Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đánh giá tổng quan về
biểu hiện hoạt động động đất kích thích tại một số hồ thủy
điện ở Việt Nam trong thời gian qua cho phép rút ra một số
nhận định sau:
1. Động đất kích thích có cấp độ mạnh trung bình trở
lên (M ≥ 4,0) đã xảy ra tại các hồ thủy điện Hòa Bình,
Sông Tranh 2 và Sơn La, nơi có độ sâu lớn nhất của đáy
hồ trên 100 m. Cấu trúc địa chất khu vực lòng hồ là các
đá biến chất (bao gồm các gneis, metagabro, metadiorit,
metagranodiorit, metaplagiogranit), đá granit hoặc đá vôi
đặc xít bị cà nát, dập vỡ mạnh. Khi hồ được tích nước, hiện
tượng thẩm thấu vào các đới cà nát dập vỡ kiến tạo gây nên
bởi áp lực của cột nước đã làm thay đổi trạng thái ứng suất
theo chiều hướng kích thích động đất xuất hiện sớm hơn.
2. Động đất kích thích các hồ Hòa Bình, Sông Tranh 2
và Sơn La là loại phản ứng nhanh, có nghĩa là chúng xảy ra
ngay sau khi quá trình tích nước hồ chứa được tiến hành.
Sự thăng giáng độ cao mực nước hồ có liên quan tới tần
suất xuất hiện động đất. Khoảng thời gian từ biến động mực
nước với xuất hiện các chuỗi động đất có biểu hiện khác
nhau tại hồ Sông Tranh 2 và Sơn La, tương ứng là 10-12
tháng và 2-3 tháng.
3. Động đất kích thích hồ Hòa Bình, Sông Tranh 2 và
Sơn La chỉ xuất hiện tại nơi có tỷ số Vp/Vs thấp, biến động
trong giới hạn 1,63-1,69, trùng với đới dập vỡ, ngậm nước
của đá gneis, granit hoặc đá vôi đặc xít. Dựa vào phân bố tỷ
số Vp/Vs ta có thể khoanh vùng được khu vực có nguy cơ
xảy ra động đất kích thích hồ chứa.
4. Động đất kích thích lớn nhất đã quan sát được tại hồ
Hòa Bình có M = 4,9. Đây cũng là giá trị động đất kích
thích cực đại được dự báo. Điều này có nghĩa là hoạt động
động đất kích thích tại hồ Hòa Bình đã đạt giá trị tối đa. Từ
sau 1996 đến nay không quan sát thấy động đất kích thích
hồ Hòa Bình, cho nên có thể nói rằng tại hồ này không còn
động đất kích thích nữa mà chỉ có động đất tự nhiên mà thôi.
5. Hồ thủy điện Sông Tranh 2 tuy động đất kích thích
vẫn còn hoạt động một thời gian nữa song sẽ có cấp độ
mạnh nhỏ hơn 4,7. Động đất kích thích hồ Sơn La còn tiếp
diễn trong thời gian tới và với cấp độ mạnh có thể lớn hơn
4,3, đạt tối đa là 5,0.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 902 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu hiện hoạt động động đất kích thích tại một số hồ thủy điện ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2560(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Mở đầu
Những trận động đất xảy ra liên quan với các hoạt động của
con người được gọi là động đất kích thích. Một số hoạt động
phổ biến dẫn đến kích thích động đất xảy ra là: Các vụ nổ lớn
xảy ra trong lòng đất, sự tích nước tại các đập cao như đập chứa
nước thuỷ lợi hay thuỷ điện, sự bơm chất lỏng vào đất đá ở dưới
sâu, sự rút tháo nước từ các thành tạo chứa nước gần mặt đất
hoặc trên mặt, khai thác hầm lò trong các mỏ. Các nhà địa chấn
thế giới đã phân loại động đất kích thích liên quan đến hồ chứa
thành hai nhóm [1-3]: Loại phản ứng nhanh, xảy ra ngay sau
khi hồ chứa được tích nước và loại phản ứng chậm, xảy ra sau
một số năm khi hồ bắt đầu được tích nước. Trong các trường
hợp đã biết về động đất kích thích (chỉ tính M ≥ 4,0) có thể chia
thành ba nhóm sau [3]: Động đất có cấp độ mạnh, M ≥ 6,0 (4
trường hợp); Động đất có cấp độ mạnh, M từ 5,0 đến 5,9 (10
trường hợp); và Động đất có cấp độ mạnh, M từ 4,0 đến 4,9 (27
trường hợp, trong đó có Hòa Bình, Sông Tranh 2 và Sơn La của
Việt Nam, bảng 1).
Biểu hiện hoạt động động đất kích thích
tại một số hồ thủy điện ở Việt Nam
Cao Đình Trọng1, Thái Anh Tuấn1, Cao Đình Triều2*, Lê Văn Dũng1, Nguyễn Đắc Cường1
1Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
2Viện Địa vật lý ứng dụng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam
Ngày nhận bài 5/2/2018; ngày chuyển phản biện 9/2/2018; ngày nhận phản biện 14/3/2018; ngày chấp nhận đăng 26/3/2018
Tóm tắt:
Trong khuôn khổ bài báo này, các tác giả tiến hành nghiên cứu đặc trưng hoạt động động đất kích thích tại một số hồ thủy
điện ở Việt Nam. Kết quả cho thấy:
- Tại khu vực thủy điện Hòa Bình, Sông Tranh 2 và Sơn La đã xuất hiện động đất kích thích có M > 4,0. Các công
trình thủy điện này đều có độ sâu lớn nhất của đáy hồ trên 100 m và cấu trúc địa chất là đá gneis, granit hay đá vôi.
- Động đất kích thích hồ thủy điện Hòa Bình, Sông Tranh 2 và Sơn La là loại phản ứng nhanh. Sự thăng giáng độ
cao mực nước hồ có liên quan tới tần suất xuất hiện động đất.
- Có thể sử dụng tỷ số Vp/Vs như một đại lượng chủ yếu trong khoanh vùng dự báo nguồn phát sinh động đất kích
thích. Nguồn phát sinh động đất tự nhiên liên thông với hồ và có Vp/Vs = 1,63-1,69 là nơi có nguy cơ phát sinh động
đất cao nhất.
- Hồ thủy điện Hòa Bình không còn có khả năng xuất hiện động đất kích thích. Động đất kích thích thủy điện Sông
Tranh 2 tuy vẫn còn hoạt động song sẽ có cấp độ mạnh nhỏ hơn 4,7. Động đất kích thích hồ Sơn La còn tiếp diễn
trong thời gian tới và với cấp độ mạnh có thể lớn hơn 4,3, đạt tối đa là 5,0.
Từ khóa: Động đất kích thích, hồ thủy điện, Việt Nam.
Chỉ số phân loại: 1.5
*Tác giả liên hệ: Email: cdtrieu@gmail.com
TT Nội dung Đơn vị HòaBình Sông Tranh 2 Sơn La
1 Trên sông Sông Đà Sông Tranh Sông Đà
2 Tọa độ
105°19’26.00”E
20°48’02.9“N
108°08’52”E
15°19’53”N
103°59’42.00”E
21°29’47.00”N
3 Diện tích lưu vực km2 51.700 1.100 43.760
4 Mực nước dâng trung bình m 117 175 215
5 Dung tích toàn bộ 109m3 4,871 0,740 9,260
6 Đập dâng Đất đá hỗn hợp Bê tông đầm lăn Bê tông đầm lăn
7 Cao trình đỉnh đập m 123 170 228,1
8 Chiều cao đập lớn nhất m 128 96 137
9 Chiều dài đỉnh đập m 734 640 1.000
10 Công suất lắp máy MW 1.920 190 2.400
11 Số tổ máy Tổ máy 6 2 6
12 Năm tích nước đến cao trình tối đa 1988 2010 2011
13
Động đất kích thích lớn nhất đã quan
sát thấy
4,9 (năm 1989) 4,7 (năm 2012) 4,3 (năm 2014)
Bảng 1. Các công trình thủy điện ở Việt Nam đã quan sát được
hiện tượng động đất kích thích hồ chứa có cấp độ mạnh trên
4,0.
2660(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Động đất kích thích không xảy ra ở mọi vùng hồ. Nó chỉ
xảy ra ở những vùng hồ có điều kiện địa chất, kiến tạo thuận lợi:
Là vùng hoạt động, ứng suất kiến tạo trong đá đã đạt đến giới
hạn, tồn tại các đứt gãy đủ lớn liên quan với hồ về mặt thuỷ văn.
Trong điều kiện ứng suất đã đạt tới hạn thì ứng suất gia tăng gây
nên bởi cột nước trong hồ tuy rất nhỏ nhưng có thể đóng vai trò
cơ cấu thúc đẩy. Còn nước thấm sâu theo khe nứt và đứt gãy
làm thay đổi áp suất lỗ rỗng, giảm ma sát mặt trượt, thúc đẩy
quá trình xảy ra động đất [1-3].
Động đất kích thích cũng đã xuất hiện tại một số hồ thủy
điện ở Việt Nam, trong đó đáng lưu ý nhất là: Hòa Bình, Sông
Tranh 2 và Sơn La:
- Ngày 23/5/1989 một trận động đất có độ lớn M = 4,9 đã
xảy ra tại khu vực Hoà Bình. Động đất này được Nguyễn Đình
Xuyên và đồng nghiệp cho là động đất kích thích. Nó xảy ra
sau khi hồ thủy điện Hòa Bình được tích nước đến cao trình
tối đa [4].
- Sau khi hồ thủy điện Sông Tranh 2 tích nước không lâu
thì bắt đầu xuất hiện động đất. Từ đó đến nay đã quan sát được
trên 2.500 động đất có M ≥ 0,7, lớn nhất là M = 4,7 xảy ra vào
ngày 15/11/2012 [5-7].
- Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước mã số
ĐTĐL.2009T/09 khẳng định rằng động đất xuất hiện tại vùng
hồ Sơn La sau khi tích nước là động đất kích thích [8, 9].
Trong khuôn khổ bài báo này, các tác giả tiến hành nghiên
cứu đặc điểm động đất tại các hồ Hòa Bình, Sông Tranh 2 và
Sơn La, nơi đã xảy ra các động đất kích thích có cấp độ mạnh
lớn hơn 4,0.
Động đất kích thích có cấp độ mạnh M > 4,0 đã xảy ra tại hồ
thủy điện Sông Đà, Sông Tranh 2 và Sơn La
Động đất kích thích hồ thủy điện Hòa Bình đã liên tiếp
xảy ra trong thời kỳ 1989-1991
Tháng 5/1988 hồ thuỷ điện Hoà Bình bắt đầu tích nước. Mực
nước lúc đầu tăng từ từ, sau đó tăng nhanh vào đầu mùa mưa,
tháng 7 và tháng 8. Tháng 12/1988, khi mực nước lòng hồ đạt
đến độ cao trên 80 m, quan sát thấy một số trận động đất yếu (M
< 2,0) xuất hiện ở khu vực gần đập. Từ tháng 1/1989 đến tháng
4/1989, nhiều trận động đất có M = 2,4-2,8 ghi nhận được ở khu
vực quanh đập. Đặc biệt, chỉ trong ngày 14/4/1989 có đến 7 trận
động đất xuất hiện, trong đó có 2 trận động đất có M = 3,8 và 3,7
với độ sâu chấn tiêu 5 km. Sau một khoảng thời gian yên lặng,
đến ngày 23/5/1989 một trận động đất có cấp độ mạnh (M = 4,9)
đã xảy ra, gây chấn động khu vực Hoà Bình đến cấp 7 (thang
MSK-64). Sau đó liên tục xuất hiện các động đất yếu hơn. Đến
ngày 27/5/1989 lại xuất hiện một động đất có M = 4,0 gây chấn
động cấp 5 đến cấp 6 tại khu vực thị xã Hoà Bình. Các chấn động
còn xảy ra trong một thời gian dài nhưng rất nhỏ, chỉ cảm nhận
được bằng máy [4] (hình 1).
Expression of triggered earthquakes
at some hydropower plant reservoirs
in Vietnam
Dinh Trong Cao1, Anh Tuan Thai1,
Dinh Trieu Cao2*, Van Dung Le1, Dac Cuong Nguyen1
1Institute of Geophysics, VAST
2Institute of Applied Geophysics, VUSTA
Received 5 February 2018; accepted 26 March 2018
Abstract:
In this paper, the authors present the expression of triggered
earthquakes at some hydropower plant reservoirs in
Vietnam. The research results indicated that:
- The triggered earthquakes with M > 4.0 have occurred
at the Hoa Binh, Song Tranh 2 and Son La hydropower
plant reservoirs. These reservoirs all have more than
100 m depth and locate on gneiss, granite or limestone
rock backgrounds.
- Triggered earthquakes at the Hoa Binh, Song Tranh 2
and Son La hydropower plant reservoirs are the rapid
ones. The earthquake frequency has close ties with the
water level change.
- Vp/Vs ratio can be used as the main factor determining
the triggered earthquake source. The natural earthquake
sources linking with the reservoir and having the Vp/
Vs ratio of 1.63-1.69 have the highest risk of triggered
earthquake occurrence.
- There is no risk of triggered earthquake occurrence at
Hoa Binh hydropower plant’s reservoirany. Triggered
earthquakes in the Song Tranh 2 reservoir continue
occurring with the magnitude of smaller than 4.7. In
the Son La reservoir, triggered earthquakes continue
occurring in the coming time with the magnitude of
more than 4.3 and may reach a maximum of 5.0.
Keywords: Hydropower plant reservoir, triggered
earthquake, Vietnam.
Classification number: 1.5
2760(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Động đất M = 4,9 ngày 23/5/1989 tại Hoà Bình có các đặc
điểm của động đất kích thích hồ chứa. Động đất xảy ra sau khi
hồ chứa tích nước được một khoảng thời gian không lâu (8 tháng
sau khi tích nước), độ sâu chấn tiêu không lớn (khoảng 5 km),
trước khi chấn động chính xảy ra có xuất hiện tiền chấn và cấp
độ mạnh của dư chấn xấp xỉ chấn động chính. Sự suy giảm
hoạt động địa chấn từ từ và thường có biểu hiện cao vào những
thời kỳ sau khi mực nước hồ tăng lên nhanh một cách đột ngột.
Mmax = 4,9 cũng là cấp độ mạnh lớn nhất của động đất kích
thích hồ Hòa Bình đã xảy ra.
Động đất kích thích hồ Hòa Bình có hàm phân bố
Gutenber-Richter như sau [9]:
M
T
MN
2474,1688,4
)(
log −=
(1)
Hình 1. Phân bố chấn tâm động đất kích thích hồ thủy điện Hòa
Bình và Sơn La. 1/ Đập thủy điện; 2/ Vùng hồ; 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,
10 - Chấn tâm động đất và cấp độ mạnh tương ứng (M = 1,0-1,4;
M = 1,5-1,9; M = 2,0-2,4; M = 2,5-2,9; M = 3,0-3,4; M = 3,5-
3,9; M = 4,0-4,4; M = 4,5-4,9); 11/ Phân đoạn nguồn có nguy cơ
phát sinh động đất kích thích.
Động đất kích thích đã xảy ra tại hồ thủy điện Sông Tranh 2
Sau khi hồ Sông Tranh 2 được tích nước đến cao trình
160 m vào tháng 10/2010 và nhà máy đi vào hoạt động thi
bắt đầu xuất hiện động đất. Từ đầu năm 2011 người dân
huyện Bắc Trà My bắt đầu nghe thấy những tiếng nổ trong
lòng đất. Hiện tượng này gia tăng trong tháng 11/2011. Cấp
độ mạnh tối đa của động đất quan sát được trong đợt đầu
tiên sau khi tích nước là 3,4. Từ cuối tháng 8/2012 lại xuất
hiện một đợt động đất, song đáng chú ý nhất là động đất M
= 4,6 xảy ra vào ngày 22/10/2012 và động đất M = 4,7 xảy
ra vào ngày 15/11/2012.
Biểu hiện hoạt động động đất hồ thủy điện Sông Tranh
2 khá phức tạp (hình 2), Động đất xuất hiện liên tục ngay
từ sau khi tích nước cho đến nay mà chưa có dấu hiệu giảm
dần cường độ xuất hiện (2.637 động đất đã xảy ra từ tháng
11/2011 đến tháng 12/2015 với M ≥ 0,5 và độ sâu chấn tiêu
không vượt quá 10 km). Có 10 trạm địa chấn được thiết lập
từ năm 2012 chỉ phục vụ riêng cho nghiên cứu động đất
Sông Tranh 2. Các trạm này có thể phải tiếp tục hoạt động
cho đến khi không còn xuất hiện động đất kích thích.
Theo Cao Đình Triều [5] thì chu kỳ lặp lại của động đất
M = 4,7 tại Sông Tranh 2 là 17 tháng. Từ tháng 11/2012 đến
tháng 5/2016 là đã 42 tháng mà không có động đất M = 4,7
xảy ra tại đây. Do đó, động đất M = 4,7 được coi là giá trị
độ lớn cực đại của động đất kích thích hồ thủy điện Sông
Tranh 2.
Hình 2. Nguồn phát sinh động đất khu vực thủy điện Sông Tranh 2.
Động đất kích thích hồ Sông Tranh 2 có dạng phân bố
hàm Gutenberg-Richter như sau [5]:
M
T
MN
Log 8317,0838,3
)(
−=
(2)
Động đất kích thích hồ thủy điện Sơn La
Nghiên cứu động đất kích thích hồ thủy điện Sơn La
được tiến hành thông qua đề tài độc lập cấp nhà nước mã
số ĐTĐL.2009T/09 giai đoạn 2009-2011 [8]. Một hệ thống
2860(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
trạm quan trắc động đất tạm thời (gồm 6 trạm) được lắp đặt
vào đầu năm 2009, hoạt động đến hết năm 2011 nhằm giám
sát hoạt động động đất hồ chứa trong giai đoạn đầu tích
nước. Trong thời gian này đã quan sát được khoảng 400 trận
động đất có M = 1,0-3,0 và với độ sâu chấn tiêu nhỏ hơn 10
km. Các động đất này chủ yếu tập trung tại khu vực ngập
nước của đứt gãy Mường La - Bắc Yên và đứt gãy Sông Đà.
Rất đáng tiếc là đề tài ĐTĐL.2009T/09 kết thúc vào cuối
tháng 12/2011 và 6 trạm địa chấn tạm thời cũng được dỡ
ngay sau đó (tháng 4/2012) nên quan trắc động đất chi tiết
bị gián đoạn từ đó đến nay. Tuy vậy, trong phạm vi hồ thủy
điện Sơn La còn tồn tại 3 trạm địa chấn cấp quốc gia nên
các động đất có M = 1,0 xảy ra trong lòng hồ cũng có thể
ghi nhận được. Động đất lớn nhất tại lòng hồ thủy điện Sơn
La có cấp độ mạnh 4,3 được ghi nhận vào ngày 19/7/2014.
Hàm phân bố Gutenberg-Richter động đất kích thích
vùng hồ thủy điện Sơn La như sau [9]:
1. Cụm động đất kích thích từ hạ du Huội Quảng đến hạ
du Sơn La:
M
T
MN
2008,16603,3
)(
log −= (3)
2. Cụm động đất từ cầu Pá Uôn đến đập Sơn La:
M
T
MN
0716,19917,2
)(
log −= (4)
Đặc điểm cấu trúc địa chất tại các khu vực xảy ra động đất
kích thích
Đặc điểm địa chất vùng hồ thủy điện Hòa Bình và Sơn
La
Động đất kích thích hồ thủy điện Hòa Bình và Sơn La
chủ yếu tập trung tại các đới đứt gãy sâu liên thông với
hồ. Đá vôi hệ tầng Đồng Giao (T
2
a dg) bị cà nát, dập vỡ
mạnh, tích nước do hiện tượng thẩm thấu gây nên bởi áp lực
của cột nước đã làm thay đổi trạng thái ứng suất theo chiều
hướng kích thích động đất xuất hiện sớm hơn (ảnh 1). Phần
dưới mặt cắt đá vôi hệ tầng Đồng Giao chủ yếu có cấu trúc
dạng dải, hạt mịn, chặt xít, dạng men sứ hoặc đường kính,
vết vỡ vỏ trai, thường sáng màu (trắng, vàng nhạt, hồng,
xám phớt lam và xám sáng). Có cả đá vôi bitum đen và đá
vôi silic sáng màu. Phần giữa mặt cắt của hệ tầng chủ yếu là
đá vôi dạng khối [9].
Đặc điểm địa chất vùng hồ thủy điện Sông Tranh 2
Vùng lòng hồ và dưới nền đập thủy điện Sông Tranh
2 phân bố nhiều loại đá biến chất bao gồm các gneis,
metagabro, metadiorit, metagranodiorit, metaplagiogranit
của phức hệ xáo trộn kiến tạo Khâm Đức - Núi Vú (ảnh 2).
Chúng bị biến chất nhiệt độ cao dẫn đến nóng chảy tạo ra
granit migmatit phức hệ Chu Lai vào Ordovic (khoảng 450
triệu năm). Đá gneis hạt nhỏ và đều, phân phiến (foliation)
dạng dải đặc trưng, bị nứt nẻ, dập vỡ mạnh do chịu tác động
của các pha hoạt động kiến tạo về sau. Có một khối granit
phức hệ Chu Lai khá rộng nằm trong lòng hồ. Phía thượng
lưu lòng hồ cũng quan sát thấy phân bố của đá hoa theo
dạng dải.
Mối liên quan giữa thăng giáng mực nước hồ và hoạt động
động đất kích thích
Mối liên quan chặt chẽ giữa biến động độ cao mực
nước hồ thủy điện Sông Tranh 2 và tần suất xuất hiện
động đất kích thích hồ chứa
Về quan hệ giữa biến động độ cao mực nước hồ thủy
điện với tần suất hoạt động động đất kích thích được đề cập
chi tiết trong [5] và cho thấy (hình 3):
Ảnh 1. Đá vôi hệ tầng Đồng Giao phát triển phổ biến tại khu
vực lòng hồ thủy điện Hòa Bình và Sơn La.
Ảnh 2. Đá gneis hệ tầng Khâm Đức - Núi Vú phát triển phổ
biến tại khu vực lòng hồ thủy điện Sông Tranh 2
2960(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
- Tháng 10/2010, khi mực nước hồ nâng lên cao trình
160 m thì sau đó 10 tháng (tháng 8/2011) xuất hiện chuỗi
động đất đầu tiên, kéo dài trong 4 tháng và với động đất M
= 4,2 là lớn nhất.
- Trong tháng 10/2011 mực nước hồ tăng lên cao trình
175 m thì đến tháng 10/2012 (sau 12 tháng) chuỗi động đất
thứ 2 xuất hiện và động đất lớn nhất, M = 4,7 xảy ra vào
ngày 15/11/2012.
Sự thăng giáng độ cao mực nước với xuất hiện các chuỗi
động đất vẫn còn được phát hiện cho đến hiện tại, song do
biến động độ cao không lớn nên độ lớn động đất có vẻ như
không thay đổi nhiều [7].
Thay đổi độ cao mực nước hồ thủy điện Sơn La và tần
suất xuất hiện động đất kích thích hồ chứa
Việc tích nước hồ thủy điện Sơn La được chia thành
2 giai đoạn. Bắt đầu tích nước hồ vào tháng 5/2010, cao
trình mực nước hồ từ 125,27 m lên đến 183,6 m vào tháng
10/2010 và giữ ở mức 190 m cho đến tháng 5/2011. Tích
nước lần 2 được tiến hành vào mùa lũ năm 2011 đạt tới mức
215 m từ tháng 6/2011, sau đó duy trì liên tục ở mức này
trong các năm sau [8]. Sau khi tích nước, động đất nhỏ đã
xảy ra và cũng đã xuất hiện một vài động đất có M = 2,2-
2,3. Ngay sau mỗi đợt tích nước trong khoảng 2 tháng tần
suất xuất hiện động đất cũng tăng hơn nhiều so với trước và
sau đó (xem hình 4).
Mô hình vận tốc sóng địa chấn (Vp), tỷ số vận tốc Vp/Vs tại
các vùng nguồn phát sinh động đất kích thích
Phần mềm LOTOS [10, 11] được sử dụng trong tính
toán với lưới chia 1x1 km và độ sâu thay đổi từ 1 đến 10 km
(cách nhau 1 km) được sử dụng trong nghiên cứu cắt lớp
sóng địa chấn vùng hồ Sông Tranh 2 [10] và Sơn La [11].
Dừng ở độ sâu nghiên cứu tối đa 10 km vì động đất kích
thích hồ chứa chủ yếu có độ sâu nhỏ hơn 10 km [5-11]. Giá
trị vân tốc sóng P (Vp), sóng S (Vs), tỷ số Vp/Vs được tính
toán. Đặc biệt là tỷ số Vp/Vs, phản ánh trực tiếp sự thay đổi
môi trường của đới dập vỡ kiến tạo trước và sau khi thấm
nước, là nguyên nhân gây nên động đất kích thích.
Luận giải kết quả nghiên cứu cắt lớp sóng địa chấn tại
vùng hồ Sông Tranh 2 (ví dụ về Vp/Vs tại hình 5) và vùng
đập thủy điện Sơn La (ví dụ về Vp/Vs tại hình 6) được xác
định theo tài liệu động đất kích thích cho thấy [10, 11]:
a. Về cơ bản, vận tốc sóng P vẫn tuân thủ theo quy luật
tăng dần theo độ sâu. Tại độ sâu 1 km Vp biến đổi trong giới
hạn từ 5,42 đến 5,74 km/s. Trong khi đó, tại độ sâu 7 km giá
trị Vp nằm trong khoảng 5,74-5,94 km/s. Cấu trúc dị thường
vận tốc Vp cao, lớn hơn 5,6 km/s tại độ sâu 3 km và lớn hơn
5,64 km/s tại độ sâu 7 km, trùng với khu vực tập trung chấn
tiêu động đất kích thích.
Hình 3. Quan hệ giữa độ cao mực nước hồ (trục thẳng đứng, đơn
vị tính theo m) và biểu hiện hoạt động động đất (trục nằm ngang)
hồ thủy điện Sông Tranh 2 từ năm 2010 đến 2015 [5, 7].
Hình 4. Đồ thị biểu diễn hoạt động động đất tại vùng đập
thủy điện Sơn La theo thời gian từ 6/2009 đến 4/2012. Hai
thời điểm tích nước hồ: 5/2010 và 5/2011. Sau mỗi lần tích
nước tần suất động đất tăng [8].
Hình 5. Tỷ số Vp/Vs tại khu vực Sông Tranh 2 [10].
3060(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
b. Tỷ số vận tốc sóng địa chấn Vp/Vs vùng đập thủy điện
Sông Tranh 2 và Sơn La có giá trị biến động trong giới hạn
từ 1,64 đến 1,74. Tỷ số Vp/Vs không có biểu hiện biến đổi
theo độ sâu. Điều này chứng tỏ hệ số tăng dần của Vp và Vs
theo độ sâu là tương đồng.
c. Đối sánh phân bố tỷ số Vp/Vs với phân bố chấn tâm
động đất kích thích vùng đập thủy điện Sông Tranh 2 và Sơn
La cho thấy (hình 5, 6):
- Thẩm thấu nước vào đới khe nứt dập vỡ làm thay đổi
trạng thái ứng suất lỗ rỗng, tạo hiệu ứng xuất hiện động đất
kích thích. Thông thường, đối với môi trường đồng nhất vật
chất (nguyên khối) tỷ số Vp/Vs xấp xỉ 1,74. Đới cà nát, dập
vỡ kiến tạo (nơi vật chất không còn nguyên khối, đồng nhất)
giá trị Vp/Vs giảm, thường chỉ nằm trong giới hạn từ 1,70
đến 1,72 [1-3].
- Thực tế nghiên cứu môi trường phát sinh động đất
Sông Tranh 2 cho thấy động đất kích thích chỉ xuất hiện tại
nơi có tỷ số Vp/Vs thấp, biến động trong giới hạn 1,63-1,67
(hình 5) [10], trùng với đới dập vỡ, ngậm nước của đá gneis
phức hệ Khâm Đức - Núi Vú.
- Trong khi đó, động đất kích thích hồ Sơn La xuất hiện
nơi có Vp/Vs = 1,67-1,69. Đáy hồ Sơn La được xác định
tồn tại đá vôi hệ tầng Đồng Giao [11]. Dựa vào phân bố
tỷ số Vp/Vs, các tác giả đã khoanh vùng được khu vực có
nguy cơ xảy ra động đất kích thích vùng đập Sơn La (hình
6). Động đất kích thích cấp độ mạnh 4,0 đã xảy ra vào ngày
20/8/2014 tại khu vực được dự báo. Nếu kết quả dự báo
trong [11] là chính xác thì đây chưa phải là động đất kích
thích lớn nhất (lớn nhất được dự báo là có cấp độ mạnh
5,0-5,1).
Về khả năng dự báo động đất kích thích cực đại
Nhằm dự báo độ lớn cực đại động đất kích thích (Mmax.
kt), chúng tôi sử dụng quan hệ giữa đại lượng Mmax và hệ
số b đồ thị lặp lại động đất (hay còn gọi là độ dốc đồ thị lặp
lại hoặc là hệ số b của hàm Gutenber-Richter) tự nhiên và
động đất kích thích. Theo [9]:
b
tn
x Mmax.tn = b
kt
x Mmax.kt (5)
Trong đó: b
tn
là hệ số b hàm Gutenber-Richter của động
đất tự nhiên; b
kt
là hệ số b hàm Gutenber-Richter của động
đất kích thích; Mmax.tn là giá trị độ lớn cực đại của động
đất tự nhiên xảy ra tại nguồn được xác định và Mmax.kt là
độ lớn cực đại của động đất kích thích có nguy cơ xảy ra tại
vùng nguồn đó nếu liên thông với hồ chứa nước và đáp ứng
điều kiện phát sinh động đất kích thích.
Quy trình xác định nguồn và nguy cơ xuất hiện động đất
kích thích có độ lớn cực đại tại các hồ thủy điện Hòa Bình,
Sông Tranh 2 và Sơn La được tiến hành như sau [9]:
Bước 1 - Xác định nguồn động đất kích thích: Trên cơ sở
nguồn phát sinh và giá trị độ lớn cực đại động đất tự nhiên ta
xác định được đoạn nguồn động đất liên thông với hồ thủy
điện sau khi tích nước. Các động đất xuất hiện trong đoạn
nguồn được phân định sau khi hồ chứa tích nước đáp ứng
đầy đủ điều kiện là động đất kích thích thì đoạn nguồn đó
được xác nhận là đoạn nguồn động đất kích thích.
Bước 2 - Dự báo giá trị độ lớn cực đại động đất kích trên
cơ sở công thức (5) và với các thông số:
- Xác định hệ số b
tn
hàm phân bố Gutenber-Richter động
đất tự nhiên khu vực hồ thủy điện cần nghiên cứu và lân
cận. Kết quả chó thấy: Đối với thủy điện Sông Tranh 2, b
tn
=
0,6041 [5]; tại bậc thang thủy điện Sông Đà (bao gồm thủy
điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Bản Chát và Huổi Quảng
- hình 4) b
tn
= 0,935) [9].
- Giá trị hệ số b
kt
động đất kích thích hồ Hòa Bình là b
kt
=
1,2474 (1). Đối với hồ thủy điện Sông Tranh 2 b
kt
= 0,8317
Hình 6. Tỷ số Vp/Vs và sơ đồ dự báo vùng có nguy cơ xảy ra
động đất kích thích khu vực Sơn La [11]: 1 - Đứt gãy; 2 - Đập
thủy điện; 3 - Vị trí chấn tâm động đất; 4 - Vùng hồ; 5 - Sông
suối; 6 - Tỷ số Vp/Vs; 7 - Vùng nguồn có nguy cơ xảy ra động đất
tự nhiên; 8 - Vùng nguồn có nguy cơ xảy ra động đất kích thích;
9 - Mmax động đất kích thích có khả năng xảy ra (5,1), Mmax động
đất tự nhiên có khả năng xảy ra (6,5), M động đất kích thích đã
xảy ra (4,0).
3160(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
(2). Trong khi đó, tại hồ Sơn La có 2 đoạn nguồn (hình 1),
với công thức (3) và công thức (4): Từ hạ du Huổi Quảng
đến hạ du Sơn La, b
kt
= 1,2008; và từ cầu Pa Uôn đến đập
Sơn La. b
kt
= 1,0716.
- Động đất tự nhiên cực đại (Mmax.tn) tại nguồn phát
sinh động đất kích thích trên cơ sở phân đoạn đứt gãy [12].
Kết quả cho thấy: Tại Hòa Bình Mmax.tn = 6,5; tại Sông
Tranh 2, Mmax.tn = 6,1; từ hạ du Huổi Quảng đến hạ du
Sơn La (hồ Sơn La), Mmax.tn = 6,5; và từ cầu Pa Uôn đến
đập Sơn La (hồ Sơn La), Mmax.tn = 6,7.
- Động đất kích thích cực đại (Mmax.kt) có nguy cơ
xảy ra tại các hồ: Hòa Bình, Mmax.kt = 4,9; Sông Tranh 2,
Mmax.kt = 4,7; từ hạ du Huổi Quảng đến hạ du Sơn La (hồ
Sơn La), Mmax.kt = 4,9; và từ cầu Pa Uôn đến đập Sơn La
(hồ Sơn La), Mmax.kt = 5,0.
Kết luận
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đánh giá tổng quan về
biểu hiện hoạt động động đất kích thích tại một số hồ thủy
điện ở Việt Nam trong thời gian qua cho phép rút ra một số
nhận định sau:
1. Động đất kích thích có cấp độ mạnh trung bình trở
lên (M ≥ 4,0) đã xảy ra tại các hồ thủy điện Hòa Bình,
Sông Tranh 2 và Sơn La, nơi có độ sâu lớn nhất của đáy
hồ trên 100 m. Cấu trúc địa chất khu vực lòng hồ là các
đá biến chất (bao gồm các gneis, metagabro, metadiorit,
metagranodiorit, metaplagiogranit), đá granit hoặc đá vôi
đặc xít bị cà nát, dập vỡ mạnh. Khi hồ được tích nước, hiện
tượng thẩm thấu vào các đới cà nát dập vỡ kiến tạo gây nên
bởi áp lực của cột nước đã làm thay đổi trạng thái ứng suất
theo chiều hướng kích thích động đất xuất hiện sớm hơn.
2. Động đất kích thích các hồ Hòa Bình, Sông Tranh 2
và Sơn La là loại phản ứng nhanh, có nghĩa là chúng xảy ra
ngay sau khi quá trình tích nước hồ chứa được tiến hành.
Sự thăng giáng độ cao mực nước hồ có liên quan tới tần
suất xuất hiện động đất. Khoảng thời gian từ biến động mực
nước với xuất hiện các chuỗi động đất có biểu hiện khác
nhau tại hồ Sông Tranh 2 và Sơn La, tương ứng là 10-12
tháng và 2-3 tháng.
3. Động đất kích thích hồ Hòa Bình, Sông Tranh 2 và
Sơn La chỉ xuất hiện tại nơi có tỷ số Vp/Vs thấp, biến động
trong giới hạn 1,63-1,69, trùng với đới dập vỡ, ngậm nước
của đá gneis, granit hoặc đá vôi đặc xít. Dựa vào phân bố tỷ
số Vp/Vs ta có thể khoanh vùng được khu vực có nguy cơ
xảy ra động đất kích thích hồ chứa.
4. Động đất kích thích lớn nhất đã quan sát được tại hồ
Hòa Bình có M = 4,9. Đây cũng là giá trị động đất kích
thích cực đại được dự báo. Điều này có nghĩa là hoạt động
động đất kích thích tại hồ Hòa Bình đã đạt giá trị tối đa. Từ
sau 1996 đến nay không quan sát thấy động đất kích thích
hồ Hòa Bình, cho nên có thể nói rằng tại hồ này không còn
động đất kích thích nữa mà chỉ có động đất tự nhiên mà thôi.
5. Hồ thủy điện Sông Tranh 2 tuy động đất kích thích
vẫn còn hoạt động một thời gian nữa song sẽ có cấp độ
mạnh nhỏ hơn 4,7. Động đất kích thích hồ Sơn La còn tiếp
diễn trong thời gian tới và với cấp độ mạnh có thể lớn hơn
4,3, đạt tối đa là 5,0.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] D.W. Simpson and T.N. Narasimhan (1990), “Inhomogeneities
in rock Properties and their influence on reservoir induced seismicity”,
Gerlands Beitrage zur Geophysik, 99, pp.205-219.
[2] H.K. Gupta, B.K. Rastogi, H. Narain (1972), “Common
features of the reservoir associated seismic activities”, Bulletin,
Seismological Society of America, 62, pp.481-492.
[3] H.K. Gupta (2012), Reservoir Triggered seismicity and
Earthquake recurrence at Koyna, India, Abstract book, The 19th
General Assembly of Asian Seismological Commission, Ulaanbaatar,
pp.10-12.
[4] Nguyễn Đình Xuyên (1996), Cơ sở dữ liệu cho các giải pháp
giảm nhẹ hậu quả động đất ở Việt Nam - Phần thứ ba: Động đất kích
thích ở khu vực công trình thủy điện Hòa Bình, Báo cáo tổng kết đề tài
độc lập cấp nhà nước, lưu tại Viện Vật lý địa cầu, 182 trang.
[5] Cao Dinh Trieu, Cao Dinh Trong, Le Van Dung, Thai Anh
Tuan, Dinh Quoc Van, Ha Vinh Long (2014), “Triggered earthquake
study in Tranh River No.2 (Vietnam) Hydropower Reservoir”, Journal
of the Geological Society of India, 84(3), pp.319-325.
[6] Lê Huy Minh (chủ nhiệm) và nnk (2016), Nghiên cứu tác động
địa chấn kiến tạo đến sự ổn định công trình thủy điện Sông Tranh 2,
khu vực Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết đề tài độc
lập cấp nhà nước mã số ĐTĐL.2013G, lưu tại Viện Vật lý địa cầu,
402 trang.
[7] Thai Anh Tuan, N. Purnachandra Rao , Kalpna Gahalaut, Cao
Dinh Trong, Le Van Dung, Cao Chien, K. Mallika (2017), “Evidence
that earthquakes have been triggered by reservoir in the Song Tranh
2 region, Vietnam”, Journal of Seismology, doi: 10.1007/s10950-017-
9656-2.
[8] Lê Tử Sơn (chủ nhiệm) và nnk (2012), Nghiên cứu dự báo
động đất kích thích vùng hồ thủy điện Sơn La, Báo cáo tổng kết đề tài
độc lập cấp nhà nước mã số ĐTĐL.2009T/09, lưu tại Viện Vật lý địa
cầu, 271 trang.
[9] Cao Đình Trọng, Nguyễn Ánh Dương, Thái Anh Tuấn, Cao
Đình Triều (2016), “Đặc điểm hoạt động động đất kích thích khu vực
bậc thang thủy điện Sông Đà”, Tạp chí Địa chất, loạt A, số 361-362
(11-12), tr.80-92.
[10] Cao Đình Trọng, Phạm Nam Hưng, Đinh Quốc Văn, Lê
Quang Khôi (2014), “Mô hình cắt lớp sóng địa chấn khu vực thủy
điện Sông Tranh 2”, Tạp chí Địa chất, Loạt A, số 341-345 (3-8/2014),
tr.291-298.
[11] Cao Đình Trọng, Thái Anh Tuấn, Đình Quốc Văn, Cao Đình
Triều, Lê Văn Dũng, Nguyễn Đắc Cường (2017), “Mô hình vận tốc
sóng địa chấn (Vp, Vs, Vp/Vs) khu vực bậc thang thủy điện Sông Đà”,
Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam, 22(11), tr.24-31.
[12] Cao Đình Triều, Nguyễn Đức Vinh (2012), “Phân đoạn đứt
gãy trong đánh giá động đất cực đại ở Việt Nam”, Tạp chí Địa chất,
số 331-332, tr.59-68.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36250_117145_1_pb_4804_2098515.pdf