KẾT LUẬN Kết quả nghiên cho thấy mức độ biểu hiện hoạt tính của các enzim ESTs, GSTs và CYPs của các quần thể rầy nâu thu thập tại các vùng trồng lúa chính ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2015-2017 đều cao hơn so với quần thể rầy nâu mần cảm. - Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim ESTs của các quần thể rầy nâu ở vùng trồng lúa chính đều cao hơn so quần thể rầy nâu mẫn cảm. Quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số cao nhất 0,080 – 0,096 µmol/min/mg protein, tiếp đến là quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số 0,074 – 0,086 µmol/min/mg protein, cuối cùng là quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền Trung có chỉ số 0,065 – 0,080 µmol/min/mg protein, trong khi chỉ số này của quần thể rầy nâu mẫn cảm là 0,012 µmol/min/mg protein - Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim GSTs của các quần thể rầy ở vùng trồng lúa chính đều cao hơn so quần thể rầy mẫn cảm. Quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số cao nhất 2,83 – 3,20 µmol/min/mg protein, tiếp đến là quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền Trung có chỉ số 2,52 – 2,58 µmol/min/mg protein, cuối cùng là quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số 2,20 – 2,46 µmol/min/mg protein, trong khi chỉ số này của quần thể rầy nâu mẫn cảm là 0,19 – 0,20 µmol/min/mg protein. - Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim CYPs của các quần thể rầy ở vùng trồng lúa chính đều cao hơn so rầy mẫn cảm. Quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số cao nhất 0,037 – 0,042 µmol/min/mg protein, tiếp đến là quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền Trung có chỉ số 0,036 – 0,039 µmol/min/mg protein, cuối cùng là quần thể rầy nâu vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số 0,027 – 0,029 µmol/min/mg protein, Chỉ số này của quần thể rầy nâu mẫn cảm là 0,008 – 0,009 µmol/min/mg protein. Hoạt tính của các enzim ESTs, GSTs và CYPs cho thấy các quần thể rầy ở các vùng trồng lúa chính có khả năng kháng nhiều loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm phốt-pho hữu cơ, carbamate, pyrethroid và neonicotinoid.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu hiện các enzym giải độc esterase, glutathione s-Transferases & cytochrome p450 của rầy nâu nilaparvata lugens stal (homotera: delphacidae), tại các vùng trồng lúa chính ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
19
BIỂU HIỆN CÁC ENZYM GIẢI ĐỘC Esterase, Glutathione S-transferases &
Cytochrome P450 CỦA RẦY NÂU Nilaparvata lugens Stål (Homotera:
Delphacidae), TẠI CÁC VÙNG TRỒNG LÖA CHÍNH Ở VIỆT NAM
Expression of Detoxifying Enzymes Esterase, Glutathione S-transferases and
Cytochrome P450 of Brown Planthopper Nilaparvata lugens (Stål) (Homotera:
Delphacidae), at Main Rice Growing Regions in Viet Nam
Đào Bách Khoa, Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Phạm Thu Huyền, Đào Hải Long và Hoàng Thị Ngân
Viện Bảo vệ thực vật
Ngày nhận bài: 16.01.2018 Ngày chấp nhận: 03.02.2018
Abstract
The brown planthopper (BPH), Nilaparvata lugens Stål, is one of the major pests of rice throughout Asia.
Abuse and misuse of insecticides for suppressing BPH has resulted in the development of insecticide resistance
leading to frequent control failures in the field. The aim of the present study was to evaluate metabolic resistance
machinsm in the BPH field populations in the main rice growing regions in Viet Nam via the activity of detoxifying
ezymes esterases (ESTs), glutathione-S transferases (GSTs) and cytochrome P450s (CYPs). Obtainded results
indicated that activities of all detoxifying ezymes tested of BPH field populations were significantly higher than
those of PBH susceptible strain. ESTs activities in the field population were 0.080 - 0.096 µmol/min/mg of protein,
7,3 times higher compared to those of susceptible strain were 0.012 µmol/min/mg of protein. GSTs activities in
the field population were 2,20 - 3,20 µmol/min/mg of protein , 13,8 times higher compared to those of susceptible
strain were 0.19 - 0.20 µmol/min/mg of protein. CYPs activities in the field population were 0,027 - 0,042
µmol/min/mg of protein, 4 times higher compared to those of PBH susceptible strain were 0,008 - 0,009
µmol/min/mg of protein. The high activities of ESTs, GSTs and CYPs of field populations indicated that these
populations are likely to multiple resistances with insecticides group of organophosphate, carbamate, pyrethroid
and neonicotinoid.
Keywords: brown planthopper, emzyme detoxification, ESTs, GSTs, CYPs, main rice growing region.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål.) là loài sâu
hại chính trên cây lúa ở các vùng trồng lúa Châu
Á, trong đó có Việt Nam. Cách thức gây hại
chính của chúng với cây lúa là chích hút dinh
dưỡng của cây làm cho cây lúa héo khô dần và
chết (Bottrell và Schoely, 2012). Ngoài ra, rầy
nâu còn là môi giới truyền vi rút gây bệnh vàng
lùn và lùn xoắn lá cho cây lúa (Bottrell và
Schoely, 2012).
Với đặc tính sinh học có sức sinh sản lớn,
khả năng di cư xa và thích ứng nhanh với giống
kháng vì vậy rầy nâu được đánh giá là loài côn
trùng rất khó phòng trừ (Malathi và CS., 2015).
Cho đến nay, trong hệ thống các biện pháp
phòng chống rầy nâu, biện pháp sử dụng thuốc
trừ sâu hóa học vẫn là giải pháp chính. Các loại
thuốc được sử dụng rộng rãi để phòng trừ rầy
nâu chủ yếu là các thuốc có gốc lân hữu cơ,
carbamate, pyrethroids, neonicotinoid, chất ức
chế sinh trưởng (IGR), phenylpyrazoles và
avermectin (Matsumura và CS., 2008). Tuy
nhiên, việc sử dụng không đúng và lạm dụng
thuốc rất dễ gây ra sự kháng thuốc của rầy nâu.
Sự hình thành và phát triển tính kháng thuốc trừ
sâu chủ yếu dựa vào hai cơ chế. Cơ chế thứ
nhất là tăng khả năng sản xuất các enzim chuyển
hóa, các loại enzim này có khả năng cô lập hoặc
khử độc gọi là cơ chế kháng chuyển hóa
(Feyereisen, 1995). Cơ chế thứ hai là gây đột
biến gen làm thay đổi cấu trúc protein dẫn tới các
điểm tiếp xúc với độc tố ít nhạy cảm hơn gọi cơ
chế kháng đột biến (Soderlund và Knipple, 2003).
Cơ chế kháng chuyển hóa hoạt tính dựa vào
hoạt hóa của enzim esterases (ESTs),
glutathione-S transferases (GSTs) và cytochrome
P450s (CYPs) (Oakeshott và CS., 2010). Hàm
lượng ESTs tăng song song với việc gia tăng
tính kháng thuốc của rầy nâu đối với các loại
thuốc có gốc phốt-pho, carbamate và pyrethroid
(Small và Hemingway, 2000). Gia tăng hoạt tính
của GSTs làm tăng tính kháng thuốc của côn
trùng đối với thuốc có gốc phốt-pho, clo và
pyrethroid (Che-Mendoza và CS., 2009). Gia
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
20
tăng hàm lượng P450s làm tăng tính kháng
thuốc của nhiều loại côn trùng đối với thuốc có
gốc phốt-pho hữu cơ, pyrethroid và neonicotinoid
(Liu và CS., 2005).
Hiện nay, sử dụng thuốc trừ sâu hóa học vẫn
là một biện pháp chính đang được áp dụng rộng
rãi trong sản xuất để phòng trừ rầy nâu mặc dù
rầy nâu đã kháng hầu hết các loại thuốc đang sử
dụng (Matsumura và CS., 2008; Oanh và CS.,
2008). Vì vậy, quản lý tính kháng thuốc của rầy
nâu, trong đó việc hiểu được cơ chế kháng thuốc
là yếu tố rất quan trọng cho việc quản lý rầy nâu
nói riêng và côn trùng hại nói chung một cách
hiệu quả. Ở Việt Nam, có rất ít công trình nghiên
cứu về cơ chế kháng thuốc của rầy nâu. Bài báo
này cung cấp các dẫn liệu khoa học về mức độ
biểu hiện hoạt tính các enzim giải độc Esterases
(ESTs), Transferases Glutathione-S (GSTs) và
Cytochrome P450s (CYPs) của các quần thể rầy
nâu thu thập tại các vùng trồng lúa chính và quần
thể rầy mẫn cảm, trong khoảng thời gian năm
2015 - 2017.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Quần thể rầy nâu mẫn cảm được lưu giữ tại
Viện Bảo vệ thực vật có nguồn gốc từ Nhật Bản.
Chín quần thể rầy ở đồng ruộng được thu thập ở
đồng bằng sông Hồng (Hưng Yên, Nam Định,
Hải Phòng), duyên hải miền Trung (Nghệ An,
Huế, Phú Yên) và đồng bằng sông Cửu Long
(Long An, An Giang, Vĩnh Long), trong thời gian
từ năm 2015-2017.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập và nhân nuôi rầy
nâu thí nghiệm
Rây nâu trưởng thành cái mang trứng
thành thục được thu thập ở các vùng đã
được xác định và nuôi riêng trong lồng lưới
chuyên dụng có kích thước (33 × 25 × 35) cm,
chứa các khay mạ giống TN1 (chuẩn nhiễm) ở
7 ngày tuổi làm thức ăn cho rầy nâu. Rầy nâu
được nuôi ở điều kiện nhiệt độ 28-30
o
C, ẩm
độ 65-75% và điều kiện ánh sáng 16 – 8h
(ngày/đêm). Cứ sau khoảng thời gian ba ngày
chuyển rầy nâu sang khay mới, khay mạ cũ
chứa trứng được giữ lại để nhân nuôi rầy non.
Thí nghiệm được tiến hành đối với rầy non
tuổi ba của thế hệ thứ hai. Rầy nâu mẫn cảm
được nhân nuôi và sử dụng giống như rầy
nâu thí nghiệm.
2.2.2. Phương pháp tách chiết protein
Protein tổng số được tách chiết phục vụ cho
các thí nghiệm đo hoạt tính enzim ESTs, GSTs
và CYPs. Khoảng 50 cá thể rầy non tuổi ba của
một quần thể được nghiền trong 1000 µl dung
dịch đệm phosphate Na/K (0.1M), pH 7.6, chứa 1
mM EDTA, 1mM dithiothreitol (DTT), 1 mM
phenylthiourea, 1 mM PMSF và 20% glycerol.
Dịch nghiền được ly tâm ở 15.000 x g trong 20
phút ở nhiệt độ 4
o
C. Dung dịch nghiền chứa
protein được thu hồi và bảo quản trong điều kiện
-80
o
C để phục vụ thí nghiệm. Hàm lượng protein
được xác định bằng phương pháp Bradford theo
hướng dẫn của bộ kít Quick StartTM Bradford
hãng Bio-Rad.
2.2.3. Phương pháp xác đinh mức độ hoạt
tính của esterases
Đo hoạt tính enzim ESTs bằng việc trộn 50 µl
dung dịch chiết chứa 90 µg/ml protein trong dung
dịch đệm phosphate (0.2M, pH 7,2) với 2 µl chất
đệm α-naphthyl acetate (0,2 mM). Hỗn hợp được
ủ 30
o
C trong vòng 15 phút và ngừng phản ứng
bằng việc thêm chất nhuộm màu FAST Blue B và
bức xạ được đo bằng máy quang phổ Bio-Rad ở
bước sóng 600 nm.
2.2.4. Phương pháp xác đinh mức độ hoạt
tính của glutathione-S transferases
Đo hoạt tính enzim GSTs bằng việc trộn 150
µl dung dịch chiết chứa 30 µg/ml protein trong
dung dịch đệm phosphate (0.1M, pH 7,5) với 30
µl chất đệm 1-chloro-2,4-dinitrobenzene (CDNB)
nồng độ 30 mM và 20 µl chất GSHs nồng độ 45
mM. Bức xạ được đo bằng máy quang phổ khả
kiến (Shimadzu UV-1800) ở bước sóng 340 nm
trong vòng 5 phút.
2.2.5. Phương pháp xác đinh mức độ hoạt
tính của cytochrome P450s
Đo hoạt tính enzim CYPs bằng việc trộn 90 µl
dung dịch chiết chứa 50 µg/ml protein trong dung
dịch đệm phosphate (0.1M, pH 7,8) với 100 µl
dung dịch chứa 2mM p-nitroanisole và 10 µl hợp
chất 9,6 mM NADPH. Tổng hỗn hợp dung dịch là
200 µl cho vào mỗi giếng trong đĩa 96 giếng. Hỗn
hợp được ủ trong vòng 30 phút và bức xạ được
đo bằng máy quang phổ Bio-Rad ở bước sóng
405 nm trong vòng 15 phút.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Độ hoạt tính của Esterases
Kết quả đo độ hoạt tính của esterases của
các quần thể rầy nâu được trình bày trong hình 1
cho thấy, chỉ số hoạt tính enzim ESTs của các
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
21
quần thể rầy nâu thu tại các vùng trồng lúa chính
ở Việt Nam dao động trong khoảng 0,062 –
0,098 µmol/min/mg protein, trong khi đó chỉ số
hoạt tính của enzim ESTs của quần thể rầy nâu
mẫn cảm dao động trong khoảng 0,011 – 0,013
µmol/min/mg protein.
Hình 1. Chỉ số hoạt tính ESTs đối với mƣời quần thể rầy nâu từ năm 2015-2017
(Số 1 theo sau các số chỉ năm là vụ Đông Xuân; số 2 theo sau các số chỉ năm
là vụ Hè Thu (vụ mùa ở miền Bắc)
Các quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long chỉ số hoạt tính enzim ESTs dao
động trong khoảng 0,079 – 0,098 µmol/min/mg
protein, trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 0,077
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2015 ở tỉnh Long An và
đạt đỉnh cao nhất 0,098 µmol/min/mg protein của
quần thể rầy nâu thu trong vụ Hè Thu năm 2017
ở tỉnh Sóc Trăng. Các quần thể rầy nâu thu ở
vùng duyên hải miền Trung chỉ số hoạt tính
enzim ESTs dao động trong khoảng 0,062 –
0,086 µmol/min/mg protein, trong đó chỉ số
thấp nhất ở mức 0,062 µmol/min/mg protein
của quần thể rầy nâu thu trong vụ Đông Xuân
năm 2015 ở tỉnh Nghệ An và đạt đỉnh cao nhất
0,086 µmol/min/mg protein của quần thể rầy
nâu thu trong vụ Đông Xuân năm 2017 ở Huế.
Các quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Hồng chỉ số hoạt tính enzim ESTs dao
động trong khoảng 0,067 – 0,088 µmol/min/mg
protein, trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 0,067
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2015 ở tỉnh Hưng
Yên và đạt đỉnh cao nhất 0,088 µmol/min/mg
protein của quần thể rầy nâu thu trong vụ Hè
Thu năm 2015 ở Hải Phòng.
3.2 Độ hoạt tính của Glutathione-S
Transferases
Kết quả đo độ của glutathione-S
transferases của các quần thể rầy nâu được
trình bày trong hình 2 cho thấy, chỉ số hoạt tính
enzim GSTs của quần thể rầy nâu thu tại các
vùng trồng lúa chính ở Việt Nam dao động
trong khoảng 1,84 – 3,54 µmol/min/mg protein,
trong khi đó chỉ số hoạt tính enzim GSTs của
quần thể rầy nâu mẫn cảm dao động trong
khoảng 0,18 – 0,21 µmol/min/mg protein. Các
quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long chỉ số hoạt tính enzim GSTs dao
động trong khoảng 2,65 – 3,54 µmol/min/mg
protein, trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 2,65
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2015 ở tỉnh Sóc
Trăng và đạt đỉnh cao nhất 3,54 µmol/min/mg
protein của quần thể rầy nâu thu trong vụ Hè
Thu năm 2017 ở tỉnh Sóc Trăng. Các quần thể
rầy nâu thu ở vùng Duyên hải miền Trung chỉ
số hoạt tính enzim GSTs dao động trong
khoảng 1,94 – 3,08 µmol/min/mg protein, trong
đó chỉ số thấp nhất ở mức 1,94 µmol/min/mg
protein của quần thể rây nâu thu trong vụ Đông
0,00
0,05
0,10
0,15
H
o
ạt
đ
ộ
n
g
en
zi
m
E
ST
s
µ
m
o
le
s/
m
in
/m
g
p
ro
te
in
Hoạt động của esterases
2015-1
2015-2
2016-1
2016-2
2017-1
2017-2
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
22
Xuân năm 2015 ở tỉnh Nghệ An và đạt đỉnh
cao nhất 3,08 µmol/min/mg protein của quần
thể rầy nâu thu trong vụ Hè Thu năm 2017 ở
tỉnh Phú Yên.
Hình 2. Chỉ số hoạt tính GSTs đối với mƣời quần thể rầy nâu từ năm 2015-2017
Các quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Hồng chỉ số hoạt tính enzim GSTs dao
động trong khoảng 1,84 – 2,85 µmol/min/mg
protein, trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 1,84
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2015 ở tỉnh Hưng Yên
và đạt đỉnh cao nhất 2,85 µmol/min/mg protein
của quần thể rầy nâu thu trong vụ Hè Thu năm
2016 ở Hải Phòng.
3.3. Độ hoạt tính của cytochrome P450s
Hình 3. Chỉ số hoạt tính CYPs đối với mƣời quần thể rầy nâu từ năm 2015-2017
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
H
o
ạ
t
tí
n
h
e
n
zi
m
G
ST
s
µ
m
o
le
s/
m
in
/m
g
p
ro
te
in
Hoạt tính của glutathione-S transferases
2015-1
2015-2
2016-1
2016-2
2017-1
2017-2
0,00
0,02
0,04
0,06
H
o
ạ
t
tí
n
h
e
n
zi
m
C
Y
P
s
µ
m
o
le
s/
m
in
/m
g
p
ro
te
in
Hoạt tính của cytochrome P450s
2015-1
2015-2
2016-1
2016-2
2017-1
2017-2
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
23
Kết quả đo độ hoạt tính của cytochrome
P450s của các quần thể rầy nâu được trình bày
trong hình 3 cho thấy, chỉ số hoạt tính enzim
CYPs của quần thể rầy nâu thu tại các vùng
trồng lúa chính ở Việt Nam dao động trong
khoảng 0,023 – 0,042 µmol/min/mg protein, trong
khi đó chỉ số hoạt tính của ezim CYPs của quần
thể rầy mẫn cảm dao động trong khoảng 0,011 –
0,013 µmol/min/mg protein.
Các quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long chỉ số hoạt tính enzim CYPs dao
động trong khoảng 0,031 – 0,042 µmol/min/mg
protein, trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 0,031
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2017 ở tỉnh Sóc Trăng
và đạt đỉnh cao nhất 0,042 µmol/min/mg protein
của quần thể rầy nâu thu trong vụ Hè Thu năm
2017 ở tỉnh Long An. Các quần thể rầy nâu thu
ở vùng Duyên hải miền Trung chỉ số hoạt tính
enzim CYPs dao động trong khoảng 0,026 –
0,041 µmol/min/mg protein, trong đó chỉ số thấp
nhất ở mức 0,026 µmol/min/mg protein của quần
thể rầy nâu thu trong vụ Đông Xuân năm 2017 ở
tỉnh Nghệ An và đạt đỉnh cao nhất 0,041
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Hè Thu năm 2016 ở tỉnh Phú Yên. Các
quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng sông
Hồng chỉ số hoạt tính enzim CYPs dao động
trong khoảng 0,023 – 0,031 µmol/min/mg protein,
trong đó chỉ số thấp nhất ở mức 0,023
µmol/min/mg protein của quần thể rầy nâu thu
trong vụ Đông Xuân năm 2016 ở tỉnh Hưng Yên
và đạt đỉnh cao nhất 0,031 µmol/min/mg protein
của quần thể rầy nâu thu trong vụ Đông Xuân
năm 2016 ở tỉnh Nam Định.
3.3 Mức độ hoạt tính trung bình của các
enzim giữa các vùng trồng lúa chính
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim enzim
ESTs của các quần thể rầy nâu thu thập các
vùng trồng lúa chính được trình bày trong bảng 1
cho thấy, chỉ nàycủa các quần thể rầy nâu thu ở
các vùng trồng lúa chính dao động từ 0,065 đến
0,096 µmol/min/mg protein. Quần thể rầy nâu thu
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số hoạt
tính enzim ESTs cao nhất và dao động ở mức
0,080 µmol/min/mg protein trong năm 2015 đến
0,096 µmol/min/mg protein trong năm 2017, tiếp
đến là quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Hồng có chỉ số hoạt tính enzim ESTs dao
động ở mức 0,074 µmol/min/mg protein trong
năm 2015 đến 0,086 µmol/min/mg protein trong
năm 2017 và cuối cùng là quần thể rầy nâu thu ở
vùng duyên hải miền Trung có chỉ số số hoạt tính
enzim ESTs dao động ở mức 0,065 µmol/min/mg
protein trong năm 2015 đến 0,080 µmol/min/mg
protein trong năm 2017.
Bảng 1. Chỉ số hoạt tính của enzim ESTs của các quần thể rầy thu ở vùng trồng lúa chính
Năm
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim ESTs (µmol/min/mg protein)
của các quần thể rầy nâu
Mẫn cảm
Đồng bằng sông Cửu
Long
Duyên hải miền Trung Đồng bằng sông Hồng
2015 0,012
a
0,080
b
0,065
bc
0,074
c
2016 0,012
a
0,087
b
0,072
c
0,079
bc
2017 0,012
a
0,096
b
0,080
c
0,086
c
Ghi chú: Số liệu tính toán dựa trên số liệu giá trị trung bình từ các quần thể vùng khác nhau,
a,b
Các chữ khác nhau trong cùng một hàng chỉ ra sự sai khác có ý nghĩa (ANOVA) theo phương pháp
Fisher’s LSD (Least Significant Difference) (p=0,05) xử lý bằng phần mền Microsoft Excel.
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim GSTs
của các quần thể rầy nâu thu ở các vùng trồng
lúa chính được trình bày trong bảng 2 cho thấy,
chỉ số này dao động từ 2,20 đến 3,20
µmol/min/mg protein. Quần thể rầy nâu thu ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số hoạt
tính enzim GSTs cao nhất và dao động ở mức
2,83 µmol/min/mg protein trong năm 2015 đến
3,20 µmol/min/mg protein trong năm 2017, tiếp
đến là quần thể rầy nâu thu ở vùng duyên hải
miền Trung có chỉ số hoạt tính enzim GSTs dao
động ở mức 2,52 µmol/min/mg protein trong năm
2015 đến 2,58 µmol/min/mg protein trong năm
2017 và cuối cùng là quần thể rầy nâu thu ở
vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số số hoạt
tính enzim GSTs dao động ở mức 2,20
µmol/min/mg protein trong năm 2015 lên 2,46
µmol/min/mg protein trong năm 2017.
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
24
Bảng 2. Chỉ số hoạt tính của enzim GSTs của các quần thể rầy thu ở vùng trồng lúa chính
Năm
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim GSTs (µmol/min/mg protein)
của các quần thể rầy nâu
Mẫn cảm
Đồng bằng sông Cửu
Long
Duyên hải miền Trung Đồng bằng sông Hồng
2015 0,19
a
2,83
b
2,52
bc
2,20
c
2016 0,19
a
3,12
b
2,72
c
2,42
c
2017 0,20
a
3,20
b
2,58
c
2,46
c
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim CYPs
của quần thể rầy nâu thu ở các vùng trồng lúa
chính được trình trong bảng 3 cho thấy, chỉ só
này dao động từ 0,027 đến 0,042 µmol/min/mg
protein. Quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long có chỉ số hoạt tính enzim CYPs
cao nhất và dao động ở mức 0,037 µmol/min/mg
protein trong năm 2015 đến 0,042 µmol/min/mg
protein trong năm 2017, tiếp đến là quần thể rầy
nâu thu ở vùng duyên hải miền Trung có chỉ số
hoạt tính enzim CYPs dao động ở mức 0,036
µmol/min/mg protein trong năm 2015 đến 0,039
µmol/min/mg protein trong năm 2017 và cuối
cùng là quần thể rầy nâu thu ở vùng đồng bằng
sông Hồng có chỉ số số hoạt tính enzim GSTs
dao động ở mức 0,027 µmol/min/mg protein
trong năm 2015 lên 0,029 µmol/min/mg protein
trong năm 2017.
Bảng 3. Chỉ số hoạt tính của enzim CYPs của các quần thể rầy thu ở vùng trồng lúa chính
Năm
Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim CYPs (µmol/min/mg protein)
của các quần thể rầy nâu
Mẫn cảm
Đồng bằng sông Cửu
Long
Duyên hải miền Trung Đồng bằng sông Hồng
2015 0,009
a
0,037
b
0,036
b
0,027
c
2016 0,009
a
0,039
b
0,038
b
0,028
c
2017 0,008
a
0,042
b
0,039
b
0,029
c
Như vậy, có thể thấy, chỉ số hoạt tính trung bình
các enzim của quần thể rầy thu được ở mỗi vùng
trồng lúa chính đều có xu hướng tăng dần theo thời
gian từ năm 2015 – 2017. Mức độ tăng hoạt tính
của các enzim của các quần thể rầy ở các vùng
khác nhau là khác nhau, trong đó hoạt tính của các
enzim thu được từ các quần thể rầy nâu ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long có sự gia tăng cao hơn
so với chỉ số hoạt tính của các enzim của các quần
thể rầy thu được ở hai vùng còn lại.
4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cho thấy mức độ biểu hiện
hoạt tính của các enzim ESTs, GSTs và CYPs
của các quần thể rầy nâu thu thập tại các vùng
trồng lúa chính ở Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 2015-2017 đều cao hơn so với quần
thể rầy nâu mần cảm.
- Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim ESTs
của các quần thể rầy nâu ở vùng trồng lúa chính
đều cao hơn so quần thể rầy nâu mẫn cảm.
Quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long có chỉ số cao nhất 0,080 – 0,096
µmol/min/mg protein, tiếp đến là quần thể rầy
nâu ở vùng đồng bằng sông Hồng có chỉ số
0,074 – 0,086 µmol/min/mg protein, cuối cùng là
quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền Trung
có chỉ số 0,065 – 0,080 µmol/min/mg protein,
trong khi chỉ số này của quần thể rầy nâu mẫn
cảm là 0,012 µmol/min/mg protein
- Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim GSTs
của các quần thể rầy ở vùng trồng lúa chính đều
cao hơn so quần thể rầy mẫn cảm. Quần thể rầy
nâu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số
cao nhất 2,83 – 3,20 µmol/min/mg protein, tiếp
đến là quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền
Trung có chỉ số 2,52 – 2,58 µmol/min/mg protein,
cuối cùng là quần thể rầy nâu ở vùng đồng bằng
sông Hồng có chỉ số 2,20 – 2,46 µmol/min/mg
protein, trong khi chỉ số này của quần thể rầy nâu
mẫn cảm là 0,19 – 0,20 µmol/min/mg protein.
- Chỉ số hoạt tính trung bình của enzim CYPs
của các quần thể rầy ở vùng trồng lúa chính đều
cao hơn so rầy mẫn cảm. Quần thể rầy nâu ở
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Sè 1/2018
25
vùng đồng bằng sông Cửu Long có chỉ số cao
nhất 0,037 – 0,042 µmol/min/mg protein, tiếp đến
là quần thể rầy nâu ở vùng duyên hải miền Trung
có chỉ số 0,036 – 0,039 µmol/min/mg protein,
cuối cùng là quần thể rầy nâu vùng đồng bằng
sông Hồng có chỉ số 0,027 – 0,029 µmol/min/mg
protein, Chỉ số này của quần thể rầy nâu mẫn
cảm là 0,008 – 0,009 µmol/min/mg protein.
Hoạt tính của các enzim ESTs, GSTs và
CYPs cho thấy các quần thể rầy ở các vùng
trồng lúa chính có khả năng kháng nhiều loại
thuốc trừ sâu thuộc nhóm phốt-pho hữu cơ,
carbamate, pyrethroid và neonicotinoid.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bottrell DG và Schoenly KG, 2012.
Resurrecting the ghost of green revolutions past: The
brown planthopper as a recurring threat to high-
yielding rice production in Tropical Asia. Journal of
Asia-pecific Entomology, 15: 122-140.
2. Matsumura M., Takeuchi H., Satoh M.,
Morimura SS., Otuka A., Watanabe T., D V. Thanh,
2008. Species-specific insecticide resistance to
immidachloprid and fipronil in the rice planthoppers in
East and South-East Asia. Pest Management Science
64: 1115-1121.
3. Lê Thị Kim Oanh, Tào Minh Tuấn, Nguyễn Thế
Anh, Hà Minh Thành (2008). Nghiên cứu tính kháng
thuốc của rầy nâu Nilaparvata lugens Stal. ở một số
tỉnh ở đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Bắc bộ.
Tạp chí BVTV. Số 3, trang 12-18.
4. Feyereisen R, 1995. Molecular biology of
insecticide resistance. Toxicology Letters, 82/83, 83 – 90.
5. Soderluch D M và Knipple D C, 2003. The
molecular biology of knockdown resistance to
pyrethroid insecticides. Insect Biochemistry and
Molecular Biology, 9: 563 – 577.
6. Oakeshott J G., Johnson R M., Berenbaum M
R., Ranson H., Cristino A S, 2010. Metabolic enzymes
associated with xenobiotic and chemosensory
responses in Nasonia vitripennis. Insect Molecular
Biology. 19:147 – 163.
7. Small J G., và Hemmingway J, 2000. Molecular
characterization of the amplified carboxylesterase
gene associated with organophosphorus insecticide
resistance in the brown planhopper. Insect Molecular
Biology. 9: 647 – 653.
8. Che-Mendoza A., Penilla R P., Rodriguez D A,
2009. Insecticide resistance and glutathione S-
transferases in mosquiptoes: a review. Africa Journal
of Biotechnology, 8: 1386 – 1397.
9. Liu Z W., Williamson M S., Lansdell S J.,
Denholm I., Han Z J., Millar N S, 2005. A nicotinic
acetylcholine receptor mutation conferring target-site
resistance to immidacloprid in brown planthopper.
Proceeding of the national academy of sciences of
USA, 102: 8420-8425.
10. Malathi, V.M., S.K. Jalali, D.K. Sidde Gowda,
M. Mohan and T. Venkatesan, 2015. Establishing the
role of detoxifying enzymes in field-evolved resistance
to various insecticides in the brown planthopper,
(Nilaparvata lugens) in South India. Insect Sci.
doi:10.1111/1744-7917.12254.
Phản biện: TS. Nguyễn Thị Nhung
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ỨC CHẾ CỦA NẤM Trichoderma asperellum ĐỐI VỚI
NẤM Fusarium oxysporum f. sp. cubense GÂY BỆNH HÉO VÀNG CHUỐI
Assessment of Inhibited Capacity of Trichoderma asperellum
Against Fusarium oxysporum f. sp. cubense Caused Fusarium Wilt of Banana
Nguyễn Đức Huy
1*
và Đỗ Thị Vĩnh Hằng
2
Ngày nhận bài: 02.01.2018 Ngày chấp nhận: 31.01.2018
Abstract
Fusarium wilt, also known as Panama disease, is one of the most destructive of banana. In this study, six
samples showing Fusarium wilt like symptoms were
collected from banana field in five different districts of
Hanoi. The pathogen was isolated and characterzied
using PDA, K2 modified and boiled rice. The results
1. Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2. Học viên cao học, Khoa Nông học, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bieu_hien_cac_enzym_giai_doc_esterase_glutathione_s_transfer.pdf