Kết luận
Văn hóa là kết quả của sự lựa chọn
trong ứng xử với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội. Sống tập trung ở khu
vực miền núi Tây Bắc của Tổ quốc, dân tộc
Thái từ bao đời nay đã hình thành và phát
triển những nét văn hóa độc đáo của tộc
người, trong đó cóp các biểu tượng văn
hóa. Từ môi trường sinh sống, biểu tượng
suối đã đi vào đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của con người. Không
những thế, nó còn chi phối đến tâm lý, tính
cách tộc người với đặc điểm nổi trội là ưa
biểu đạt nghiêng về tính trữ tình. Điều này
không chỉ được chứng minh bằng những
tác phẩm văn học dân gian nổi tiếng mà
còn được kế thừa sang sáng tác của các nhà
thơ hiện đại. Đây là nét khu biệt thơ Thái
với thơ của các tộc người thiểu số khác.
Biểu tượng suối ám ảnh thành vào những
giấc mơ, đi vào những khúc tình ca mà các
nhà thơ Thái đã tiếp thu để từ tinh hoa văn
hóa dân tộc mình tiếp tục tỏa sáng trong
cuộc sống hiện đại.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu tượng suối từ văn hóa truyền thống đến thơ dân tộc Thái hiện đại vùng Tây Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
41
Biểu tượng suối từ văn hóa truyền thống đến thơ dân tộc
Thái hiện đại vùng Tây Bắc
The symbols of streams from traditional culture to modern Thai poetry in the
Northwest of Vietnam
TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên
Nguyen Thi Thu Thuy, Ph.D.
Dien Bien College of Education and Training
Tóm tắt
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại, thơ dân tộc thiểu số đã tạo được những dấu ấn riêng
nhờ sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo trên nền tảng của cảm quan văn hóa tộc người. Dân tộc Thái với vai
trò là nền văn hóa chủ đạo của vùng Tây Bắc đã hình thành và phát triển hệ thống biểu tượng văn hóa,
trong số đó có biểu tượng suối. Từ một sự vật cụ thể của môi trường sống tự nhiên, suối đã đi vào văn
hóa Thái cả phương diện vật thể và phi vật thể, cả đời sống sinh hoạt lẫn đời sống tinh thần, chi phối
đến cả tính cách và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc. Điều này đã được các nhà thơ Thái hiện đại kế thừa
và kết tinh trong các sáng tác của họ, tạo một diện mạo riêng biệt trong thơ dân tộc thiểu số nói riêng và
thơ Việt Nam nói chung.
Từ khóa: suối, biểu tượng văn hóa, thơ, dân tộc Thái.
Abstract
In the flow of modern Vietnamese literature, ethnic poetry has made its own mark thanks to its unique
artistic creation on the basis of its ethnic cultural perception. Thai people as the dominant culture of the
Northwest have formed and developed a system of cultural symbols, among which are the symbols of
streams. From a particular thing of the natural habitat, the stream has entered the Thai culture in both
physical and non-physical perspectives, both in life and in spirit, which has governed the people’s
character and aesthetic conception. This was inherited and crystallized in modern Thai poets’
compositions, creating a distinctive appearance in poetry of ethnic minority in particular and
Vietnamese poetry in general.
Keywords: streams, cultural symbols, poetry, Thai ethnicity.
1. Biểu tượng suối trong đời sống
văn hóa Thái vùng Tây Bắc
1.1. Suối và môi trường sinh sống
của người Thái
Môi trường sinh sống là một yếu tố
quan trọng hình thành các nền văn hóa.
Trong quá trình tiếp xúc với môi trường tự
nhiên lâu dài, biểu tượng văn hóa đã được
hình thành. Sinh sống chủ yếu dựa vào khe
hẹp hay những lòng chảo tương đối bằng
phẳng, dân tộc Thái đã phát triển một dạng
sinh thái văn hóa mà nhà nghiên cứu văn
hóa Ngô Đức Thịnh gọi là “Dạng sinh thái
tộc người thung lũng” [5]. Địa hình vùng
BIỂU TƯỢNG SUỐI TỪ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN THƠ DÂN T C THÁI HI N ĐẠI VÙNG TÂY BẮC
42
núi Tây Bắc có sự phân hóa lớn: Giữa
những dãy núi cao chọc trời là những
thung lũng tương đối bằng phẳng. Cầu nối
giữa hai dạng địa hình trên chính là những
dòng suối chảy từ các khe hẹp trên núi cao
xuống vùng thung lũng. Đối với văn hóa
thung lũng, suối đóng một vai trò rất quan
trọng. Nền nông nghiệp lúa nước phải dựa
vào nguồn nước tự nhiên chảy trên bề mặt
sườn dốc đồi núi nên người Thái đã sử
dụng suối để lấy nước sản xuất. Suối là
một thành tố để hình thành nên hệ thống
thủy lợi “mương, phai, lái, lín” nổi tiếng
trong kỹ thuật canh tác của dân tộc Thái.
Hình ảnh những cọn nước, cối giã gạo
bằng sức nước trên những dòng suối
chảy róc rách đêm ngày là hình ảnh quen
thuộc trong đời sống cư dân Thái ở vùng
Tây Bắc từ bao đời nay.
Văn hóa được hiểu là kết quả sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên
được gọi là cái “Tự nhiên ngoài ta” (Trần
Quốc Vượng) với hai xu hướng là thích
nghi và biến đổi. Nền văn hóa Việt Nam
nói chung theo xu hướng thích nghi hơn là
biến đổi tự nhiên. Đối với người Kinh với
nền nông nghiệp mạnh về trồng trọt sống ở
vùng đồng bằng nhiều sông nước, dấu ấn
môi trường sống thể hiện từ cơ cấu bữa ăn,
sự phát triển của kỹ thuật canh tác, kiến
trúc cho đến tâm lý ứng xử. Đối với
đồng bào Thái ở vùng núi Tây Bắc cũng
vậy, ngoài lợi dụng dòng chảy tự nhiên
trên bề mặt sườn dốc để canh tác, suối còn
gắn bó với họ trong đời sống sinh hoạt
thường nhật. Suối là nơi cung cấp nguồn
thức ăn hàng ngày. Người Thái nổi tiếng
với món ăn rêu đá vớt từ suối. Suối cũng là
nơi họ tắm rửa, giặt giũ Đối với trẻ em
người Thái, tắm suối là một hoạt động
hàng ngày. Từ đó, nảy sinh trò chơi dân
gian gắn liền với văn hóa tộc người như trò
chơi “Rái cá ơi” được thực hiện khi đi tắm
suối. Một em làm rái cá, những em khác
làm người hát và phải chạy hoặc bơi đi. Ai
bị rái cá bắt thì phải thay chân làm rái cá.
Bài đồng dao được nhà nghiên cứu Tô
Ngọc Thanh sưu tầm như sau: “Rái cá ơi,
rái cá!/ Rái cá nhóc đầu bướu/ Rái cá nhỏ
ăn rêu cuối suối/ Ăn quả chuối chín vàng
cuối bến” [4; tr42]. Khảo sát địa danh cổ
của vùng Tây Bắc, Trần Thị Phương Hằng
đã chỉ ra yếu tố “huổi” (suối) xuất hiện khá
nhiều ở tỉnh Điện Biên như Huổi Lơi (suối
dài, hẹp và cong), Huổi Un (suối nước ấm),
Huổi Háp (suối gánh), Huổi Hộc (suối
nhau thai), Huổi Phạ (suối trời), Huổi Tấu
(khe rùa)[1]. Ngoài ý nghĩa lấy những sự
vật từ địa hình tự nhiên trong môi trường
sống thì những địa danh trên còn nói lên sự
gắn bó mật thiết của suối trong đời sống
sinh hoạt hàng ngày của cư dân Thái từ bao
đời nay đã hình thành những tên riêng
mang đậm dấu ấn văn hóa tộc người.
1.2. Suối với đời sống tâm linh của
người Thái
Trong văn hóa, suối được thiêng hóa
trở thành nơi biểu tượng cho sự trong sạch
và may mắn. Dân tộc Thái có một phong
tục, tập quán liên quan đến suối rất ý nghĩa.
Ngày đầu năm mới, tất cả mọi người không
phân biệt tuổi tác, giới tính thường đổ ra
suối hoặc các mó nước. Trên đường đi, họ
thường bẻ một cành cây. Khi đến suối, mỗi
người cúi xuống hớp một ngụm nước súc
miệng, sau đó họ nhúng cành cây xuống
nước vẩy lên khắp người, vừa vẩy vừa đọc
lẩm nhẩm mấy câu ca mang tính chất cầu
chúc may mắn, rũ bỏ những điều xúi quẩy,
không may mắn như “Ta kéo cái xấu trong
người ta ra/ Ta đến đổ cái xấu trong người
đi sạch/ Ta phủi nó trôi theo con suối/ Ta
giũ sạch cho hết xấu xa”. Trẻ em chưa thể
làm được thì người lớn làm hộ. Sau đó, họ
NGUYỄN THỊ THU THỦY
43
thả cành lá trôi theo dòng suối, rửa mặt rồi
mới ra về, bắt tay vào công việc [2; tr13].
Trong quan niệm tâm linh của người Thái
vùng Tây Bắc, suối không chỉ gắn liền với
ý nghĩa thanh tẩy mà còn mang lại sự tốt
lành. Người ta thường chọn suối làm địa
điểm tổ chức trong nghi lễ cầu xin con cái
đối với những người hiếm muộn. Phong
tục của người Thái là chia của cải và tiễn
linh hồn người đã khuất về mường Trời
(xin xống khọi). Họ đã để của cải được chia
trên một chiếc bè ghép bằng tre rồi mang ra
suối thả trôi. Như vậy, suối không chỉ đóng
vai trò là vật chuyển động để chở của cải
và hồn người chết mà còn tượng trưng cho
sự mát mẻ, trong sạch đưa họ về một thế
giới khác sống yên vui, không quấy nhiễu
hoặc bắt đi con cháu [1]. Chính vì lẽ đó,
suối đi vào đời sống tinh thần của họ một
cách tự nhiên. Khi khuyên răn con cái,
người Thái thường nói “Xuống thuyền nào
chèo thuyền ấy/ Theo suối nào theo đến
cùng”. Từ kinh nghiệm trong cuộc sống,
người Thái đã liên hệ đến những quy luật
ứng xử xã hội muôn đời “Không bịt nổi
nước nguồn, không gói nổi khói bay”.
Trong môi trường sống vừa thơ mộng vừa
dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc, người Thái
rất coi trọng quan hệ tập thể, cộng đồng.
Họ tìm thấy ở những dòng suối khát vọng
một cuộc sống tự nhiên tương đồng với
cuộc sống của con người: “Tôi muốn thành
con cá có đàn/ Ngược suối ăn rêu, uốn
đuôi bơi lội” (Bông hoa gạo).
1.3. Suối và truyền thống văn hóa âm
tính của dân tộc Thái
Đứng từ góc độ văn hóa học, suối là
biểu tượng mang tính chất âm tính. Nhà
nghiên cứu văn học Đỗ Lai Thúy đã viết:
“Nước từ giếng, khe (biểu tượng âm vật)
mang lại sức sống cho con người, làm tươi
tốt mùa màng, cây cối” [7; tr.85]. Biểu
tượng suối gắn liền với ước mơ cuộc sống
no ấm, hạnh phúc gia đình trọn vẹn trong
tình ca của người Thái: “Chắn vũng suối
thành ao/ Nước ao đời đời không cạn/ Ta
thả cá chiên, đầy đàn cá nở/ Cá nở đầy
đàn, cá lượn/ Để ta bữa bữa thay rau, mình
hỡi” (Đời thanh xuân - Tản chụ xiết
xương). So sánh tài ca hát của cô gái Thái,
tác giả dân gian khéo gắn hình ảnh suối
vào: “Hát cùng suối rộng, cá chảy về đầy/
Hát cùng đồng ruộng, vàng ươm thóc
lúa” (Lành đồn xa). Trong đời sống tâm
linh, suối được coi “vật nữ tính: con suối
(me nặm). Suối là nơi trú ngụ của thần
nước, thường ở những đoạn nước cuốn
thành vực (vắng nặm). Hàng năm, khi làm
lễ cúng bản (xên bản) vào mùa xuân, người
ta tổ chức ngay bên bờ vực đó” [8; tr.220].
Biểu tượng suối đi vào văn học dân
gian Thái, mang một quan niệm thẩm mĩ
độc đáo. Trong truyền thuyết về Nàng Han
(dân tộc Thái) có cốt truyện gần giống với
truyền thuyết Thánh Gióng của người Việt
nhưng chứa đựng cảm quan văn hóa người
Thái qua việc xây dựng các chi tiết nghệ
thuật. Đáng chú ý là chi tiết Nàng Han về
trời “Người ta chỉ thấy thanh gươm của
nàng để lại trên bờ khe. Người già bảo
rằng nàng Han đã lên trời và thành tiên
rồi. Chỗ khe nàng Han tắm, sau này ai
cũng gọi là mạch nước nàng Han” [Tuyển
tập văn học dân gian, tập I, Nxb Giáo dục,
2007, tr.457]. Nếu như người anh hùng
làng Gióng của dân tộc Việt đi vào cõi bất
tử ở chân núi thì người nữ anh hùng của
người Thái trước khi bay về trời đã ứng xử
theo đúng văn hóa truyền thống của dân
tộc mình. Cách lựa chọn chi tiết nghệ thuật
này nói lên quan niệm thẩm mỹ của dân
tộc. Trong tâm linh của đồng bào, dòng
suối là nơi tẩy trần, thanh lọc tâm hồn và
nơi linh thiêng để con người có thể thoát
BIỂU TƯỢNG SUỐI TỪ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN THƠ DÂN T C THÁI HI N ĐẠI VÙNG TÂY BẮC
44
tục bước vào một thế giới vĩnh cửu. Người
nữ anh hùng của dân tộc Thái thành tiên
nơi mà các cô gái Thái thường tụ tập sau
ngày lao động vất vả. Suối trở thành biểu
tượng âm tính trong tâm thức đồng bào từ
trong truyền thống.
Tính âm tính của văn hóa Thái được thể
hiện qua nhiều phương diện. So với các tộc
người khác, dù gia đình người Thái vẫn là
gia đình phụ quyền nhưng tương đối dân
chủ đối với người phụ nữ. Họ thể hiện thái
độ tôn trọng nữ giới trong việc coi trọng
quan hệ lùng ta (họ bên ngoại), cô dâu về
nhà chồng vẫn được lập một bàn thờ riêng
cho họ ngoại với ý nghĩa người phụ nữ khi
đi lấy chồng vẫn cần có vía của bố mẹ, tổ
tiên mình theo sát để vững tâm hơn. Có lẽ vì
đặc tính văn hóa này, người Thái nổi tiếng
với những tình ca giàu tính trữ tình như
Xống chụ sôn sao, Tản trụ xiết xương
2. Biểu tượng suối trong thơ dân tộc
Thái hiện đại vùng Tây Bắc
2.1. Suối và cội nguồn dân tộc
Vào văn học hiện đại, suối là quê
hương, là gia đình, nguồn cội “Vắng anh
buồn cái nhà, cái cửa/ Em thương anh xa
con suối, khoảng nương” (Thương anh -
Cầm Thị Lả), suối là tình cảm gắn bó
khăng khít của con người“ Em tắm suối
giữa mường/ Tắm trong mối yêu thương”
(Em tắm - Bạc Văn Ùi), suối mang khao
khát cháy bỏng trở về “Ta mơ nhìn Pha -
mó, Ăm - poi đá tảng xanh mượt/ Bàn
Huông kia, mỏ nước trong lành vẫn tắm/
Dòng suối nọ, Bó - luông lối cũ đi về/
Nước nguồn Bó - hẩu ngày lại ngày tuôn
chảy đều chăng/ Rêu Nong - hót ngọt bùi
dịu mát/ Bạn vẫn thường lội vớt cùng ta”
(Nghĩ về Mường Muội - Cầm Liên). Biểu
tượng suối là biểu tượng cho quê hương
mà tình yêu đối với quê hương là cảm xúc
chủ đạo của thơ DTTS thời kỳ kháng
chiến.
Trên nền tảng vững vàng đó, các nhà
thơ dân tộc Thái sau năm 1986 đã phát
triển biểu tượng con suối mang chiều sâu
văn hóa tộc người và sáng tạo thêm nhiều ý
nghĩa mới mẻ, hiện đại hơn. Nhà thơ Lò
Cao Nhum đã viết rất hay về cội nguồn, về
những lớp văn hóa đặc sắc của dân tộc
mình trên dòng suối quê hương bằng một
bài thơ văn xuôi: “Bất chợt mùa xuân./ Tôi
vùng dậy, nhảy ba bậc cầu thang, bươn bả
lao ta nơi ngã ba suối Mùn. Tôi ôm bờ suối
lay lay: suối ơi dậy, suối ơi thức, chỉ cho
tôi đâu hòn cuội trắng lăn từ bản nhót đến,
hòn cuội đỏ lăn từ bản Tòng về. Tôi căng
mười làn mi, ngóng chằm chằm vào bờ cát.
Những hạt cát lấp lánh như triệu triệu vì
sao. Rồi từ từ hiện lên ngôi sao ông ngoại.
Rồi từ từ hiện lên ngôi sao ông nội. Rồi bố
tôi, mẹ tôi dung dăng dung dẻ. Tôi chồm
lên nhảy vào bãi cát, níu áo mẹ tôi, giằng
ống quần bố tôi. Tôi cùng múa, cùng nhón
chân say sưa sang bên trái, nhảy chân tung
tăng sang bên phải, lon tôn trước mặt bố
tôi, lon ton sau mẹ tôi. Hòn cuội trắng tung
lên lăn dọc má. Hòn cuội đỏ ào xuống lặn
vào môi. Tôi nhai, tôi nuốt, đắng cay, ngọt
ngào nghẹn thở” (Ngã ba suối Mùn).
Mùa xuân, mùa của lễ hội, mùa của đời
sống tâm linh và mùa của tâm thức về hồn
dân tộc trỗi dậy. Sống trong không khí
huyền ảo, mơ mơ thực thực giữa quá khứ
và hiện tại, giữa những người còn sống và
những người đã mất, giữa truyền thống và
hiện đại, Lò Cao Nhum đã viết thành một
giấc mơ tuyệt vời trong “Ngã ba suối
Mùn”. Là người uống nước suối Mùn từ
thủa thơ ấu “Xuôi dọc con suối Mùn, ngược
theo suối Xia, hai bên bờ suối là cánh đồng
bậc thang vừa phải, hoặc có những cánh
đồng tương đối bằng phẳng như Chiềng
Sại, Chiềng Châu, Mai Hạ. Những cánh
NGUYỄN THỊ THU THỦY
45
đồng không rộng đó chạy sát hai bên chân
núi thung lũng. Dưới chân núi cách độ
quãng một, hai cây số lại gặp những bản
Thái thanh bình với những hàng cau, bụi
chuối, cây muỗm, cây me cổ thụ và những
ngôi nhà sàn ẩn mình dưới bóng lá” [3;
tr.17], suối Mùn đối với nhà thơ vừa là một
địa danh cụ thể vùa là một biểu tượng của
văn hóa, của quê hương. Nhà nghiên cứu
văn học Đoàn Hương đã khái quát một
nguyên tắc bao trùm cho sự thể hiện của
nghệ thuật phương Đông là “một cách nhìn
tâm linh, một con mắt văn hóa tâm linh khi
nhận thức sự vật và cuộc sống” [Văn luận
(Văn học Việt Nam và tư tưởng văn hóa
phương Đông), Nxb Văn học, 2004,
tr.495]. Suối Mùn trong thơ Lò Cao Nhum
không phải là con suối cụ thể mà là con
suối của tâm linh, con suối của dòng thời
gian vĩnh cửu chảy trong suốt đời người.
Cái tài của anh là trên nền văn hóa độc đáo
của dân tộc, anh đã phát triển chất thơ bằng
khả năng liên tưởng đa tầng lớp. Theo
dòng suối hay dòng ký ức để gặp lại những
người thân yêu, hạnh phúc khi được trở về
làm cậu bé hồn nhiên, ngây thơ theo chân
bố mẹ trong mùa xuân của ngày xưa. Hòn
sỏi trắng, hòn sỏi đỏ nằm giữa dòng suối
quê hương trở thành hình ảnh của sự
trường tồn, vĩnh cửu, khơi gợi cảm xúc của
nhà thơ giữa dòng chảy của thời gian. Sử
dụng hòn sỏi (gốc từ đá) để tìm về quá khứ
là một dạng cổ mẫu trong văn hóa Việt nói
chung và văn hóa Thái nói riêng. Nó mở ra
giấc mơ thời thơ ấu rồi khép lại giấc mơ đó
trong sự hòa trộn nhiều cảm xúc. Theo
quan điểm của các nhà phân tâm học thì
rằng “giấc mơ biểu lộ sự trá hình của một
ham muốn bị lãng quên - hoặc ít nhất là
một thử nghiệm để hoàn thành - nỗi ham
muốn ấy đến nảy mầm trên việc thực hiện
một mong ước thời sự hơn, bằng cách sử
dụng các yếu tố và sự kiện của ngày hôm
trước” [6; tr.97]. Nói cách khác, giấc mơ là
những dồn nén trong vô thức những khát
vọng hoặc những ám ảnh được bung ra khi
chúng ta đang trong trạng thái không ý
thức. Vì thế, chuỗi hình ảnh kỳ lạ trong bài
thơ là những ký hiệu mà ẩn chứa trong đó
xuyên suốt là sự dẫn lối cảm xúc của tác
giả với khao khát trở về. Cái ham muốn bị
lãng quên đã dẫn lối cho nhà thơ Lò Cao
Nhum tìm về nguồn cội trên dòng chảy mát
rượi của Suối Mùn quê hương anh. Vì thế,
dù đặt chân đến chân trời góc bể nào, tiếng
gọi sâu thẳm ấy thúc giục trở về “Và bất
chợt mùa xuân, tôi nhảy ùm xuống biển,
bươn trải lao về bến cũ. Phía trăm ghềnh,
nghìn thác trên kia là ngã ba suối Mùn”.
Suối trong bài thơ của Lò Cao Nhum hàm
chứa trong đó sức mạnh của tâm hồn Thái
trong đời sống tâm linh, là dòng chảy của
thời gian nối liền quá khứ, hiện tại và
tương lai, của không gian trong mối quan
hệ thân tộc gắn bó giữa thế hệ này với thế
hệ khác, hòa trộn thế giới của những người
đang sống và những người đã khuất Với
các nhà thơ dân tộc Thái, biểu tượng suối
nằm sâu trong đời sống tinh thần, thành trở
một mẫu gốc trong văn hóa của tộc người
này. Nó là một biểu tượng mang ý thức tập
thể, “chứa đầy một công suất năng lượng
lớn Biểu tượng mẫu gốc nói liền giữa cái
phổ quát với cái cá thể” [6; tr.21]. So sánh
mới thấy sự khác biệt. Biểu tượng suối
không chỉ xuất hiện trong thơ Thái hiện đại
mà còn được các nhà thơ của tộc người
khác khai thác nhưng trong thơ họ, suối chỉ
là hình ảnh của một sự vật cụ thể gắn liền
với cuộc sống con người miền núi. Suối là
hình ảnh của vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc
thật gợi cảm và sống động như qua cái
nhìn của nhà thơ dân tộc Giáy Lò Văn
Chiến: “Suối sâu róc rách gọi trăng về/
BIỂU TƯỢNG SUỐI TỪ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN THƠ DÂN T C THÁI HI N ĐẠI VÙNG TÂY BẮC
46
Núi rừng xanh rợp ánh trăng khuya” (Ánh
trăng vùng cao). Nhà thơ dân tộc Tày Mai
Liễu trong sáng tác của mình cũng xây
dựng biểu tượng suối như biểu tượng của
quê hương, một quê hương trong chiều dài
lịch sử và trong nội lực sống mang văn hóa
Tày: “Những bánh xe mặt trời/ Lăn trên
gập ghềnh con suối/ Suối qua gập ghềnh
đồi núi/ Bản làng từ đó sinh sôi” (Những
bánh xe mặt trời). Con suối trong thơ ông
mang tâm hồn của con người: “Nghe thầm
thào con suối nói vòng vo” (Chiều quê).
Trong tâm thức của nhà thơ, dòng suối hóa
thành người mẹ, người mẹ của quê hương
dịu dàng mà vĩ đại: “Cái ngọt ngào chan
chứa vành nôi/ Là tiếng suối lẫn vào lời mẹ
hát/ Lời mẹ dịu dàng lời suối trong tha
thiết/ Quên mọi thác ghềnh, cung bậc thẳm
sâu” (Quê hương). Đi xa quê, suối hiện
lên trong hồi ức, trong những kỷ niệm thủa
ấu thơ “Tuổi thơ tôi/ Tháng ba theo mẹ hái
búp dớn mập/ Trưa hè cùng bạn tắm dòng
suối trong/ Dòng suối lượn cong cong/ Búp
dớn uốn cong cong/ Cho tôi nên người
thẳng” (Rau dớn tháng ba). Y Phương
khi đi chiến đấu xa nhà, nghe tiếng suối
chảy mà như nghe thấy hơi thở của quê
hương Cao Bằng “Con suối như đàn gẩy
bài then” (Bếp nhà trời). Suối theo họ đi
muôn nơi, chảy ra biển lớn mang sắc màu
thân thuộc của núi rừng như con người dù
đi xa đến đâu vẫn luôn sống cùng quê
hương, nguồn cội “Biển xanh như nước
chàm pha/ Chắc ai đó trên nguồn/ Đổ vại
chàm xuống suối/ Để biển hôm nay nhuộm
màu xanh của núi” (Những đứa con của
núi - Lâm Quý)... Như vậy, cùng là biểu
tượng suối nhưng với các nhà thơ dân tộc
Thái, suối đi vào đời sống tinh thần của
con người, ám ảnh thành những giấc mơ
cùng với những yếu tố tâm linh mang đặc
trưng văn hóa. Một điều thú vị là thơ Tày
xuất hiện rất nhiều hình ảnh của sông
tượng trưng cho quê hương như sông Bằng
(thơ Y Phương), sông Năng (thơ Dương
Thuấn) thì với thơ dân tộc Thái, hình
ảnh sông gần như vắng bóng. Điều đó nói
lên vai trò của biểu tượng suối trong tâm
thức văn hóa tộc người này, tạo nên tính
độc đáo, khu biệt với các tộc người khác.
2.2. Suối và cội nguồn sáng tạo
Suối là cội nguồn sáng tạo nghệ thuật
và là trở thành biểu tượng cho đặc điểm
của thơ dân tộc Thái nói riêng và thơ dân
tộc thiểu số nói chung như Inrasara đã viết
“Những trái hoa tinh khiết rất cần cho
người thành phố hái mang về, không như
một vật lạ để làm quà lưu niệm, mà phải
được xem là tặng vật của suối nguồn, thanh
tẩy bụi bặm hay khỏa lấp khoảng trống sa
mạc trong tâm hồn con người thời đại”
[Song thoại với cái mới, Nxb Hội nhà văn,
2008, tr.167]. Đặc biệt từ sau năm 1986
đến nay khi mà ý thức tự tôn, tự hào sắc
tộc tạo nên một diện mạo độc đáo, mới lạ
mà bộ phận thơ này.
Nhà thơ dân tộc Thái Lò Cao Nhum
luôn mang dòng suối mát lành và trong
xanh của cội nguồn văn hóa trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật của mình. Trong
vô thức sâu thẳm, tiếng suối nguồn luôn
tha thiết gọi anh: “Tỉnh giấc/ Nghe réo rắt
bên tai/ Tiếng suối/Suối nguồn trách chi lời
mát lành/ Suối nguồn nói điều gì trong
xanh/ Đường mưa gió/ Tôi thở có mặn hơi
biển vỗ/Tóc vàng pha sóng đỏ trăm sông/
Suối ơi/ Như suối về biển sông/ Như mưa
về đất/ Tôi ca bài ca tám phương trời/ Từ
mỏ nguồn suối trong của đời tôi” (Tiếng
suối). Vẫn lồng ghép dưới dạng thức giấc
mơ, bài thơ là lời tâm sự mang đầy trải
nghiệm trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật của nhà thơ. Hệ thống biểu tượng
suối, biển cùng với những biến thể của
NGUYỄN THỊ THU THỦY
47
chúng được Lò Cao Nhum dùng để diễn tả
quan niệm của nhà thơ về con đường sáng
tác của mình với lời khẳng định về sự trung
thành với cội nguồn dân tộc trong cuộc
sống hiện đại đầy biến động. Sau năm
1986, quá trình hội nhập văn hóa diễn ra
khá mạnh mẽ. Suối đồng nghĩa với sự
trong trẻo và vững bền giá trị của văn hóa
truyền thống – yếu tố quan trọng của sáng
tạo nghệ thuật: “Những lời ngọc chuốt lên
từ suối/ Trong veo nước tận nguồn/ Thẳm
sâu đáy bể, đáy trời/ Gói vào tâm can/ Và
tôi đi./ Vừa đi vừa nâng niu hòn ngọc nhặt
lên từ suối/ Lời dân gian như đay nghiến
con người” (Bài VI- Lò Cao Nhum). Thơ
Lò Cao Nhum gắn suối trong những giấc
mơ mà những tiếng nói thì thầm bên trong
luôn nhắc nhở nhà thơ nhớ về nguồn cội.
Theo các nhà phân tâm học, giấc mơ “là
con đường hoàng đạo dẫn đến vô thức” [6;
tr96]. Suối trong thơ anh chảy trong vô
thức, ảo mà lại thực. Điều này khác với các
nhà thơ người Tày. Mai Liễu đã gọi nguồn
thơ của ông là “Suối làng trong trẻo” với
sức sống khỏe khoắn như dòng suối trên
quê hương ông: “Ôi mạch ngầm mỏng
manh như sương/ Như tia nắng mặt trời
buổi sớm/ Chảy trong lá trong cây trong
đất/ Trong mêng mông vũ trụ giao hòa/
Nhũ đá vô tri bỗng căng muôn bầu sữa/
Mạch sống trào dâng bền bỉ ngọt ngào”.
Suối đã nói hộ ông tình yêu tha thiết với
quê hương trong sáng tạo nghệ thuật: “Núi
đầy cỏ hoa/ Suối qua ngọt lịm/ Nhớ rừng
không nguôi/ Suối quanh co mãi”
(Suối). Hình ảnh suối trong thơ ông trước
hết là hình ảnh thực của mảnh đất quê
hương mà nhà thơ luôn đau đáu nhớ về khi
sinh sống ở nơi khác. Hình ảnh suối nằm
trong hệ thống những hình ảnh gợi nhớ về
tuổi thơ, về mẹ, về quê hương như hình
ảnh núi, mây, cây ngô chứ không xuất
hiện như một tiếng gọi từ sâu thẳm vô thức
trong sáng tác của Lò Cao Nhum.
2.3. Suối và những khúc tình ca về
tình yêu đôi lứa
Biểu tượng suối đi vào trong thơ Thái
hiện đại với những cung bậc cảm xúc
phong phú trong tình yêu. Tâm hồn Thái
giàu chất trữ tình cất lên những bài ca về
tình yêu đôi lứa kế thừa những bản tình ca
nổi tiếng của dân tộc này như Tản chụ xiết
xương, Xống chụ sôn sao, Thơ tình của
các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại có nét
chung là da diết, sâu lắng chứ không dữ
dội, mãnh liệt như các nhà thơ thuộc tộc
người khác. Như một dòng suối hiền hòa,
róc rách chảy, cảm xúc là thế mạnh của họ.
Biểu tượng suối được khai thác biểu đạt vẻ
đẹp trong một mối tình nên thơ, mang cái
nhìn tinh tế và lãng mạn. Thiên nhiên với
con người hòa quyện với nhau, suối cùng
với bóng hình của tình yêu là tồn tại vĩnh
viễn trong ký ức đẹp đẽ : “Bên suối/ Có hai
người/ Bóng lồng nhau trong đáy nước/
Nước ngừng trôi/ Cá không dám quẫy
đuôi/ Sợ sóng làm tan mất/ Có một
chiều/ Em đi/ Bóng dần khuất/ Suối tím/
Nước ngừng trôi/ Tiếng nhạc thôi thánh
thót/ Suối vắng/ Bóng hai người” (Bên
suối - Lò Vũ Vân). Bài thơ mang vẻ đẹp về
tình yêu trong trẻo như nước suối nguồn
của đôi trai gái Thái với những âm điệu
ngọt ngào, êm dịu. Tất cả đặt trong một
không gian tĩnh lặng để tình yêu gảy lên
khúc nhạc du dương trong lòng người. Lò
Cao Nhum mượn suối để miêu tả tinh tế
tâm trạng con người với nhiều cung bậc
khác nhau của sự chờ đợi trong tình yêu
“Có câu hát đợi/ Chùng chình cầu mây/ Có
ngọn gió đợi/ Thở dài rừng cây/ Suối xanh
động sóng/ Cầu thanh nét cầu/ Bóng ai hút
bóng/ Vời vợi về đâu?” (Câu hát đợi),
“Tiếng khèn hát cầu van/ Ngày một ngày
BIỂU TƯỢNG SUỐI TỪ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN THƠ DÂN T C THÁI HI N ĐẠI VÙNG TÂY BẮC
48
hai ngóng sang cửa liếp/ Chẳng nguồn
mạch đâu, suối còn có khúc/ Nỡ cạn rồi
trời soi cùng ai.” (Tiếng khèn), “Từ buổi
ấy, chia tay ướt vòng đời/ Anh đây, em kia
đó/ Xa thế, thể đo bằng trăm suối/ Tính
bằng nghìn ngọn núi cách nhau.” (Buổi
ấy) Biểu tượng suối gắn với tình yêu
chung thủy, son sắt đã trở thành truyền
thống trong văn hóa Thái “Chết ba năm
cũng còn hình bóng/ Biến ra nước anh vốc
nước ăn/ Hóa ra đất, cuốc đất giồng trầu/
Hóa ra củ ấu ở cùng ao/ Hóa ra môi cùng
múc chung nồi/ Chết ra ma, hồn chung nhà
ở” (Xống chụ sôn sao) được các nhà thơ
hiện đại Thái tiếp tục kế thừa. Tình yêu
trong sáng của đôi trai gái Thái cũng gắn
liền với dòng suối chảy từ tuổi ấu thơ cho
đến lúc trưởng thành với hạnh phúc ngày
càng căng đầy trong thơ Tòng Văn Hân:
“Biết nhớ anh mong cho mặt trời mau lặn/
Biết thương em muốn cho mặt trăng lâu
mờ/ Bụi tre to mãi nhờ năm tháng/ Con
suối to dần nhờ những khe/ Tổ ong to dần
nhờ hoa rừng rực rỡ” (Tình đôi ta). So
sánh với thơ của nhà thơ người Giáy Lò
Ngân Sủn ta thấy rõ rệt sự khác biệt. Thơ
tình của Lò Ngân Sủn hấp dẫn người đọc
nhờ cách diễn tả trạng thái tình yêu rất táo
bạo, mãnh liệtÔng thể hiện quan niệm
này qua một bài thơ với hình ảnh Suối hôn
rất độc đáo: “Lúc dồn dập dữ dội/ Khi âm
thầm lặng lẽ/ Khẽ hôn lên cồn đất/ Khẽ hôn
lên cồn cát/ Hôn đến cả sạt cả núi/ Hôn
đến mòn cả đá/ Là cái hôn của suối/ Hôn
không dừng không dứt/ Hôn không dứt
không thôi/ Cái hôn hình uốn khúc/ Cái
hôn dài chân thung”.
3. Kết luận
Văn hóa là kết quả của sự lựa chọn
trong ứng xử với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội. Sống tập trung ở khu
vực miền núi Tây Bắc của Tổ quốc, dân tộc
Thái từ bao đời nay đã hình thành và phát
triển những nét văn hóa độc đáo của tộc
người, trong đó cóp các biểu tượng văn
hóa. Từ môi trường sinh sống, biểu tượng
suối đã đi vào đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của con người. Không
những thế, nó còn chi phối đến tâm lý, tính
cách tộc người với đặc điểm nổi trội là ưa
biểu đạt nghiêng về tính trữ tình. Điều này
không chỉ được chứng minh bằng những
tác phẩm văn học dân gian nổi tiếng mà
còn được kế thừa sang sáng tác của các nhà
thơ hiện đại. Đây là nét khu biệt thơ Thái
với thơ của các tộc người thiểu số khác.
Biểu tượng suối ám ảnh thành vào những
giấc mơ, đi vào những khúc tình ca mà các
nhà thơ Thái đã tiếp thu để từ tinh hoa văn
hóa dân tộc mình tiếp tục tỏa sáng trong
cuộc sống hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội thảo khoa học quốc gia Ngôn ngữ và văn
học vùng Tây Bắc, Trường Đại học Tây Bắc,
tháng 4 năm 2014.
2. Hỏi đáp về văn hóa độc đáo các dân tộc Việt
Nam (2008), Nxb Quân đội nhân dân.
3. Lò Cao Nhum (2008), Bếp trong đời sống
người Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Tô Ngọc Thanh (1994), Đồng dao Thái Tây
Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và
phân vùng văn hóa, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
6. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn học
nghệ thuật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Đỗ Lai Thúy (2010), Hồ Xuân Hương hoài
niệm phồn thực, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc
Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần
Thúy Anh (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 19/02/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bieu_tuong_suoi_tu_van_hoa_truyen_thong_den_tho_dan_toc_thai.pdf