Biện pháp tự vệ trong phòng vệ thương mại
Chúng tôi cho rằng, mặc dù phương án
thứ 2 là phương án mang tính an toàn và đảm
bảo sự ổn định lâu dài trong các quy định
của văn bản luật nhưng phương án 1 là hợp
lý hơn vì nó đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch
trong các quy định của pháp luật cũng như
phù hợp với quy định của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Thứ ba, mặc dù khoản 3 Điều 6 Luật
QLNT 2017 quy định nguyên tắc quản lý
nhà nước về ngoại thương là: “Bảo đảm thực
hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại
thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên”, nhưng quy định này
chưa thể hiện rõ việc áp dụng các BPTV
phải phù hợp với các Hiệp định thương mại
mà Việt Nam đã ký kết. Vì vậy, điểm đ
khoản 2 Điều 91 Luật QLNT 2017 nên được
viết lại như sau: đ) Các biện pháp tự vệ khác
phù hợp với quy định của các Hiệp định
thương mại mà Việt Nam đã ký kết.
Thứ tư, sửa đổi khoản 4 Điều 98 Luật
QLNT 2017 về bồi thường do áp dụng
BPTV theo hướng quy định rõ cơ quan
“xác định việc bồi thường và mức độ bồi
thường”; xác định thời gian cụ thể để các cơ
quan có liên quan trình phương án bồi
thường và mức độ bồi thường cho Thủ
tướng Chính phủ, để Chính phủ xem xét,
quyết định nhằm tạo điều kiện cho quá trình
tham vấn giữa các bên liên quan trong hoạt
động này và giao cho Chính phủ quy định
chi tiết điều này
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp tự vệ trong phòng vệ thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 12 (412) - T6/202014
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Dẫn nhập
Biện pháp tự vệ là một trong các biện
pháp phòng vệ thương mại (tự vệ, chống bán
phá giá, chống trợ cấp) được các quốc gia áp
dụng nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước
trước quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế.
Trong đó, nếu như biện pháp chống bán phá
giá (BPCBPG) và biện pháp chống trợ cấp
(BPCTC) được áp dụng đối với những hành
vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm mục
đích chiếm lĩnh thị phần của nước nhập
khẩu, thì biện pháp tự vệ (BPTV) được sử
dụng để áp dụng cho trường hợp hàng hóa
được trợ cấp khi nhập khẩu gây ra thiệt hại
đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể
của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn
cản sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước.
Theo con số thống kê của Bộ Công
thương, từ năm 2001 đến năm 20191, có 32
vụ hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu ra
ngoài nước đã bị khởi xướng điều tra liên
1 Xem Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại – VCCI,
tra-tu-ve-doi-voi-hang-hoa-viet-nam-tai-thi-truong-nuoc-ngoai-tinh-den-31122019-n20380.html, truy cập
ngày 31/3/2020.
BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
Phan Phương Nam*
Kim Thị Hạnh**
*TS. Phó Trưởng Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
**ThS. Phó trưởng ban thường trực Ban Văn hóa – Xã hội HĐND tỉnh Tây Ninh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Biện pháp tự vệ, thuế tự vệ,
phòng vệ thương mại.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 31/3/2020
Biên tập : 16/4/2020
Duyệt bài : 18/4/2020
Article Infomation:
Keywords: Safeguard measures,
safeguard duties; trade remedies.
Article History:
Received : 31 Mar. 2020
Edited : 16 Apr. 2020
Approved : 18 Apr. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này phân tích, chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật
Việt Nam trong các quy định về biện pháp tự vệ và đề xuất kiến
nghị hoàn thiện các quy định này nhằm bảo vệ có hiệu quả sản
xuất trong nước trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Abstract:
This article provides an analysis of and points out the
shortcomings in the legal regulations on safeguard measures of
Vietnam and also provides recommendations for further
improvements of these regulations to effectively protect domestic
production in the process of economic integration in the world.
quan đến BPTV, trong đó riêng năm 2018 có
7 vụ 2. Việt Nam đã tiến hành điều tra 06 vụ
tự vệ đối với các sản phẩm hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam3. Điều này cho thấy,
BPTV đang được Việt Nam và các nước
tăng cường sử dụng để bảo vệ nền sản xuất
trong nước.
2. Thực trạng pháp luật về biện pháp tự vệ
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về
BPTV đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam là Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tự vệ
trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào
Việt Nam (Pháp lệnh về tự vệ). Năm 2016,
Quốc hội ban hành Luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
đã kế thừa nhiều nội dung trong Pháp lệnh
về tự vệ. Trong điều kiện hội nhập thế giới,
để đáp ứng yêu cầu bảo vệ nền sản xuất hàng
hóa trong nước, ngày 12/06/2017, Quốc hội
đã ban hành Luật Quản lý ngoại thương
(Luật QLNT 2017); ngày 15/01/2018, Chính
Phủ ban hành Nghị định số 10/2018/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Luật Quản
lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ
thương mại (Nghị định số 10/2018); ngày
29/11/2019, Bộ Công thương ban hành
Thông tư số 37/2019/TT-BCT quy định chi
tiết một số nội dung về các biện pháp phòng
vệ thương mại (Thông tư số 37/2019). Nhìn
chung, các văn bản pháp luật hiện hành về
biện pháp tự vệ đã quy định khá đầy đủ về
nội dung, điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ,
căn cứ điều tra, nội dung điều tra áp dụng
biện pháp tự vệ Về cơ bản, những quy
định này đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ thị
trường sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về biện
pháp tự vệ còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, về biện pháp tự vệ tạm thời
Khoản 1 Điều 95 Luật QLNT 2017 quy
định, Bộ trưởng Bộ Công thương (BCT) có
thể quyết định BPTV tạm thời dựa vào kết
luận sơ bộ của cơ quan điều tra (CQĐT)
“trước khi kết thúc điều tra, nếu xét thấy việc
chậm thi hành BPTV gây ra thiệt hại nghiêm
trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm
trọng của ngành sản xuất trong nước và thiệt
hại đó khó có thể khắc phục về sau. Thời hạn
áp dụng BPTV tạm thời là không quá 200
ngày kể từ ngày bắt đầu áp dụng BPTV tạm
thời”. Về cơ bản, nội dung này đã tuân thủ
và kế thừa các quy định tại Điều 6 của Hiệp
định về tự vệ (Agreement on Safeguards, -
Hiệp định SG). Tuy nhiên, Hiệp định SG của
WTO cũng như pháp luật Việt Nam chưa
xác định rõ là BPTV tạm thời có thể được
gia hạn hay không? Điều này sẽ dẫn đến
cách hiểu và áp dụng pháp luật không thống
nhất trên thực tế.
Mặc dù Điều 96 Luật QLNT 2017 có đề
cập đến việc gia hạn BPTV, nhưng không thể
khẳng định rằng, việc gia hạn sẽ áp dụng cho
toàn bộ các BPTV bao gồm cả BPTV tạm
thời vì những lý do sau:
Khoản 1 và 2 Điều 96 Luật QLNT 2017
có quy định về rà soát giữa kỳ và rà soát cuối
kỳ nên những quy định này chỉ áp dụng khi
đã có kết luận và cơ quan có thẩm quyền đã
tiến hành áp dụng BPTV chính thức. Do vậy,
các quy định này không thể áp dụng cho các
quy định về BPTV tạm thời.
15Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2 Bộ Công thương (2019), Báo cáo xuất khẩu, nhập khẩu năm 2018, Nxb. Công thương, Hà Nội 2019, tr.143.
3 Xem Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại – VCCI,
dieu-tra-tu-ve-doi-voi-hang-nhap-khau-vao-viet-nam-tinh-den-31122019-n20377.html, truy cập ngày
31/3/2020.
Số 12 (412) - T6/202016
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Khoản 3 Điều 96 Luật QLNT 2017 quy
định về việc rà soát phạm vi hàng hóa bị áp
dụng BPTV được thực hiện khi các nhà nhập
khẩu hàng hóa bị áp dụng BPTV vệ yêu cầu
Cơ quan điều tra thực hiện rà soát phạm vi
hàng hóa bị áp dụng BPTV. Trong khi nội
dung quy định đang bàn đến là việc chủ
động gia hạn thời gian áp dụng BPTV tạm
thời từ cơ quan có thẩm quyền trong quá
trình thực hiện hoạt động của mình nhằm
thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Vì
vậy, trường hợp không có yêu cầu rà soát từ
các nhà nhập khẩu hàng hóa bị áp dụng
BPTV nhưng nếu cơ quan có thẩm quyền
thấy cần thiết phải gia hạn thì không thể nào
áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 96 Luật
QLNT 2017.
Từ phân tích trên, chúng tôi cho rằng,
nội dung Điều 96 Luật QLNT 2017 chưa thể
giải quyết và cũng không thể giải quyết được
sự bất cập trong việc không có quy định rõ
ràng về việc có hay không có gia hạn thời
gian áp dụng BPTV tạm thời của Luật
QLNT 2017.
Thứ hai, về các biện pháp tự vệ khác
Điều 91 Luật QLNT 2017 quy định các
biện pháp tự vệ bao gồm:
a) Áp dụng thuế tự vệ;
b) Áp dụng hạn ngạch nhập khẩu;
c) Áp dụng hạn ngạch thuế quan;
d) Cấp giấy phép nhập khẩu;
đ) Các biện pháp tự vệ khác.
Quy định của điểm đ là chưa phù hợp
với quy định của WTO và các Hiệp định
thương mại mà Việt Nam tham gia. Cụ thể là:
Theo WTO, “nguyên tắc minh bạch hoá
yêu cầu các nước phải công khai, minh bạch
các loại thủ tục, chính sách và quy định để
các nước thành viên biết rõ ràng và cụ thể
loại bỏ tình trạng mập mờ về quy định và thủ
tục”4. Việc điểm đ quy định “các biện pháp
tự vệ khác” mà không rõ đó là biện pháp gì
là không đúng với yêu cầu của nguyên tắc
minh bạch hóa. Điều này trái với những mục
tiêu cốt lõi của WTO.
Trong các Hiệp định thương mại mà
Việt Nam tham gia, không có bất kỳ Hiệp
định nào để ngỏ các BPTV có thể áp dụng là
“các biện pháp khác”.
Thứ ba, về việc bồi thường khi áp dụng
biện pháp tự vệ
Quốc gia nhập khẩu áp dụng BPTV
nhằm tạo điều kiện cho ngành sản xuất trong
nước có thời gian tự điều chỉnh để đủ sức
cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy,
việc áp dụng BPTV gây ảnh hưởng nhất
định đối với các bên liên quan. Trong một số
trường hợp, nước nhập khẩu phải tiến hành
việc bồi thường khi áp dụng biện pháp này.
Điều 98 Luật QLNT 2017 quy định: “1.
Việc bồi thường và mức độ bồi thường thiệt
hại do áp dụng BPTV được thực hiện theo
quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên.
2. Việc bồi thường và mức độ bồi
thường thiệt hại được xác định trên cơ sở kết
quả tham vấn giữa các bên liên quan.
3. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp
với Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan xây
dựng phương án bồi thường trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt trước khi tiến hành
tham vấn với bên bị thiệt hại do áp dụng
BPTV”.
4 Nguyễn Thường Lạng, Các nguyên tắc WTO với việc định dạng các tiêu chuẩn mới trong kinh doanh ở
Việt Nam trên
tieu-chuan-moi-trong-kinh-doanh-o-viet-nam, truy cập ngày 21/12/2019.
17Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Quy định trên mang tính định hướng cho
việc bồi thường khi áp dụng BPTV của Việt
Nam. Để thực hiện quy dịnh này trên thực tế
cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy
nhiên, cho đến nay, cơ quan có thẩm quyền
vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn quy
định này. Đây là một trong những hạn chế
của pháp luật Việt Nam về BPTV cần sớm
được khắc phục.
3. Kiến nghị
Để bảo đảm phát huy hiệu quả của các
BPTV trong việc bảo vệ ngành sản xuất
trong nước ở nước ta hiện nay, chúng tôi có
một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, sửa đổi đoạn 2 khoản 1 Điều
95 Luật QLNT 2017 theo hướng xác định rõ
cơ quan có thẩm quyền được gia hạn thời
gian áp dụng BPTV tạm thời nhưng vẫn đảm
bảo thời gian áp dụng biện pháp này là
không quá 200 ngày kể từ ngày quyết định
áp dụng BPTV tạm thời có hiệu lực. Theo
đó, đoạn 2 khoản 1 Điều 95 Luật QLNT
2017 được viết lại như sau: “Thời hạn áp
dụng biện pháp tự vệ tạm thời là không quá
200 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng biện
pháp tự vệ tạm thời có hiệu lực. Bộ trưởng
Bộ Công thương có thể gia hạn áp dụng biện
pháp tự vệ tạm thời nhưng không quá 60
ngày”.
Thứ hai, sửa đổi đoạn 1 khoản 1 Điều 95
Luật QLNT 2017 theo hướng bảo đảm sự
thống nhất trong các quy định của Luật
QLNT 2017 cũng như giữa quy định của
Luật QLNT 2017 với quy định của các văn
bản luật chuyên ngành khác. Theo đó, có hai
phương án thể hiện khoản 1 Điều 95 Luật
QLNT 2017:
Phương án 1: đoạn 1 khoản 1 Điều 95
Luật QLNT 2017 được viết lại như sau:
“Việc áp dụng thuế tự vệ tạm thời dưới hình
thức thuế nhập khẩu bổ sung do Bộ trưởng
Bộ Công thương quyết định căn cứ vào kết
luận sơ bộ của cơ quan điều tra trước khi kết
thúc điều tra, nếu xét thấy việc chậm thi
hành biện pháp tự vệ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm
trọng của ngành sản xuất trong nước và thiệt
hại đó khó có thể khắc phục về sau”. Việc
thay cụm từ “thuế tự vệ tạm thời dưới hình
thức thuế nhập khẩu bổ sung” cho cụm từ
“biện pháp tự vệ tạm thời” nhằm:
Đảm bảo sự thống nhất với quy định của
khoản 1 Điều 81, khoản 1 Điều 89 Luật
QLNT 2017 khi quy định về biện pháp
chống phá giá, chống trợ cấp tạm thời bằng
công cụ thuế. Quy định này cũng phù hợp
với quy định của Điều 6 Hiệp định SG của
WTO5.
Đảm bảo sự thống nhất giữa Luật QLNT
2017 với Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
năm 2016 và các văn bản pháp luật khác.
Khoản 7 Điều 4 Luật thuế Xuất khẩu, nhập
khẩu năm 2016 quy định: “Thuế tự vệ là thuế
nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong
trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức
vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn
cản sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước”; khoản 2 Điều 52 Nghị định số
5 Điều 6 của SG quy định: “Trong trường hợp nghiêm trọng mà sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể
khắc phục được, một Thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời dựa trên xác định sơ bộ rằng có
chứng cứ rõ ràng chứng tỏ gia tăng nhập khẩu đã gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng. Thời hạn
áp dụng biện pháp tạm thời không được quá 200 ngày và trong suốt thời hạn đó các yêu cầu từ Điều 2 đến
7 và Điều 12 phải được tuân thủ. Các biện pháp này được áp dụng dưới hình thức tăng thuế và sẽ được hoàn
trả ngay nếu điều tra sau đó”.
Số 12 (412) - T6/202018
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
10/2018/NĐ-CP quy định: “ Biện pháp tự vệ
tạm thời chỉ được áp dụng dưới hình thức
thuế nhập khẩu bổ sung”. Như vậy, có thể
thấy rằng, bản chất của “ biện pháp tự vệ tạm
thời” chính là “thuế tự vệ tạm thời”.
Phương án 2: Đoạn 1 khoản 1 Điều 95
Luật QLNT 2017 được viết lại như sau:
“Việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời dưới
hình thức thuế nhập khẩu bổ sung do Bộ
trưởng Bộ Công thương quyết định căn cứ
vào kết luận sơ bộ của cơ quan điều tra trước
khi kết thúc điều tra, nếu xét thấy việc chậm
thi hành biện pháp tự vệ gây ra thiệt hại
nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước
và thiệt hại đó khó có thể khắc phục về sau.
Chính Phủ quy định chi tiết hình thức áp
dụng của biện pháp tự vệ tạm thời ”; theo
đó, việc Chính phủ quy định chi tiết hình
thức áp dụng BPTV tạm thời sẽ hợp lý và
phù hợp với quy định của Điều 11 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chúng tôi cho rằng, mặc dù phương án
thứ 2 là phương án mang tính an toàn và đảm
bảo sự ổn định lâu dài trong các quy định
của văn bản luật nhưng phương án 1 là hợp
lý hơn vì nó đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch
trong các quy định của pháp luật cũng như
phù hợp với quy định của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Thứ ba, mặc dù khoản 3 Điều 6 Luật
QLNT 2017 quy định nguyên tắc quản lý
nhà nước về ngoại thương là: “Bảo đảm thực
hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại
thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên”, nhưng quy định này
chưa thể hiện rõ việc áp dụng các BPTV
phải phù hợp với các Hiệp định thương mại
mà Việt Nam đã ký kết. Vì vậy, điểm đ
khoản 2 Điều 91 Luật QLNT 2017 nên được
viết lại như sau: đ) Các biện pháp tự vệ khác
phù hợp với quy định của các Hiệp định
thương mại mà Việt Nam đã ký kết.
Thứ tư, sửa đổi khoản 4 Điều 98 Luật
QLNT 2017 về bồi thường do áp dụng
BPTV theo hướng quy định rõ cơ quan
“xác định việc bồi thường và mức độ bồi
thường”; xác định thời gian cụ thể để các cơ
quan có liên quan trình phương án bồi
thường và mức độ bồi thường cho Thủ
tướng Chính phủ, để Chính phủ xem xét,
quyết định nhằm tạo điều kiện cho quá trình
tham vấn giữa các bên liên quan trong hoạt
động này và giao cho Chính phủ quy định
chi tiết điều này n
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định về việc thực thi Điều XIX của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994.
2. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ (AIFTA) năm 2009.
3. Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) năm 2005.
4. Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008.
5. Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN- Australia-New Zealand (AANZFTA) năm 2009.
6. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chi lê (VCFTA) năm 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_phap_tu_ve_trong_phong_ve_thuong_mai.pdf