng thị trường
Bảng 3: Doanh thu bán hàng của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ở các thị trường
Đơn vị: triệu đồng
Các chỉ tiêu
2000
2001
So sánh
Giá trị
TT (%)
Giá trị
TT (%)
Giá trị
TT (%)
TT %
Tổng doanh thu
68.620
100
85.000
100
16.380
23,87
-
Trong đó:
- DT bán hàng TT nội địa
58.620
85,42
69.600
81,88
10.980
18,73
-3,54
- DT từ hoạt động XNK (quy ra VNĐ)
6.800
9,91
12.600
14,82
5-800
85,29
+4,91
- DT từ sản xuất, dịch vụ
3.200
4,67
2.800
3,3
-400
-12,5
-1,37
Căn cứ vào bảng số liệu 3 ta có nhận xét sau:
Tổng doanh thu của công ty trong 2 năm đạt kết quả khả quan. Tổng doanh thu năm 2001 đạt 85.000 tr.đ tăng 16.380 trđ tương ứng với tỉ lệ tăng là 23,87% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty đã nỗ lực tìm kiếm khách hàng cộng với tình hình thị trường trong nước ổn định và đặc biệt là hiệp định thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực và việc Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo hướng đi mới cho công ty trong hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể ta thấy các nhân tố ảnh hưởng đến tổng doanh thu của công ty: Doanh thu bán hàng trong nước năm 2001 đạt 69.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng 81,88% trong tổng doanh thu tăng 10.980 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng là 18,73% so với năm 2000 nhưng tỉ trọng lại giảm 3,54%.
Trong khi đó doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2001 đạt 12.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng 14,82% tổng doanh thu so với năm 2000 tăng 5800 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 85,29% đồng thời tỉ trọng tăng 4,91%. Điều này cho thấy công ty đang dần có thế mạnh trong hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác đó là việc công ty tham gia thị trường xuất nhập khẩu đây chính là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty.
Tuy nhiên doanh thu từ hoạt động cnk năm 2001 đạt 2800 triệu đồng và chiếm tỉ trọng 3,5% trong tổng doanh thu so với năm 2000 giảm 400 triệu đồng tương ứng với giá trị giảm là 12,5% và tỉ trọng cũng giảm 13,7% trong tổng doanh thu. Nguyên nhân là do trong năm 2001 công ty gặp khó khăn trong việc tham gia ký kết các hợp đồng hợp tác sản xuất, dịch vụ, bên cạnh đó cũng có nhiều công ty khác cạnh tranh với công ty trong lĩnh vực này làm cho khách hàng của công ty bị phân tán dần. Mặc dù vậy tổng doanh thu của công ty năm 2001 vẫn tăng là do doanh thu từ các lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn trong tồng doanh thu đều tăng. Tóm lại thông qua bảng số liệu 2 năm ta thấy tình hình doanh thu của tổng công ty là tương đối tốt. Cơ cấu thị trường được điều chỉnh kịp thời nắm bắt được yêu cầu của thị trường cũng như xác định được hướng đi cho tổng công ty.
c) Phân tích doanh thu bán hàng của công ty theo loại hình kinh doanh
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội hoạt động chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất, mua bán đều nhằm phục vụ cho xuất nhập khẩu. Vậy ta có thể xét tình hìh kinh doanh của công ty theo quá trình hoạt động xuất nhập khẩu trong 2 năm vừa qua.
Bảng 4: Doanh thu bán hàng theo loại hình kinh doanh
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
So sánh
Giá trị
Tỉ lệ
I. Xuất khẩu
0,670
0,996
0,326
48,65
- Xuất khẩu kinh doanh
0,545
0,766
0,221
40,55
- Xuất khẩu uỷ thác
0,125
0,230
0,105
84,00
II. Nhập khẩu
22,015
7
-15,015
-68,20
- Xuất khẩu kinh doanh
1,605
2,05
0,445
27,72
- Xuất khẩu uỷ thác
20,41
4,95
-15,46
-75,74
Tổng cộng
22,685
7,996
-14,689
64,74
Thông qua bảng số liệu trên ta có nhận xét:
Năm 2000, tổng doanh thu của công ty tính bằng ngoại tệ USD đạt 22,685 triệu USD. Trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,670 triệu USD. Xuất khẩu kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn đạt 0,545 triệu USD. Xuất khẩu uỷ thác chỉđạt 0,125 triệu USD.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt được 22,56 triệu USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty bao giờ cũng lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu. Lý do là do nghiệp vụ, mục đích của công ty. Thứ hai là do đặc điểm cơ cấu ngành hàng. Trong đó nhập khẩu uỷ thác đạt 20,41 triệu USD, nhập khẩu kinh doanh chỉ đạt 1,605 triệu USD.
Sang đến năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,996 triệu USD tăng 0,326 triệu USD với tỉ lệ tăng là 48,65% so với năm 2000. Trong đó xk kinh doanh đạt 0,766 triệu USD tăng 0,221 triệu đô với tỷ lệ tăng là 40,55% và xuất khẩu uỷ thác đạt 0,230 triệu USD tăng 0,105 triệu USD với tỉ lệ tăng là 84% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty trong năm 2001 đã rất chú trọng tới công tác xuất khẩu, đã nghiên cứu và giao dịch, chào bán rất nhiều mặt hàng, kết quả đã xuất được một số mặt hàng như: đá xây dựng, hoa quả khô. Một số hàng có giá trị như gạo, cao su, cà phê, bao PP... Công ty đã có nguồn hàng và đối tác xuất khẩu, nhưng giá thế giới giảm nên chưa xuất khẩu được. Năm 2002 công ty sẽ cố gắng khắc phục tình trạng này để tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên so với năm 2000 công tác xuất khẩu đã có bước tiến đáng kể tạo đà cho năm 2002.
Trong năm nay tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty chỉ đạt 7 triệu USD giảm mạnh so với năm 2000 là 15,045 triệu USD với tỉ lệ giảm là 68,20%. Nhập khẩu uỷ thác chỉ đạt 4,95% triệu USD giảm so với năm 2000 là 15,46 triệu USD với tỉ lệ giảm là 75,74%, trong khi đó nhập khẩu kn đạt 2,05 triệu USD tăng 0,445 triệu USD tương ứng với tỉ lệ tăng là 27,72% so với năm 2000. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do chính sách mở rộng xuất nhập khẩu của nhà nước (việc nhập khẩu uỷ thác giảm đi rõ rệt. Các dự án lớn đều phải đầu tư trọn gói cả xây dựng và lắp đặt thiết bị, thiết bị lẻ các đơn vị tự nhập khẩu không qua nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu kinh doanh cũng khó khăn do tỉ giá USD và EURO thay đổi thất thường, các chủ hàng trong nước không có vốn thường mua chịu trả chậm từ 1 đến 3 tháng không có bảo lãnh ngân hàng nên rủi ro rất lớn, lãi suất thấp. Bên cạnh đó công ty còn gặp phải sự cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp tư nhân tham gia nhập khẩu.
Tóm lại qua số liệu 2 năm về tình hình hoạt động xuất nhập khẩu ta thấy rằng tổng công ty đã có những nỗ lực nhằm mở rộng thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh.
4.2. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo lợi nhuậncủa công ty
Bảng 5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi, lỗ)
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện 2000
Thực hiện 2001
So sánh
Giá trị
Tỉ lệ
1. Tổng doanh thu thuần
68.620
85.000
16.380
23,87
2. Giá vốn hàng bán
64.965
81.093
16.128
24,82
3. Lợi nhuận gộp
3.655
3.907
252
6,89
4. Tỉ suất lợi nhuận gộp/DTT (%)
5,32
4,59
-0,73
-
5. Tổng chi phí:
3.460
3.697
237
6,84
- Chi phí bán hàng
720
850
130
18,05
- Chi phí quản lý
2.740
2.847
107
3,9
6. Lợi tức trước thuế
195
210
15
7,69
7. Thuế lợi tức phải nộp (35%)
68,25
73,5
5,25
7,69
8. Lợi tức sau thuế
126,75
136,5
9,75
7,69
9. Tỉ suất chi phí/DTT (%)
5,642
4,35
-0,692
-
10. Tỉ suất LN trước thuế/DTT (%)
0,284
0,247
-0,037
-
11. Tỉ suất LN sau thuế/DTT (%)
1,1847
0,16058
-0,02412
-
12. Lương bình quân 1người/năm
13,44
11,4
-2,04
-15,17
Căn cứ vào bảng số liệu 5 ta có nhận xét sau:
Lợi tức sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng 9,75 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 7,69%. Nguyên nhân là do công ty đã nỗ lực mở rộng thị trường, thay đổi cơ cấu thị trường hợp lý. Để thấy rõ được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như thế nào trong 2 năm ta dựa vào việc phân tích cụ thể những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ta thấy rằng:
Tổng doanh thu thuần năm 2001 tăng 16.380 triệu đồng tương ứng tỉ lệ tăng là 23,87%. Nguyên nhân là do trong năm 2001 ngoài việc kinh doanh các mặt hàng truyền thống, công ty còn phát triển kinh doanh các mặt hàng khác như: cao su, gạo, sắt thép, hàng dệt may, gốm sứ, hàng thực phẩm, hoa quả tươi... do đó phần nào đã làm cho doanh số bán ra năm 2001 tăng.
Tương ứng như vậy giá vốn hàng bán tăng 16.128 triệu đồng tương ứng tăng 24,82%, tỉ lệ tăng của giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn tỉ lệ tăng của doanh thu. Điều này làm cho lãi gộp của công ty tăng chậm, lợi nhuận gộp năm 2001 đạt 3.907 triệu đồng tăng 252 triệu đồng tương tứng tỉ lệ tăng là 6,89% so với năm 2000. Tuy lãi gộp tăng nhưng tỉ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần giảm so với năm 2000 là 0,73%. Tỷ suất lợi nhuận gộp giảm kéo theo tỉ suất lợi nhuận trước thuế và sau thuế cũng giảm tương ứng là 0,037% và 0,02412%. Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao. Như vậy tuy lợi nhuận năm 2001 tăng nhưng hiệu quả kinh tế lại không được tốt.
Trong công tác quản lý chi phí: Tổng chi phí năm 2001 tăng 237 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 6,84% so với năm 2000. Trong đó chi phí bán hàng tăng 130 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng là 18,05%. Chi phí quản lý cũng tăng 107 triệu đồng tương ứng tăng là 3,9%. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chi phí của công ty năm 2001 là tốt hơn năm 2000 do tỷ suất chi phí giảm 0,692. Đây là điều kiện thuận lợi của công ty. Do vậy nguyên nhân chính làm cho hiệu quả kinh tế năm 2001 không cao là do giá vốn hàng bán quá cao từ đó làm giảm lợi nhuận của công ty. Công ty cần phải cố gắng nghiên cứu lựa chọn những nguồn hàng hợp lý hơn để có được hiệu quả kinh tế cao hơn nữa trong những năm tới.
Thông qua bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ttong 2 năm 2000 và 2001 ta có thể thấy được sự tăng trưởng công ty không đều doanh thu tăng nhưng lợi nhuận tăng không nhiều. Nhưng cũng thấy rõ được sự nỗ lực của ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên công ty trong việc quản lý, nắm bắt thị trường và sự hăng say lao động nhằm nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thương trường.
II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
1. Tình hình tổ chức, quản lý sử dụng vốn của Công ty
Trước đây thời bao cấp các doanh nghiệp được ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh lỗ thì lại được nhà nước bù lỗ. Vì vậy không chú trọng khâu quản lý vốn sao cho tiết kiệm, hiệu quả. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ giao một phần vốn còn lại doanh nghiệp tự tạo thêm nguồn vốn cho mình và phải hoạt động sao cho để bảo toàn được vốn nhà nước đã giao. Điều này làm cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung và Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn.
Tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội vốn tự có ban đầu không được nhiều nên vấn đề đặt ra là công ty cần phải tổ chức công tác huy động, quản lý và sử dụng vốn như thế nào để đạt được hiệu quả kinh doanh. Dưới sự chỉ đạo của giám đốc và kế toán trưởng vốn kinh doanh của công ty nói chung và vốn lưu động nói riêng được quản lý tương đối chặt chẽ. Do vốn kinh doanh không nhièu nên khâu tổ chức đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá rất được coi trọng. Tuy nhiên nếu quá coi trọng doanh số mà lợi nhuận thu được thấp thì việc sử dụng đồng vốn chưa tốt. Ngoài ra trực tiếp thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá, công ty còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động dịch vụ khác như vận tải, tư vấn...
Công ty rất coi trọng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng.
Trong khâu quản lý vốn bằng tiền: Đầu quý kế toán trưởng lập kế hoạch thu chi tiền tệ (đầu tuần, đầu tháng) khi thu được tiền bán hàng về thủ quỹ nộp ngay vào tài khoản tiền ngân hàng, tiền mặt tại quỹ chỉ đủ thoả mãn nhu cầu chi tiêu tiền mặt ở công ty. Cuối ngày kế toán thanh toán và thủ quỹ đối chiếu sổ sách với nhau, tránh hiện tượng gian lận, mọi khoản thu chi tiền mặt, gửi tiền và rút tiền ngân hàng đều có chứng từ xác nhận như: phiếu thu, phiếu chi, séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi... Để tăng tốc độ thu hồi tiền công ty áp dụng các biện pháp.
+ Khuyến khích khách hàng thanh toán sớm bằng cách chia lại cho khách hàng mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn.
+ Đôn đốc thu hồi nợ: Kế toán công nợ có trách nhiệm nắm chính xác số dư của từng khách hàng. Nếu đến hạn mà khách hàng không trả nợ tiền thì kế toán phải gọi điện, gửi công văn đến nhắc nhở, nếu vẫn chưa trả lời thì trực tiếp đến đòi nợ. Để giảm tốc độ chi tiêu công ty đáo hạn các khoản nộp ngân sách nhà nước, gia hạn nợ các khoản vay ngắn hạn.
Để đi vào xem xét chi tiết và phân tích vốn lưu động của công ty, trước hết ta phải xem xét cơ cấu và nguồn hình thành lên vốn của công ty.
Bảng 6 ngang **********
Nhìn vào bảng cơ cấu và nguồn vốn kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ta thấy tổng vốn kinh doanh bình quân năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 315.641.000 đồng với tỉ lệ tăng 0,0875%. Trong đó vốn cố định bình quân có chiều hướng giảm năm 2000 số vốn cố định là 8.581.616 nghìn đôngf thì năm 2001 giảm xuống còn 6.987.386.000 đồng với tỉ lệ giảm là 18,57% tương ứng với số tiền giảm là 1.594.230.000 đồng, có tình trạng này là do năm 2001 công ty thanh lý một số máy móc cũ để chuẩn bị đầu tư những trang thiết bị hiện đại hơn phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Về vốn lưu động bình quân thì năm 2001 tăng so với năm 2000 là 1.909.871.000đồng với tốc độ tăng là 6,95% đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Có được số vốn kinh doanh bình quân trên là do một số nguồn hình thành đó là: Số vốn chủ sở hữu của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 1.362.100.000 đồng với tỉ lệ tăng là 9,56% nguồn vốn vay của năm 2001 giảm so với năm 2000 là 88.898.000 đồng với tốc độ giảm là 0,064% và các nguồn hình thành vốn khác cũng giảm so với năm 2000 là 957.561.000 đồng với tỉ lệ giảm là 12,1%. Nhìn chung qua phân tích ta thấy nguồn vốn kinh doanh của công ty là hợp lý đảm bảo cho quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ trong nước, đảm bảo cho việc thanh toán và tự chủ về vốn trong kinh doanh.
2. Cơ cấu vốn lưu động của công ty
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, nếu chỉ cần có nhiều vốn đề tồn tại và phát triển thì chưa đủ, điều quan trọng là số vốn đó được sử dụng như thế nào và được phân bổ vào các bộ phận có liên quan có hợp lý hay không, có đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không. Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội để thấy được tình hình dự trữ hàng hoá vật tư cũng như lượng tiền dự trữ của công ty có đảm bảo cho hoạt động của công ty được bình thường và đem lại hiệu quả hay không.
Bảng 7 ngang ***************
Qua bảng số liệu trên ta thấy vốn lưu động của công ty năm 2001 tăng 12,52% so với năm 2000 với số tiền tăng là 3.749.941 đồng. Trong đó vốn lưu động tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản phải thu là 13.500.000 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 45,07% thì sang năm 2001 các khoản phải thu là 1.554.168 nghìn đòng với tốc độ tăng là 11,22%. Một khoản tăng tương đối mạnh đó là vốn bằng tiền nếu năm 2000 với số tiền là 7.684.381 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 25,65% thì sang năm 2001 đã tăng thêm 1.296.991 nghìn đồng với tốc độ tăng là 16,37% và chiếm tỉ trọng là 26,64% trong tổng vốn lưu động của công ty. Với một công ty thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu thì các khoản vốn thuộc về tài sản lưu động là rất quan trọng đối với hoạt động của mình nên công ty phải thực hiện các chỉ tiêu đề ra để thu hồi hoặc dự trữ các khoản này cho phù hợp. Trong năm qua lượng hàng tồn kho của công ty tăng khá nhanh là công ty đang kinh doanh một số mặt hàng mới nhưng do giá thế giới giảm mạnh nên công ty chưa xuất khẩu được làm cho hàng tồn kho năm 2001 tăng 754.108 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 24,12% so với năm 2000. Công ty nên chú ý hơn nữa đến lượng hàng dự trữ, không nên dự trữ quá nhiều hàng, tránh tình trạng hàng hoá bị hao hụt, mất giá, lỗi thời. Vì vậy việc xác định một lượng hàng phù hợp là quan trọng đối với các công ty kinh doanh trong điều kiện kinh tế như hiện nay.
Như vậy từ bảng trên ta thấy vốn lưu động của công ty chủ yếu phân bổ vào các khoản phải thu, khoản này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động và có chiều hướng tăng lên trong năm 2001. Ngoài ra nó cũng phân bổ một phần vào vốn bằng tiền, khoản này chiếm tỉ trọng tương đối và cũng tăng lên trong năm 2001. Trong năm vừa qua các khoản tạm ứng, ký quỹ và ký cược ngắn hạn của công ty đã thu hồi được, do vậy khoản tài sản lưu động khác uỷ thác tăng lên so với năm 2000. Do vậy ta có thể thấy được công ty thực hiệnhd kinh doanh đạt mức kế hoạch đề ra. Nhưng để đánh giá chính xác tình hình sử dụng vốn lưu động ta phải xem xét từng khoản thuộc về tài sản lưu động. Trước hết ta xét khoản vốn bằng tiền của công ty.
2.1. Tình hình sử dụng vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Mọi doanh nghiệp đều cần một lượng tiền mặt dự trữ nhất định cho việc kinh doanh. Việc dự trữ tiền mặt luôn chứa đựng hai vấn đề tính lợi ích và tính rủi ro.
Bởi nếu chấp nhận tính lợi ích cao lượng tiền dự trữ ít thì rủi ro rất lớn. Ngược lại, nếu dự trữ tiền mặt lớn thì rủi ro thấp nhưng sinh lời không cao bởi lượng tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời.
Bảng 8: Tình hìh vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Đơn vị: nghìn đồng
Các chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
So sánh
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
1. Tiền mặt
971.743
12,64
1.451.472
16,16
479.729
49,36
2. Tiền gửi ngân hàng
65.787.238
75,31
6.523.687
72,63
736.449
12,72
3. Tiền đang chuyển
925.400
12,05
1.006.213
11,21
80.813
8,73
Tổng cộng
7.684.381
100
8.981.372
100
1.296.991
16,87
Từ bảng số liệu trên ta thấy vốn bằng tiền của công ty tăng lên 16,87% chủ yếu là do tiền gửi ngân hàng tăng trong năm qua khoản này đã tăng 12,72% về số tiền là 736.449 nghìn đồng, rõ ràng khoản này tăng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vốn bằng tiền của công ty vì nó chiếm tới 75,31% năm 2000 và 72,63% năm 2001. Với chức năng hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu thì tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ, tiền gửi ngân hàng tăng lên làm cho số tiền lãi gửi từ ngân hàng thường xuyên về nhập quỹ. Đồng thời tiền mặt của công ty cũng tăng lên 479.729 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 49,36% làm cho công ty tăng cường khả năng thanh toán các khoản phát sinh thường xuyên như: chi phí về mua bán hàng hoá, chi phí vận chuyển, trả lương công nhân viên... Đối với khoản tiền đang cũng tăng 80.813 nghìn đồng với tốc độ tăng 8,73% góp phần làm cho khoản vốn bằng tiền tăng lên. Nhưng khoản tiền mặt ở công ty mà tăng lên nhiều là không tốt vì nó có thể tăng một lượng tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời cao nếu công ty không sử dụng hết số tiền mặt trong một thời gian nhất định. Nhìn chung có thể nói khoản vốn bằng tiền của công ty tăng lên thì khả năng thanh toán tức thời cũng tăng lên. Như đã phân tích ở khoản vốn bằng tiền của công ty chiếm tỉ trọng 26,64% trong tổng tài sản lưu động năm 2001. Để biết được việc duy trì lượng vốn bằng tiền như thế nào có hợp lý hay không ta xem khả năng thanh toán tức thời của công ty thông qua chỉ tiêu hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán tức thời =
Hệ số thanh toán tức thời năm 2000: 0,4
Hệ số thanh toán tức thời năm 2001: 0,5
Căn cứ vào hệ số thanh toán tức thời ta thấy năm 2001 công ty tự chủ hơn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn cũng như các khoản cần thanh toán ngay.
Là một công ty hoạt động chủ yếu là xuất nhập khẩu nên công ty quan hệ với rất nhiều ngân hàng Hà Nội (Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng ngoại thương Hà Nội...). Cũng chính vì sự đa dạng đó mà việc quản lý tiền mặt của công ty cũng rất phức tạp, phải theo dõi từng ngày từng giờ. Công ty không có tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng như không có khoản đầu tư vào mục chứng khoán nào bởi trên thực tế nhu cầu tiền mặt tại công ty diễn ra thường xuyên. Do vậy, công ty hầu như không có tiền nhàn rỗi mà phải thường xuyên vay ngắn hạn ngân hàng để thanh toán cho hàng xuất nhập khẩu với một số ngoại tệ lớn vì hàng của công ty chủ yếu là xe ô ô các loại, phụ tùng thiết bị, máy công cụ...
Ngoài ra năm 2001 công ty còn xuất thêm một số mặt hàng: cao su, đá xây dựng, hoa quả khô, về hàng nhập cũng sử dụng những ngoại tệ để thanh toán. Khi xuất các mặt hàng đi ngoại tệ thu về công ty chỉ được sử dụng 50% trong tổng ngoại tê còn laị 50% phải gửi lại ngân hàng (theo quyết định 63/CP ngày 17/8/1999 và quyết định 173/TTg ngày 12/9/1998 về việc sử dụng ngoại tệ) đã phần nào làm cho công ty khá bị động trong việc sủ dụng vốn. Để cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục thì phỉa làm cho vốn lưu động tăng vòng chu chuyển. Vấn đề tiền mặt rất được chú trọng vì công ty thường xuyên xuất hiện nhu cầu ngắn hạn như tạm nhập tái xuất, nhu cầu chi trả lương... tất cả đều cần tiền mặt. Hơn thế nữa để chủ động trong kinh doanh và đảm bảo an toàn trong thanh toán thì việc duy trì một số dư nhất định nào đó trên tài khoản vốn bằng tiền là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên trên thực tế tại công ty rất ít khi có tiền mặt tồn đọng trên tài khoản quá lâu vì công ty sẽ chuyển ngay ra để trả nợ ngắn hạn khi nó vượt quá một giới hạn nào đó so với nhu cầu dự tính trong ngắn hạn. Phải nói rằng công tác ngân quỹ được công ty đã và đang rất coi trọng, hàng ngày công ty có kế toán thanh toán chuyên theo dõi tình hình số dư trên tất cả các tài khoản của công ty ở tất cả các ngân hàng và kết hợp đối chiếu với nhu cầu thu chi dự tính để lập trừ ngân quỹ từ đó có thể đưa ra quyết định vay thêm hay trả nợ một cách kịp thời nhất vì mục tiêu an toàn, hợp lý hiệu quả và sinh lời. Như ta đã biết tỉ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt là rất thấp thậm chí có thể bằng không. Hơn nữa do sức mua của đồng tiền luôn có xu hướng giảm đi do chịu ảnh hưởng của lạm phát, do đó có thể nói tỉ lệ sinh lời thực của tiền mặt là một số âm. Bởi vậy việc duy trì mức tiền mặt hợp lý nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu tiền mặt của doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Việc nắm giữ tiền mặt là một động cơ phòng ngừa, tiền mặt được tồn trữ nhằm mục đích duy trì khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp ở mọi thời điểm.
2.2. Tình hình các khoản phải thu
Phải thu là một bộ phận chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số vốn lưu động của công ty. Hơn thế nữa nó lại liên quan trực tiếp đến chu kỳ vận động của vốn lưu động và cũng là chu kỳ tạo ra lợi nhuận cho công ty. Do vậy, quản lý các khoản phải thu là một vấn đề đang cần được quan tâm đặc biệt của công ty nhất là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay chính ra quản lý các khoản phải thu đang trở thành một “công cụ” để chiến đấu trong cạnh tranh của bất kỳ một doanh nghiệp nào.
Các khoản phải thu của công ty bao gồm: Phải thu khách hàng phải thu tạm ứng, trả trước người bán, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Trong các khoản phải thu thì khoản phải thu của khách hàng luôn chiếm tỉ trọng cao và là trọng taam của công tác quản lý khoản phải thu, để theo dõi chi tiết các khoản phải thu ta có bảng phân tích:
Bảng 9: Cơ cấu các khoản phải thu của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Đơn vị: 1000 đồng
Các chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
So sánh
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
1. Phải thu khách hàng
11.534.400
85,44
12.476.068
83,09
941.668
8,16
2. Phải trả người bán
816.750
6,05
937.138
6,24
120.388
14,73
3. Tạm ứng
853.200
6,32
805.965
5,37
-46.235
-5,42
4. Phải thu nội bộ
210.600
1,56
598.728
3,98
388.128
184,3
5. Phải thu khác
25.050
0,63
196.219
1,32
111.169
130,71
6. Tổng
13.500.000
100
15.015.108
100
1.515.108
11,22
Qua số liệu trên ta thấy tình hình các khoản phải thu năm 2001 so với năm 2000 là 1.515.168 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 11,22%.
Trong đó khoản phải thu từ khách hàng tăng lên từ năm 2000 là 11.534.400 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 85,44% đến năm 2001 là 12.476.068 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 83,09%. Năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 941.668 nghìn đồng với tốc độ tăng là 8,16% đây là loại tài sản mang lại không ít rủi ro cho công ty. Do vậy việc quản lý khoản phải thu khách hàng hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan của công ty và là một vấn đề thực sự phải quan tâm. Trên thực tế Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội khoản mục này boa gồm 2 bộ phận là phải thu do bán hàng nhập khẩu và phải thu do xuất khẩu. Nhưng ở đây vấn đề cần được quan tâm và cũng là rủi ro lớn nhất cho công ty là khoản phải thu do bán hàng nhập khẩu còn đối với khoản do xuất khẩu thường khá an toàn và thời gian thu nợ rất nhanh. Công ty thường nhận được chấp nhận thanh toán ngay từ phía nhà nhập khẩu thông qua các chi nhánh ngân hàng đại diện của họ tại Việt Nam ngay khi hàng hoá được chứng nhận là đã tới bến. Vả lại với việc áp dụng rộng rãi hình thức thanh toán bằng L/c thì độ an toàn rất cao, do vậy các khoản này công ty thường không theo dõi trong thời gian. Vấn đề khó khăn ở đây là khoản phải thu do bán hàng nhập khẩu, công ty nhập khẩu rất nhiều mặt hàng như: Nhôm, thép, kẽm, máy móc thiết bị, ô tô các loại, máy công cụ, săm lốp ô tô... Do thị trường hoặc do cơ chế thay đổi nên năm 2001 công ty đã bán được hàng nhập khẩu không nhiều và tổng giá trị nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng nhập khẩu bán trên thị trường nội địa có thời gian nhận nợ khá dài và hầu như ít có điều kiện đảm bảo thanh toán, do vậy mà rủi ro vẫn ở mức cao. Để tránh được điều đó công ty phải quản lý khoản này chặt chẽ. Khi bán hàng hoặc mua hàng có đầy đủ các chứng từ hoá đơn cần thiết cho việc thanh toán.
Khoản trả trước người bán tăng 120.388 nghìn đồng so với năm 2000 và tỉ lệ tăng 14,73% khoản này là do công ty ứng tiền ra trước để mua các sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào.
Đối với khoản tạm ứng năm 2000 với số tiền là 853.200 nghìn đồng chiếm tỉ trọng là 6,32% đến năm 2001 số tiền là 806.965 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 5,37%. Như vậy số tiền tạm ứng năm 2001 giảm so với năm 2000 là 46.235 nghìn đồng với tốc độ giảm 5,42%. Khoản này chủ yếu phát sinh là do công nhân viên tạm ứng lương.
Năm 2001 khoản thu nội bộ tăng lên với số tiền 388.128 nghìn đồng với tỉ lệ tăng 184,3%, khoản này tăng thêm là do tổng công ty máy và phụ tùng cấp thêm vốn kinh doanh cho công ty và tăng một số khoản phải thu nội bộ khác nhằm tăng quy mô hoạt động của công ty.
Các khoản phải thu khác năm 2000 là 85.050 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 0,63% và năm 2001 là 196.219 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 1,32%. Ta thấy khoản phải thu khác tăng so với năm 2000 là 111.169 nghìn đồng với tốc độ 130,71%. Khoản này tăng chủ yếu là do phát sinh các khoản phải thu tiền phạt do công nhân làm hỏng tài sản của công ty, làm hàng hoá quy cách các khoản phải thu do chi hộ người lao động, thu do thanh lý tài sản.
Nhìn chung các khoản phải thu năm 2001 tăng lên so với năm 2000. Để đánh giá chính xác hơn tình hình phải thu của công ty ta xem xét chỉ tiêu sau.
Bảng 10: Tình hình các khoản phải thu
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
1. Doanh thu thuần (nđ)
68.520.000
85.000.000
2. Các khoản phải thu (nđ)
13.500.000
15.015.118
3. Hệ số vòng quay (vòng)
5,08
5,66
Tình hình các khoản phải thu phụ thuộc vào chính sách tín dụng của công ty. Chính sách tín dụng có vai trò quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của công ty. Chính sách này được coi như là mục tiêu tăng lượng hàng hoá tiêu thụ trong khuôn khổ, việc mở rộng thị trường tiêu thụ làm tăng doanh lợi cho công ty. Để đảm bảo sự an toàn giữa rủi ro và tính lợi ích, công ty cần nghiên cứu kỹ đối với khách hàng, kết hợp với khả năng tài chính của công ty đã xác định một sự an toàn thích hợp. Ở đây chúng ta chỉ xét tốc độ thu hồi công nợ của công ty, khả năng này thể hiện qua chỉ tiêu hệ số vòng quay các khâu phải thu.
=
Qua bảng số phân tích ta có nhận xét: Năm 2001 số vòng quay các khoản phải tu tăng lên so với năm 2000 từ 5,08 vòng lên 5,66 vòng. Điều này chứng tỏ năm 2001 công ty đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các khoản công nợ phải thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa đòi được và công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Nếu làm tốt công tác này sẽ góp phần làm cho cho vốn lưu động hoạt động hiệu quả hơn.
2.3. Tình hình hàng tồn kho
Đối với một doanh nghiệp thương mại với chức năng lưu chuyển hàng hoá là chủ yếu thì hàng tồn kho đóng một vai trò quan trọng trong vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc xác định một lượng hàng tồn kho hợp lý là vấn đề cần thiết và luôn thường trực đối với doanh nghiệp. Chúng ta đều biết đối với một số mặt hàng theo thời vụ, đối với những mặt hàng này để đảm bảo nhu cầu bán doanh nghiệp cần phải có kế hoạch thu mua trong mùa và dụ trữ đủ bán khi mặt hàng này là lớn. Nhưng đối với mặt hàng sản xuất quanh năm thì không nhất thiết phải dự trữ nhiều để tránh những khoản phí do dự trữ hàng hoá. Tuy nhiên nếu dự trữ quá ít thì sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh giảm. Do vậy việc xác định đúng đắn mức dự trữ hàng hoá là điều rất quan trọng. Như đã phân tích ở trên trong năm qua hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội tăng lên đó là do công ty đang kinh doanh một số mặt hàng mới vì giá thế giới giảm nên chưa xuất khẩu được. Nhưng công ty cũng cần xem xét lượng hàng dự trữ hàng hoá để đáp ứng tốt nhu cầu bán của mình. Để thấy được tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội xét bảng sau.
Bảng 11: Tình hình hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2000
1. Giá vốn hàng bán
64.965.015
81.093.17
2. Hàng tồn kho bình quân (nđ)
3.126.010
3.880.118
3. Số vòng chu chuyển (vòng)
21,95
21,90
4. Số ngày chu chuyển (ngày)
16,4
16,43
5. Doanh thu thuần
68.620.000
85.000.000
Số vòng chu chuyển hàng tồn kho =
Số vòng chu chuyển hàng tồn kho =
Bảng trên cho thấy số lần chu chuyển hàng tồn kho năm 2000 là 21,95 vòng sang năm 2001 là 21,90 vòng. Đây là tốc độ chu chuyển trung bình. Số ngày chu chuyển của hai năm cùng là 16,4 ngày cho một vòng chu chuyển. Như vậy tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của công ty là không cao và không có xu hướng tăng lên trong năm 2001, từ đó có thể thấy được vốn lưu động ở bộ phận hàng tồn kho của công ty được luân chuyển không nhanh, nó sẽ ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại các doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng và được sự quan tâm rất nhiều của nhà quản lý doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta dùng hệ thống chỉ tiêu đánh giá một cách toàn diện và cụ thể. Vốn lưu động tham gia vào hoạt động kinh doanh. Các chỉ tiêu này tính bằng con số cụ thể và chính xác, nó phản ánh trình độ tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp mà hầu hết các chỉ tiêu này được trình bày ở chương I. Trên thực tế nếu doanh nghiệp đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn lưu động thì sẽ đưa ra được các biện pháp kịp thơì và chính xác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Bảng 12 ngang ************
Qua bảng số liệu trên ta có những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty như sau: cứ 1 đồng vốn lưu động bỏ ra công ty thu được 2,63 đồng doanh thu năm 2000 và năm 2001 là 2,04 đồng doanh thu, như vậy so với năm 2000 thì năm 2001 tăng lên 0,41 đồng với tốc độ tăng 15,58%. Trong đó mức doanh thu thuần trên một đồng vốn lưu động năm 2001 tăng với tỉ lệ 16,06% với mức tiền tăng là 0,4 đồng doanh thu thuần. Để xét xem việc sử dụng vốn lưu động có thực sự đạt hiệu quả không chúng ta xét hệ số sinh lời của vốn lưu động. Nhìn vào bảng ta thấy mức lợi nhuận gộp của công ty thu trên một đồng vốn lưu động tăng lên 0,001 đồng có tỉ lệ tăng 0,75% so với năm 2000. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh thực hiện trên một đồng vốn lưu động năm 2000 là 0,108 đồng doanh thu và năm 2001 là 0,10 đồng doanh thu tăng lên 0,001 đồng với tốc độ tăng là 0,925%. Trong năm 2000 cứ một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được 0,0071 đồng tổng lợi nhuận trước thuế và năm 2001 cũng thu được 0,071 đồng tổng lợi nhuận trước thuế trên một đồng vốn lưu động bỏ ra. Nhìn chung hệ số phục hồi vốn lưu động và hệ số sinh lời vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội năm 2001 tốt hơn năm 2000. Việc tăng các hệ số này là do năm 2001 công ty đã kinh doanh một số mặt hàng mới làm cho doanh số bán ra tăng. Tuy nhiên mức tăng của các hệ số này chưa cao là vì hàng tồn kho và giá vốn hàng bán năm 2001 tăng cao làm cho lợi nhuận của công ty tăng không nhiều chính vì vậy làm cho hệ số sinh lời của vốn lưu động tăng không nhiều thậm chí hệ số lợi nhuận trước thuế trên vốn lưu động của công ty chúng ta hãy sử dụng chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ kinh doanh vốn lưu động quay trở về trạng thái ban đầu là bao nhiêu lần như vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy trong năm 2000 số vòng luân chuyển vốn lưu động là 2,498 vòng sang năm 2001 là 2,89 vòng tăng 9,392 vòng với tốc độ tăng là 15,7%, do vậy năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn năm 2000. Thông qua số ngày luân chuyển của vốn lưu động ta biết được số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng luân chuyển. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Nếu năm 2000 số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng là 144,11 ngày thì năm 2001 giảm xuống 114,56 ngày 1 vòng so với năm 2000 thì số ngày giảm 19,55 ngày tương đương với tỷ lệ giảm là 13,56%. Như vậy chỉ tiêu này càng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm qua là tốt hơn năm 2000.
Tóm lại số vòng luân chuyển vốn lưu động năm 2001 tăng lên so với năm 2000 đó là do số vòng luân chuyển của các khoản phải thu tăng lên đã làm cho khả năng thu hồi các khoản công nợ nhanh chóng. Mặt khác số vòng luân chuyển hàng tồn kho giảm cũng phần nào ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển vốn lưu động do vậy trong năm tới công ty phải chú ý hơn nữa về việc quản lý hàng tồn kho sao cho có hiệu quả hơn.
Như vậy ta có thể đánh giá được năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn năm 2000 mặc dù có nguyên nhân khách quan như tình hình không thuận lợi do tỉ giá biến động, vốn vay khó khăn nhưng công ty đã khắc phục và hoàn thành kế hoạch đề ra.
III. Đánh giá chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty
1. Các kết quả đạt được
Nhìn chung qua số liệu phân tích trên ta thấy công ty sử dụng vốn có hiệu quả hơn năm 2000. Trong nưam qua công ty vẫn sử dụng được quy mô hoạt động nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu, tiếp tục củng cố và phát triển các lĩnh vực mới mở mang dần các hoạt động này đi vào nề nếp.
Trên lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đây vẫn là hoạt động chính yếu của công ty trong năm 2001 tuy tổng giá trị kim ngạch có giảm sút so với năm 2000 nhưng sự giảm sút này thuộc về nhập khẩu còn kim ngạch xuất khẩu năm nay tăng 41,65% so với năm 2000. Điều đó cho ta thấy công ty sử dụng vốn hợp lý trong các khâu kinh doanh của mình, biết vận dụng linh hoạt nguồn vốn hiện có tạo đà cho sự phát triển của mình. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do công ty chỉ đạo sát sao các phòng nghiệp vụ vừa giữ mối quan hệ với bạn hàng cũ, vừa tích cực tìm hiếm mở rộng thị trường tiêu thụ mới tạo mọi điều kiện để làm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu như gạo, cao su, cà phê, bao PP... Trong kinh doanh đã có chuyển biến mạnh từ uỷ thác sang tự doanh, đây là kết hợp giữa việc phát huy ưu thế của công ty với yêu cầu khách quan của thị trường, nó cũng đòi hỏi trách nhiệm và trình độ quản lý nghiệp vụ cao hơn. Ngoài ra công ty cũng có thêm các hình thức kinh doanh mới là tham gia dự thầu cung cấp hàng hoá trong nước và nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh của công ty đã mang lại tổng lãi năm 2001 cao hơn năm 2000. Công ty đã tiếp tục truyền thống làm ăn có lãi, lành mạnh về tài chính, bảo toàn và phát triển vốn cho nhà nước, đóng góp nghĩa vụ đầy đủ và kịp thời.
Trong công tác quản lý về sử dụng vốn lưu động công ty đã đạt được một số thành công sau:
Nói chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm 2001 có hiệu quả hơn năm 2000 được thể hiện qua những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty năm 2001 thường cao hơn năm 2000 tuy rằng mức tăng là không cao nhưng có thể nói rằng đây chính là thành công của công ty.
Trong công tác quản lý và sử dụng các khoản phải thu của công ty cũng đạt được một số hiệu quả nhất định. Đây là khoản vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động của công ty vì vậy sử dụng và quản lý có hiệu quả các khoản phải thu sẽ có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Trong năm 2001 số vòng qua các khoản phải thu tăng lên so với năm 2000, điều này chứng tỏ năm 2001 đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các khoản công nợ phải thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa đòi được và công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Đây là sự cố gắng của công ty mặc dù hiệu quả đạt được chưa phải là cao hy vọng rằng trong các năm tiếp theo công ty sẽ thành công hơn nữa trong khâu quản lý và sử dụng khoản vốn này.
Cũng trong năm qua công ty đã cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt động sản xuất kinh doanh công ty bằng nhiều biện pháp khác nhau đã luôn đảm bảo một lượng vốn lưu động thường xuyên do vậy mà công ty có đủ khả năng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Chính sự quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu động của công ty không những giúp công ty vượt qua những khó khăn trở ngại mà còn góp phần không nhỏ trong việc phát triển mở rộng hoạt động sản xuất của công ty.
+ Hạn chế cần khắc phục
Qua số liệu phân tích và đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong 2 năm 2000 và 2001 ta thấy công ty có sự phát triển theo chiều hướng chưa tốt sức mua tăng nhưng lợi nhuận đạt chưa cao, điều này thể hiện ở doanh thu năm 2001 tăng rất cao nhưng lợi nhuận tăng rất chậm. Sự phát triển này chưa đạt tới đích so với tiềm lực hiện có của công ty. Điều này có thể do hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Tuy rằng năm 2000 nhưng hiệu quả đạt được không cao hơn là mấy có thể là do:
Hàng tồn kho (dự trữ) chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn lưu động mà trong năm 2001 lượng hàng tồn kho tăng cao hơn năm 2000. Ngoài ra công tác quản trị hàng tồn kho còn chịu ảnh hưởng lớn bởi nguyên nhân khách quan là các loại hàng dự trữ kém phẩm chất, mất phẩm chất tồn tại từ năm trước góp phần làm tăng lượng hàng hoá tồn kho mà không đem lại hiêụ quả cho công ty.
Các chỉ tiêu mức doanh thu trên trị giá vốn hàng bán, và lợi nhuận gộp trên trị giá vốn đều giảm điều này chứng tỏ trong năm 2001 giá vốn hàng bán của công ty tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng của doanh thu điều này sẽ làm cho lợi nhuận của công ty đạt được là không cao. Do vậy trong khâu này công ty đã không tìm được nguồn hàng rẻ hơn để nâng cao lợi nhuận trong công ty đây chính là hạn chế của công ty.
Vốn bằng tiền của công ty cũng quá lớn nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động do không đưa lượng vốn bằng tiền này vào quá trình lưu thông. Điều này làm cho lợi nhuận của cong ty bị giảm sút vì tiềm mặt cất quỹ không những không sinh lợi nhuận mà còn bị mất giá do lạm phát.
Ngoài ra trong cơ chế quản lý nội bộ và điều hành sản xuất kinh doanh công ty đã luôn thể hiện sự chắc chắn cẩn trọng và ý thức tuân thủ pháp luật cao, trong cơ chế phân phối công ty còn duy trì tỉ lệ “bao cấp” khá cao và phổ biến. Đây là một nét truyền thống và riêng biệt được hình thành rõ nét từ nhiều năm hoạt động của công ty. Trước yêu cầu hiện tại của thị trường việc tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống này rõ ràng là cần thiết song việc phải giảm liều lượng để có sự mềm dẻo linh hoạt hơn, thích ứng hơn với các chuyển biến nhanh của thị trường cũng rất bức thiết. Ví dụ trong cơ chế phân phối lương thưởng cũng cần có chính sách động viên tốt hơn đối với các cá nhân và tập thể có đóng góp cho công ty dần dần giảm tỉ lệ “bao cấp” để khắc phục tâm lý trong chờ ỷ lại không chịu suy nghĩ đóng góp vào cái chung của một bộ phận CBCNV hiện nay.
- Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, nhất là tin học trong sản xuất kinh doanh còn dè dặt.
- Cần tiếp tục nghiên cứu tìm tòi xây dựng các chương trình, giải pháp cụ thể, định hướng cụ thể để thích ứng với thị trường trong và ngoài nước.
3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Công ty đã thực hiện công tác đổi mới quản lý doanh nghiệp: Thực hiện Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá IX và quyết định 183/2001/QG-TTg ngỳ 20/11/2001 của Chính phủ trong năm qua công ty đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý và điều hành: Ban lãnh đạo hoạt động theo đúng quy chế, đã thực hiện giao ban của lãnh đạo tổng công ty với giám đốc công ty theo quý có sơ kết và xác định trách nhiệm từng đơn vị đối với thực hiện kế hoạch, việc kiểm tra, kiểm soát và xét duyệt thực hiện quyết toán được tiến hành nhằm ổn định tài chính, tạo nguồn vốn và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Sự chỉ đạo điều hành được sâu sát, động viên kịp thời các đơn vị vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Trong quản lý đã tạo điều kiện để các đơn vị chủ động, xây dựng nâng cấp các đơn vị cơ sở, mở rộng kinh doanh về mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh, ban hành quy chế thưởng xuất khẩu, hoa hồng, tiền lương các đơn vị có thể tăng trưởng về mọi mặt từ sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Năm 2001 tổ chức mạng lưới kinh doanh đã thực sự phát huy hiệu quả đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của toàn công ty, trình tự thủ tục thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật của tổng công ty.
- Công ty đã tổ chức kiểm tra báo cáo quyết toán tài chính năm 2000 tình hình quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại công ty, tình hình thực hiện các quy chế: Quy chế quản lý tài sản cố định và đầu tư xây dựng cơ bản, quy chế về công tác cán bộ và công tác lao động tiền lương. Giải quyết kịp thời khách quan các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cán bộ và đã báo cáo thanh tra Bộ Thương mại.
- Phòng Tài chính kế toán của công ty đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng và tạo dựng tốt mối quan hệ với các ngân hàng nên đã đáp ứng kịp thời vốn cho kinh doanh, cho các dự án đầu tư, Tổng công ty đã giới thiệu coi ngân hàng có chế mềm dẻo trong cho vay để Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội tiếp xúc trực tiếp ký các hạn mức tín dụng với các điều kiện ưu đãi. Tổ chức tổng hợp xong quyết toán năm 2001. Đã tổ chức kiểm tra tình hình hoạt động năm 2001 của toàn công ty. Qua kiểm tra đã yêu cầu công ty xử lý hàng hoá tài sản kém mất phẩm chất, đôn đốc giải quyết công nợ, công ty đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt giải quyết bước đầu đã có kết quả.
Bên cạnh đó công ty gặp phải một số hạn chế cần khắc phục là do một số nguyên nhân sau:
- Công tác quản trị hàng tồn kho của công ty chịu ảnh hưởng lớn bởi nguyên nhân khách quan đó là các loại hàng hoá dự trữ kém phẩm chất tổn tại từ các năm trước góp phần làm tăng dự trữ kém phẩm chât tồn tại từ các năm trước góp phần làm tăng lượng hàng tồn kho mà không đem lại hiệu quả cho công ty.
Chính vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc quản trị hàng tồn kho và từ đó có những ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Các khoản phải thu của công ty luôn luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số vốn lưu động. Điều này biểu hiện việc kém hiệu quả trong công tác quản trị các khoản phải thu.
Nguyên nhân là do chưa có chính sách tín dụng hợp lý như các biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản phải thu làm mất một lượng vốn lưu động cần thiết cho nhu cầu tài chính.
Công tác quản lý tiền mặt của công ty cũng chưa tốt đó là nguyên nhân dẫn đến việc làm giảm hiệu quả vốn lưu động do tiền mặt cất quỹ không những không sinh lợi nhuận mà còn lại bị mất giá do lạm phát.
Cũng trong năm qua công ty không gặp phải khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn hàng, làm cho trị giá vốn hàng bán tăng rất cao. Điều này có thể là do công tác tìm kiếm bạn hàng, những nhà cung cấp của bộ phận cán bộ phụ trách chưa tốt hoặc cũng có thể là do những nguyên nhân khác quan như sự không ổn định của thị trường thế giới hay là sự biến động thất thường của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của công ty cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong khâu này. Ngoài ra cơ thể còn một số nguyên nhân khác của những thành tựu cũng như hạnchế mà công ty đang gặp phải. Thế nhưng phải nói rằng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay mà công ty kinh doanh vốn có lãi đây là một thành công của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tm144c_327.doc