Bộ quy tắc đạo đức của The New York Times (Phần III)
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    5. THAM GIA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Bỏ phiếu, vận động tranh cử và các vấn đề chung
62. Nhà báo không có chỗ trong sân chơi chính trị. Nhân viên có 
quyền bỏ phiếu, tuy nhiên họ không được làm điều gì dẫn đến 
nghi ngờ về sự trung lập trong chuyên môn của họ và của bản 
thân Thời báo. Cụ thể, họ không được vận động, biểu tình, hay 
ủng hộ các ứng cử viên, bỏ phiếu kín ủng hộ cho sự nghiệp hoặc 
các nỗ lực thông qua các đạo luật. Họ không được đeo phù hiệu 
vận động tranh cử hoặc bản thân không được thể hiện bất cứ 
dấu hiệu chính trị đảng phái nào. Họ phải nhận thức được rằng 
việc dán khẩu hiệu trên xe của gia đình hay dựng khẩu hiệu vận 
động tranh cử có thể được xem là của bản thân họ, dù trên thực 
tế ai đó trong gia đình đã dán và dựng các khẩu hiệu đó.
63. Bản thân nhân viên không được góp tiền, gây quỹ cho bất cứ 
ứng cử viên hay quá trình bầu cử nào. Do có thể truy cập Internet 
dễ dàng để tìm hồ sơ công khai của những người đóng góp cho 
vận động tranh cử nên việc ủng hộ về chính trị của nhân viên 
Thời báo sẽ có nguy cơ dẫn tới ấn tượng sai rằng tờ báo đang 
đứng về phía nào đó.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
22 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2037 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bộ quy tắc đạo đức của The New York Times (Phần III), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ quy tắc đạo đức của The New 
York Times (III) 
5. THAM GIA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 
Bỏ phiếu, vận động tranh cử và các vấn 
đề chung 
62. Nhà báo không có chỗ trong sân chơi chính trị. Nhân viên có 
quyền bỏ phiếu, tuy nhiên họ không được làm điều gì dẫn đến 
nghi ngờ về sự trung lập trong chuyên môn của họ và của bản 
thân Thời báo. Cụ thể, họ không được vận động, biểu tình, hay 
ủng hộ các ứng cử viên, bỏ phiếu kín ủng hộ cho sự nghiệp hoặc 
các nỗ lực thông qua các đạo luật. Họ không được đeo phù hiệu 
vận động tranh cử hoặc bản thân không được thể hiện bất cứ 
dấu hiệu chính trị đảng phái nào. Họ phải nhận thức được rằng 
việc dán khẩu hiệu trên xe của gia đình hay dựng khẩu hiệu vận 
động tranh cử có thể được xem là của bản thân họ, dù trên thực 
tế ai đó trong gia đình đã dán và dựng các khẩu hiệu đó. 
63. Bản thân nhân viên không được góp tiền, gây quỹ cho bất cứ 
ứng cử viên hay quá trình bầu cử nào. Do có thể truy cập Internet 
dễ dàng để tìm hồ sơ công khai của những người đóng góp cho 
vận động tranh cử nên việc ủng hộ về chính trị của nhân viên 
Thời báo sẽ có nguy cơ dẫn tới ấn tượng sai rằng tờ báo đang 
đứng về phía nào đó. 
64. Tất cả nhân viên không được chạy đua vào các chức vụ công 
quyền ở bất cứ nơi đâu. Việc chạy đua hoặc phục vụ trong cơ 
quan nhà nước là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc độc lập về 
chuyên môn mà một nhà báo cần có. Điều đó tạo ra nguy cơ là 
quan điểm chính trị của một nhân viên sẽ được coi là quan điểm 
của Thời báo, và có thể gieo nghi ngờ về sự thiên vị khi Thời báo 
đưa tin chính trị, nếu một trong những nhân viên của họ là một 
thành viên tham gia tích cực. 
65. Nhân viên không được tiến hành hoặc tập hợp ủng hộ cho 
những sự nghiệp hoặc phong trào chung, không được ký vào các 
quảng cáo, có quan điểm trong những vấn đề chung, hoặc tham 
gia vào các chiến dịch vận động tranh cử, không được dự tiệc 
hay tham gia những sự kiện tương tự nếu việc làm đó dẫn đến 
nghi ngờ về khả năng của họ hoặc khả năng hoạt động của Thời 
báo với tư cách là các nhà quan sát trung lập trong việc đưa tin. 
Nhân viên cần ghi nhớ rằng láng giềng và các nhà quan sát khác 
luôn xem họ là đại diện của Thời báo. 
66. Nhân viên có thể xuất hiện trên các chương trình phát thanh 
và truyền hình về các vấn đề chung, tuy nhiên họ phải tránh bày 
tỏ những quan điểm vượt quá những gì họ được phép nói trên 
báo. Những người phụ trách chuyên mục xã luận và biên tập viên 
trang tin bình luận được tự do hơn những người khác khi diễn 
thuyết công khai bởi công việc của họ là bày tỏ quan điểm. Tuy 
nhiên, Thời báo hy vọng họ sẽ cân nhắc cẩn thận diễn đàn mà họ 
sẽ xuất hiện và bảo vệ những chuẩn mực và sự vô tư của tờ báo 
nói chung. 
67. Nhân viên cần phải cảnh giác trước thực tế là hành động 
chính trị đúng đắn của vợ chồng, gia đình hoặc con em họ có thể 
tạo ra xung đột lợi ích hoặc làm xuất hiện xung đột. Khi xuất hiện 
khả năng đó, nhân viên cần phải tham khảo ý kiến cấp trên phòng 
ban của họ và phó tổng biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc 
phó tổng biên tập trang tin bình luận. Tuỳ hoàn cảnh, nhân viên 
có thể rút lui, không đưa tin bài thậm chí có thể chuyển sang công 
việc khác không liên quan đến những hoạt động đang được bị hồ 
nghi. 
68. Nhân viên nào thấy nghi ngờ về một hành động chính trị 
được đề xuất phải tham khảo ý kiến của phó tổng biên tập phụ 
trách quản trị tin tức hoặc phó tổng biên tập trang tin bình luận. 
Những hạn chế này bảo vệ sứ mệnh của chúng ta với tư cách 
các nhà báo. Mặc dù sẽ xem xét vấn đề theo từng sự vụ, nhưng 
Thời báo sẽ cẩn trọng trước khi cho phép bất cứ ngoại lệ nào. 
Phục vụ cộng đồng 
69. Nhân viên không được làm việc trong các Bộ hoặc các Uỷ 
ban của chính phủ, dù được trả lương hay không trả lương. Họ 
không được phép tham gia các uỷ ban quản trị, các uỷ ban tư vấn 
hoặc các nhóm tương tự ngoại trừ những người phục vụ các tổ 
chức báo chí hoặc thúc đẩy giáo dục báo chí. Những ai chưa rõ 
về các hoạt động đó phải tham khảo ý kiến cấp trên và phó tổng 
biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc phó tổng biên tập trang tin 
xã luận. Tuỳ thuộc vào tình huống có thể có trường hợp ngoại lệ 
cho phép nhân viên được phụ vụ các trường học của họ (hoặc 
trường học của con cái họ) với tư cách người được uỷ thác hoặc 
khách tại những trường từng gửi tin cho Thời báo. 
70. Thời báo không muốn cản trở tư cách công dân tốt trong xã 
hội. Thông thường quy định hạn chế tham gia các ban quản trị 
hoặc các uỷ ban tư vấn sẽ không áp dụng đối với các tổ chức mà 
Thời báo không quan tâm đưa tin và những tổ chức nhìn chung 
không hoạch định chính sách công. Các tổ chức này bao gồm 
nhà thờ, hội từ thiện cộng đồng, thư viện địa phương, các nhóm 
nghệ thuật, các nhóm sở thích, liên đoàn điền kinh thanh niên, 
các câu lạc bộ và các nhóm cựu sinh viên. Nếu có lý do nhất 
định, các nhân viên có thể giúp đỡ gây quỹ ở mức độ khiêm tốn 
cho các nhóm này. Họ không được đóng vai trò là người lãnh đạo 
hoặc giới thiệu một nhà tài trợ để đổi lại sẽ nhận được ưu đãi nào 
đó. Họ không được thu hút sự tham gia của bất cứ ai mà họ và 
Thời báo có quan hệ về chuyên môn. Những ai chưa rõ về những 
gì được phép làm nên tham khảo ý kiến phó tổng biên tập phụ 
trách quản trị tin tức hoặc phó tổng biên tập trang xã luận. 
71. Nhân viên không được gây quỹ cho các phong trào chính trị, 
xã hội, tôn giáo, giáo dục, từ thiện hoặc những phong trào khác 
bên ngoài phạm vi các nhóm được quy định trong đoạn 70. Làm 
như vậy sẽ tạo ra hy vọng đổi lại họ sẽ được hưởng ưu đãi, ưu 
tiên. Nhân viên nên suy nghĩ cẩn trọng về những đóng góp họ có 
thể dành cho các phong trào, và luôn ghi nhớ sự cần thiết phải có 
tính trung lập trong tất cả các vấn đề. Những ai chưa rõ về các 
khoản đóng góp phải tham khảo ý kiến cấp trên của họ và phó 
tổng biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc phó tổng biên tập 
trang tin xã luận. 
6. CÁC NHÀ QUẢNG CÁO, TIẾP THỊ VÀ QUẢNG CÁO 
72. Thời báo đối xử với các nhà quảng cáo một cách công bằng 
và cởi mở như với các độc giả và các nguồn tin. Mối quan hệ 
giữa Thời báo và các nhà quảng cáo phụ thuộc vào sự hiểu biết - 
mà từ lâu tất cả các phòng ban đều nhận thức được - rằng tin tức 
và quảng cáo là hoàn toàn tách biệt, rằng những ai xử lý các vấn 
đề đó đều có những nghĩa vụ và lợi ích riêng biệt và nhóm này 
không được làm ảnh hưởng đến nhóm kia. 
73. Thành viên của phòng thời sự không được quan tâm và phải 
đảm bảo khách quan tránh bàn thảo về nhu cầu các mục tiêu và 
những vấn đề quảng cáo, trừ phi những nhu cầu hoặc các vấn đề 
đó trực tiếp liên quan đến công việc của phòng ban đó. Chẳng 
hạn, trong nhiều tình huống phòng thông tin và quảng cáo có thể 
bàn bạc về việc sắp xếp hoặc trình bày tờ báo hoặc thời hạn của 
các chuyên mục đặc biệt. 
74. Khi được tổng biên tập điều hành cho phép, các thành viên 
trong nhóm phóng viên thời sự được tham gia vào các uỷ ban 
liên phòng về những vấn đề tác động đến một số phòng ban, kể 
cả phòng thời sự. Họ nên để các vấn đề quảng cáo cho các đồng 
nghiệp phụ trách kinh doanh giải quyết càng nhiều càng tốt. 
75. Khi được tổng biên tập điều hành hoặc tổng biên tập trang tin 
xã luận cho phép, các nhân viên có thể tham gia các sự kiện do 
Thời báo tổ chức để tiếp thị hoặc quảng cáo. Tuy nhiên họ phải 
tập trung vào chuyên môn và kiềm chế không nói điều gì giống 
như lời quảng cáo bán hàng. 
76. Không ai trong phòng ban tin tức cấp dưới điều hành (trừ khi 
được tổng biên tập điều hành cho phép) được trao đổi thông tin 
với phòng quảng cáo hoặc các nhà quảng cáo về thời gian hoặc 
nội dung quảng cáo, thời gian hoặc nội dung của các bài báo 
hoặc nhiệm vụ của các nhân viên hoặc các cây bút tự do, các 
biên tập viên, các nghệ sĩ, các nhà thiết kế hoặc các nhiếp ảnh 
gia. 
77. Danh tiếng của Thời báo không thuộc về ai trong chúng ta. 
Không ai có quyền sử dụng nó vì mục đích cá nhân. 
78. Nhân viên không được dùng thẻ căn cước của Thời báo vì 
những mục đích không liên quan đến việc làm tại Thời báo. 
Không được sử dụng thẻ để đòi được đối xử đặc biệt hoặc giành 
ưu tiên từ các tổ chức chính phủ, các tổ chức thương mại hoặc 
các tổ chức khác (trừ khi yêu cầu phải có thẻ để được hưởng một 
lợi ích nào đó dành cho tất cả nhân viên Công ty Thời báo nhờ 
mối quan hệ từ thiện của quỹ công ty, chẳng hạn như vào Bảo 
tàng Metropolitan miễn phí). 
79. Nhân viên không được sử dụng đồ dùng văn phòng, thẻ 
doanh nghiệp, các hình thức hoặc các tài liệu khác vì bất cứ mục 
đích nào trừ công việc của Thời báo. 
7. NGHĨA VỤ VỚI THỜI BÁO 
Phát ngôn cho Thời báo 
80. Nhân viên không được tiết lộ thông tin mật về các hoạt động, 
chính sách hoặc kế hoạch của Thời báo hoặc của các công ty 
thành viên của Thời báo. 
81. Lãnh đạo các ban và các tổng biên tập có thể cho phép các 
nhân viên khác công khai nhận xét về các chính sách hoặc kế 
hoạch trong phạm vi thẩm quyền và chuyên môn của họ. Nếu các 
cơ quan thông tấn khác hoặc người ngoài tiếp cận nhân viên để 
tìm hiểu nội dung hoặc chính sách của Thời báo, thì họ nên đưa 
những người đó tới gặp một tổng biên tập của báo hoặc tới 
phòng thông tin của công ty để tìm hiểu. 
82. Nhân viên được tự do công khai bình luận về các hoạt động 
của họ miễn là những lời nhận xét đó không gây ấn tượng là họ 
thiếu tính khách quan của báo chí hoặc đang phát ngôn cho Thời 
báo. 
83. Tất cả các quy định hạn chế này không nên được hiểu là các 
biện pháp ngăn cản không cho nhân viên trả lời công khai và 
trung thực bất cứ câu hỏi hợp lý nào của độc giả về công việc 
của họ. Nếu một độc giả yêu cầu đính chính thì yêu cầu đó phải 
được chuyển ngay tới cấp trên. Còn nếu có yêu cầu đe dọa kiện 
tụng hoặc do một luật sư đưa ra thì khiếu nại đó phải được 
chuyển ngay cho phòng pháp lý thông qua trưởng ban. 
8. SÁCH, PHIM ẢNH, TÁI BẢN VÀ BẢN QUYỀN 
84. Bất cứ nhân viên nào có ý định viết hoặc tổng hợp thành một 
cuốn sách từ các tư liệu thu được trong khi tác nghiệp cần phải 
thông báo trước cho Thời báo để Thời báo quyết định có nên cho 
đấu thầu xuất bản tác phẩm đó hay không. Về vấn đề này, các 
nhân viên không thể chấp nhận hoặc tham gia bất cứ hình thức 
đấu thầu nào của các nhà xuất bản bên ngoài trước khi Thời báo 
xem xét dự án đó. Các phóng viên phải thông báo bằng văn bản 
cho Thời báo về bất kỳ đề xuất hoặc dự án nào bằng cách gửi 
thư hoặc thư điện tử tới trưởng ban của họ cũng như phó tổng 
biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc phó tổng biên tập phụ 
trách trang xã luận. Trong thông báo phải nêu khung thời gian 
ước tính thực hiện dự án, bao gồm thời hạn (nếu có) một nhà 
xuất bản bên ngoài đã ấn định tham gia đấu thầu dự án. 
85. Trong thời hạn nhất định, sau khi đã xem xét khung thời gian 
thực hiện dự án, Thời báo sẽ thông báo bằng văn bản cho nhân 
viên về việc có tham gia đấu thầu thực hiện dự án hay không. 
Nếu có, Thời báo sẽ tổ chức đấu thầu cạnh tranh. Cuối cùng 
nhân viên và đại lý của mình không bắt buộc phải chấp nhận lời 
mời thầu của Thời báo. Mục đích của quy trình này là đảm bảo 
cho Thời báo có tiếng nói trong mọi cuộc thương thảo, kể cả đấu 
giá, liên quan tới các cuốn sách được tổng hợp từ các tư liệu thu 
thập được theo yêu cầu công việccủa Thời báo. 
86. Các quy định trên không áp dụng với đề án hoặc dự án xuất 
bảnsách liên quan tới việc tái bản các bài báo, chuyên mục, ảnh, 
tác phẩm nghệ thuật hoặc các tài liệu khác của riêng nhân viên 
và đã được xuất bản trên Thời báo hoặc trên trang web 
nytimes.com. Thời báo hoàn toàn sở hữu những tư liệu đó, và 
không một tư liệu nào được tái bản nếu không được Thời báo 
cho phép bằng văn bản. Các tư liệu đó cũng không được viết lại, 
cập nhật hoặc sửa đổi và tái bản nếu không được Thời báo cho 
phép bằng văn bản. Các đại lý, nhà xuất bản, xưởng phim và các 
đối tượng khác thường tiếp cận nhân viên để tìm cách sở hữu 
các tư liệu đó của Thời báo. Những yêu cầu đó phải được 
chuyển ngay tới phó tổng biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc 
phó tổng biên tập trang xã luận và phòng pháp lý. Nếu một nhân 
viên được Hội Nhà báo đại diện đề nghị được thanh toán cho 
việc tái bản các bài báo mà nhân viên đó đã viết thì nhân viên đó 
nên dựa vào thỏa thuận thương lượng tập thể của Thời báo với 
Hội Nhà báo. Nhìn chung, thỏa thuận này quy định chia sẻ chi phí 
50/50. 
87. Khi cân nhắc các dự án xuất bản sách – hoặc các công việc 
khác ở bên ngoài – các nhân viên không bao giờ được gây ấn 
tượng là họ sẽ được lợi về tài chính từ kết quả của các sự kiện 
tin tức. Các nhân viên không được thương thảo với bất kỳ ai 
hoặc tổ chức bên ngoài nào về bản quyền đối với một bài báo 
hoặc ý tưởng của bài báo trước khi nó được đăng tải trên Thời 
báo. Nhân viên đang làm tin liên tiếp nhiều kỳ không được 
thương thảo viết sách, báo, làm phim, thực hiện các chương trình 
hoặc dự án truyền thông dưới bất kỳ hình thức nào dựa trên bản 
tin của mình cho đến khi kết thúc bản tin đó, ngoại trừ trường hợp 
họ được phó tổng biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc phó 
tổng biên tập phụ trách trang xã luận cho phép trước bằng văn 
bản. 
88. Không nhân viên nào được phép là đồng tác giả hoặc viết hộ 
bài cho các cá nhân, những người có tên trong bản tin họ cung 
cấp, biên tập, tổng hợp hoặc giám sát hoặc chắc chắn sẽ làm 
những việc đó. 
89. Không nhân viên nào được nghỉ phép, có lương hoặc không 
lương, để viết sách nếu không được sự đồng ý công khai của 
tổng biên tập hoặc phó tổng biên tập phụ trách trang xã luận. Tốt 
nhất là nếu họ thấy cần phải nghỉ để hoàn thành một dự án viết 
sách thì nên thông báo cho Thời báo về ý định xin nghỉ ngay từ 
lần đầu tiên trình dự án viết sách lên để Thời báo xem xét. Quyết 
định chấp nhận hay bác bỏ đơn đề nghị xin nghỉ để viết sách – 
cũng giống như hầu hết các đơn xin nghỉ phép khác – đều được 
dựa trên rất nhiều nhân tố, bao gồm những lần nghỉ viết sách 
trước đây, những điều kiện mà báo đã dành cho nhân viên, ảnh 
hưởng của việc làm đó tới nhu cầu nhân sự của ban và mức độ 
Thời báo tin tưởng về những đóng góp của dự án sách đối với lợi 
ích chung của Thời báo. Nếu một nhân viên được Hội Nhà báo 
đại diện nêu vấn đề xin phép nghỉ thì nhân viên đó nên xem thỏa 
thuận thương lượng tập thể của Thời báo với Hội Nhà báo. 
90. Nhân viên không được phép chuyển những ghi chép, các bài 
phỏng vấn, tài liệu hoặc các tư liệu làm việc khác cho bất kỳ bên 
thứ ba nào, bao gồm các đại lý, nhà xuất bản, xưởng phim hoặc 
cơ quan xuất bản bên ngoài, hoặc chia sẻ những tài liệu trên với 
họ trừ phi họ buộc phải làm vậy vì lý do pháp lý. Trong những 
trường hợp như vậy, các nhân viên sẽ được phòng pháp lý của 
Thời báo trợ giúp. (Những nhân viên được Hội Nhà báo đại diện 
quyền lợi thì nên xem thỏa thuận thương lượng tập thể về mức 
độ và phạm vi trợ giúp ). Về nguyên tắc, Thời báo sẽ không trao 
cho các nhà sản xuất thương mại hoặc các nhà xuất bản quyền 
tiếp cận các tư liệu làm việc nhiều bằng các tư liệu Thời báo có 
thể trao cho các công tố viên sử dụng tại tòa. 
91. Khoản này chỉ áp dụng với truyền hình và phim ảnh: Nhân 
viên nào được các đại lý, các nhà sản xuất, xưởng phim hoặc các 
đối tượng khác mời chào hợp đồng “tư vấn” cần phải tham khảo 
ý kiến của phó tổng biên tập phụ trách quản trị tin tức hoặc phó 
tổng biên tập phụ trách trang xã luận trước khi chấp thuận những 
hợp đồng đó. Nhân viên không được làm tư vấn cho một bộ phim 
hoặc chương trình mà họ biết trước là có dụng ý hoặc rõ ràng 
bóp méo sự thật. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vai trò tư vấn 
không nên dựa vào Thời báo hay hàm ý sự ủng hộ hoặc tham gia 
của Thời báo. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
bo_quy_tac_dao_duc_cua_the_new_york_time 3.pdf