Kết luận
Hậu quả của tình trạng dinh dưỡng kém và chế
độ dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai và cho con
bú không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến tình trạng sức
khỏe của phụ nữ mà còn có thể có các tác động tiêu
cực trên sự phát triển của trẻ sơ sinh. Bổ sung thêm
các vi chất đóng vai trò quan trọng không kém mặc
dù không thể thay thế được hoàn toàn vai trò của
chế độ ăn hợp lý hàng ngày. Dựa vào các bằng chứng
hiện có WHO đã đưa ra một số khuyến cáo như một
biện pháp can thiệp trong cộng đồng để cải thiện kết
quả thai kỳ và hỗ trợ cho những nỗ lực để đạt được
các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
- Phụ nữ độ tuổi hành kinh nên bổ sung 60 mg sắt
nguyên tố và 2.800 μg (2,8 mg) axit folic mỗi 3 tháng,
có thể lặp lại, ở cộng đồng có nguy cơ thiếu máu cao.
- Bổ sung 0,4 – 0,8 mg acid folic 1 tháng trước
khi mang thai đến 2 – 3 tháng đầu sau thụ thai để
giảm nguy cơ khuyết tật ống thần kinh, nên tiếp
tục duy trì 0,6 mg sau đó để đáp ứng nhu cầu phát
triển trong thai kỳ.
- Bổ sung sắt và acid folic hàng ngày là một
phần trong công tác chăm sóc tiền sản để giảm
nguy cơ sinh nhẹ cân, thiếu máu. Nên bổ sung từ
30 – 60 mg sắt nguyên tố và 400 μg axit folic hàng
ngày suốt thai kỳ.
- Những khu vực thiếu canxi, bổ sung canxi liều
1,5 – 2 gram hàng ngày có tác dụng dự phòng rối loạn
tăng huyết áp của thai kỳ cho tất cả phụ nữ mang thai
có nguy cơ cao tiền sản giật.
- Bổ sung Vitamin A không được khuyến cáo để
dự phòng tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tuy nhiên
có thể áp dụng để phòng ngừa bệnh quáng gà trong
quần thể có nguy cơ cao.
- Bổ sung i-ốt cho phụ nữ mang thai và cho con
bú ở những quốc gia có tỉ lệ hộ gia đình được tiếp cận
với muối i-ốt thấp hơn 20%.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bổ sung các yếu tố vi lượng trong thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Mạnh Linh, nguyễn Vũ Quốc huyTỔNG QUAN
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
16
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Trần Mạnh Linh, email: xu_linh2000@yahoo.com
Ngày nhận bài (received): 15/04/2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 06/05/2014. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 09/05/2014
Mở đầu
Trong khi mang thai và cho con bú, nhu cầu năng
lượng, protein và vi chất dinh dưỡng đều tăng đáng
kể. Theo khuyến cáo của Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ
(ACOG), những phụ nữ mang thai nên có chế độ
dinh dưỡng hợp lý bao gồm đầy đủ các thành phần
gồm chất dạm, đường, các Vitamin, chất khoáng và
các chất béo để có được thai kỳ khỏe mạnh và đảm
bảo được cho sự phát triển của thai nhi. Vai trò của
các vi chất đã được khẳng định, đặc biệt là những lợi
ích mang lại trong thai kỳ. Mặc dù cơ thể chỉ cần một
lượng rất nhỏ tuy nhiên không thể thiếu, nguồn cung
cấp chủ yếu qua thức ăn vì cơ thể không tự tổng hợp
được. Các yếu tố vi lượng có trong tất cả các loại thực
phẩm tươi sống và nhất là trong các loại rau quả tươi,
tuy nhiên hàm lượng khác nhau tùy theo loại thực
phẩm và cách chế biến [8].
Trần Mạnh Linh, nguyễn Vũ Quốc huy
Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược Huế
BỔ SUNG CÁC YẾU TỐ VI LƯỢNG TRONG THAI KỲ
Tóm tắt
Tình trạng dinh dưỡng có liên quan đến một loạt
các vấn đề sức khỏe cộng đồng và đặc biệt là các đối
tượng như trẻ em và phụ nữ mang thai, cho con bú.
Những thay đổi sinh lý trong thai kỳ kéo theo nhu
cầu năng lượng, protein và các vi chất dinh dưỡng
tăng lên đáng kể. Chính những thay đổi đó dẫn đến
tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng, đặc biệt là các vi
chất dinh dưỡng, mà hậu quả là những ảnh hưởng
trực tiếp đến tình trạng sức khỏe của phụ nữ và các
tác động tiêu cực trên sự phát triển của trẻ sơ sinh.
Vi chất dinh dưỡng là những chất mặc dù cơ thể cần
rất ít nhưng không thể thiếu. Tuy không thể thay
thế được hoàn toàn chế độ ăn hàng ngày nhưng
bổ sung các vi chất dinh dưỡng lại đóng vai trò rất
quan trọng, cần thiết cho sự phát triển thai kỳ bình
thường và dự phòng một số di tật bẩm sinh và bệnh
lý trong thai kỳ. Dựa vào các bằng chứng hiện có Tổ
chức Y tế thế giới đã đưa ra một số khuyến cáo như
một biện pháp can thiệp trong cộng đồng để cải
thiện kết quả thai kỳ và hỗ trợ cần thiết cho những
nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ đã đề ra.
Từ khóa: Vi chất dinh dưỡng, vitamin, dị tật
ống thần kinh, dự phòng tiền sản giật.
Abstract
MATERNAL MICRONUTRIENT SUPPLEMENTATION
DURING PREGNANCY
Nutrition during pregnancy is associated with a
range of health risks for the community and especially
as children, pregnant women and lactating. The
physiological changes during pregnancy result in
increased the energy, protein and micronutrients
requirements. The changes during pregnancy lead
to nutritional deficiency, especially micronutrients,
resulting directly affects to the health status of women
and the negative impact on the development of infants.
Micronutrients are substances that the body need
low concentrations but indispensable. Micronutrient
supplementation cannot be completely replaced daily
diet but having a very important role, and necessary
for the normal development of the pregnancy and
prophylaxis some fetal malformations and some diseases
in pregnancy. Based on the available evidence WHO has
developed recommendations as a public health measure
to improve pregnancy outcomes in support of their
efforts to achieve the Millennium Development Goals.
Keyword: Nutrition, micronutrients,
multivitamins, acid folic, iron, neural tube defect,
anemia, prophylaxis preeclampsia.
Cân bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý tốt nhất nên
được xây dựng từ các bữa ăn hàng ngày. Ngoài ra, bổ
sung thêm các vi chất đóng vai trò quan trọng không
kém mặc dù không thể thay thế được hoàn toàn vai trò
của chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên, rất khó để khẳng
định chắc chắn là đã được cung cấp đủ các vi chất qua
chế độ ăn hàng ngày do đó những phụ nữ mang thai
nên được bổ sung các vi chất khi có khuyến cáo của
bác sĩ [11]. Phụ nữ đang mang thai hay ở thời kỳ hậu
sản và cho con bú, nhu cầu Vitamin tăng cao so với lúc
bình thường do đó cần thiết phải bổ sung để dự phòng
tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trước khi mang
thai, trong thai kỳ và thời kỳ hậu sản, dự phòng và để
điều trị thiếu máu. Ngoài ra, có thể giúp tăng cường
phát triển hệ thống thần kinh và dự phòng các dị tật
ống thần kinh trong thai, giảm nguy cơ trầm cảm sau
sinh, giảm nguy cơ phát triển tiền sản giật, giảm nguy
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
17
Tạp chí phụ sản - 12(2), 16-22, 2014
cơ sẩy thai tự nhiên, sinh non, chậm phát triển trong tử
cung do thiếu axit folic, sắt và kẽm.
Nhu cầu cung cấp các vi chất dinh
dưỡng cho phụ nữ mang thai
Các đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất bởi sự thiếu
hụt vi chất dinh dưỡng là phụ nữ mang thai, cho con
bú và trẻ em, chủ yếu do nhu cầu Vitamin và khoáng
chất tương đối cao hơn so với người bình thường,
mặt khác những đối tượng này khi bị ảnh hưởng bởi
sự thiếu hụt dinh dưỡng thường để lại những hậu
quả trầm trọng hơn gồm nguy cơ tử vong mẹ và tử
vong chu sinh cao hơn, sinh nhẹ cân hoặc chậm phát
triển trí tuệ. Đối với trường hợp đang cho con bú, tình
trạng dinh dưỡng và bổ sung các vi chất dinh dưỡng
của sản phụ sẽ quyết định tình trạng sức khỏe và sự
phát triển của trẻ sơ sinh, đặc biệt là trong sáu tháng
đầu sau sinh. Cách phổ biến nhất để đạt được nhu cầu
dinh dưỡng hàng ngày là cung cấp hợp lý qua chế độ
ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng và tăng cường
thêm các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng. Các thực
phẩm tăng cường chẳng hạn như ngô, đậu nành, dầu
thực vật giàu Vitamin A và muối i-ốt, có thể được cung
cấp như một phần của khẩu ăn hàng ngày.
Mục đích là để ngăn chặn sự thiếu hụt vi chất dinh
dưỡng hoặc hạn chế phần nào tình trạng thiếu vi chất
trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt là những đối tượng ở
trong quần thể đang bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu
dinh dưỡng. Tuy nhiên, các loại thực phẩm này phải
được tăng cường một cách thích hợp và như một phần
thêm vào chứ không thể thay thế vì các thực phẩm tăng
cường vi chất dinh dưỡng có thể không đáp ứng đủ nhu
cầu của một số đối tượng đặc biệt dễ bị ảnh hưởng về
mặt dinh dưỡng như phụ nữ mang thai và cho con bú.
Thành phần hàm lượng
Vitamin A μg
Vitamin D μg
Vitamin E mg
Vitamin c mg
Thiamine (Vitamin B1) mg
riboflavin (Vitamin B2) mg
niacin (Vitamin B3) mg
Vitamin B6 mg
Vitamin B12 μg
Folic acid μg
sắt mg
Kẻm mg
Đồng mg
selen μg
i-ốt μg
800.0
5.0
15.0
55.0
1.4
1.4
18.0
1.9
2.6
600.0
27.0
10.0
1.15
30.0
250.0
Bảng 1. Thành phần và hàm lượng của một số vi chất dinh dưỡng khuyến cáo bổ sung hàng
ngày cho phụ nữ mang thai và cho con bú [11].
Vì lý do này UNICEF và WHO đã phát triển công
thức bổ sung vi chất dinh dưỡng cho các nhóm dễ bị
ảnh hưởng trong cộng đồng [11].
Bên cạnh chế độ ăn thì bổ sung bằng các vi chất
tổng hợp hiện nay đóng vai trò rất quan trọng và thiết
thực. Hầu hết các Vitamin tổng hợp hiện nay có chứa
rất nhiều loại Vitamin cần thiết khác nhau bao gồm axit
folic và Vitamin A, C, D, E , B2, B6, và B12. Có rất nhiều loại
Vitamin tổng hợp chẳng hạn như loại chỉ có duy nhất
một thành phần Vitamin B, hay phối hợp nhiều Vitamin
tổng hợp hay phối hợp nhiều Vitamin tổng hợp với các
khoáng chất. Hoặc chuyên biệt cho các nhóm đối tượng
cụ thể như phụ nữ mang thai, thời kỳ mãn kinh, nam
giới, trẻ em hay người lớn tuổi. Lý do các khuyến cáo
hiện nay đề nghị bổ sung Vitamin tổng hợp hàng ngày
do hiệu quả mang lại đã được khẳng định, ngoài ra, bổ
sung các Vitamin và khoáng chất tương đối an toàn với
liều lượng thấp, chi phí không quá cao.
Các chế phẩm trên thị trường hiện nay rất đa dạng
và được sản xuất với liều lượng hợp lý, có nhiều dạng
sử dụng để phù hợp với nhu cầu sử dụng hàng ngày
cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, trong khi mang thai
và cả trong thời kỳ hậu sản. Theo xu hướng nghiên cứu
phối hợp đa thành phần gồm nhiều loại Vitamin và
các khoáng chất gồm axit béo DHA/Omega-3, rất cần
cho sự phát triển não bộ ở bào thai; beta – carotene
là tiền chất của Vitamin, giúp phòng tránh tình trạng
thiếu Vitamin A, tăng cường khả năng của thị giác, tăng
cường hệ miễn dịch, chống oxi hoá. Việc sử dụng tiền
chất Vitamin là Beta – carotene cho phụ nữ mang thai sẽ
đặc biệt an toàn do tránh được tình trạng thừa Vitamin
A. Ngoài ra, các Vitamin B1, B2, B6, B12, C, D3, E, acid
Folic, Biotin, Niacin và các khoáng chất như Crom, đồng,
sắt, i-ốt, molybdenum, selen, kẽm, magie cũng được bổ
sung thêm. Với thành phần gần như bao phủ được nhu
cầu thiết yếu như vậy, các sản phẩm này có thể được chỉ
định hợp lý cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ dự định có
thai, đang có thai, hoặc đang cho con bú.
Bổ sung sắt và acid folic cho phụ nữ
trong độ tuổi sinh sản
Theo WHO, khoảng 30,2% phụ nữ trên thế giới
không mang thai bị thiếu máu. Các nguyên nhân khác
do nhiễm ký sinh trùng, viêm nhiễm, rối loạn di truyền
cấu trúc Hemoglobin, hoặc thiếu hụt Vitamin và khoáng
chất, bao gồm sắt và Vitamin A, B12 và folate. Khoảng
một nửa nguyên nhân liên quan đến thiếu máu thiếu
sắt. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo bổ sung acid folic
và sắt liên tục cho đối tượng phụ nữ trong độ tuổi sinh
sản đặc biệt ở những vùng có tỷ lệ thiếu máu cao trong
Trần Mạnh Linh, nguyễn Vũ Quốc huyTỔNG QUAN
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
18
cộng đồng để cải thiện nồng độ Hemoglobin và làm
giảm nguy cơ thiếu máu. Những phụ nữ trong độ tuổi
hành kinh nên được bổ sung 60 mg sắt nguyên tố và
2.800 μg (2,8 mg) axit folic mỗi 3 tháng và sau 3 tháng
có thể lặp lại. Ở những nơi tỷ lệ thiếu máu trong cộng
đồng ở phụ nữ không mang thai trên 20% thì nên bổ
sung cho tất cả bé gái lứa tuổi vị thành niên và phụ nữ
trưởng thành [16].
Bổ sung hàng ngày với sắt và acid folic trong ba
tháng đã được WHO xem là cách tiếp cận có hiệu quả và
thiết thực để ngăn ngừa và điều trị thiếu máu thiếu sắt ở
phụ nữ. Mặc dù hiệu quả đã được chứng minh, tuy nhiên
việc áp dụng rộng rãi không phải là dễ dàng đặc biệt ở
những nơi có nguồn lực thấp, một thách thức khác là sự
xuất hiện các tác dụng phụ nhẹ, chẳng hạn như đi cầu
phân đen, đau dạ dày, tiêu chảy, táo bón, nôn [14].
Đối với các trường hợp đã được chẩn đoán thiếu
máu, nên được điều trị bằng bổ sung hàng ngày 120
mg bằng sắt nguyên tố và 400 μg (0,4 mg) axit folic
cho đến khi nồng độ Hemoglobin trở về bình thường.
Sau đó chuyển sang chế độ liên tục để ngăn chặn
thiếu máu tái diễn.
Bổ sung sắt và acid folic cho phụ nữ
trong thai kỳ
Acid folic và dự phòng dị tật ống thần kinh
Folate là dạng tự nhiên có trong thực phẩm và có
mặt trong xanh, rau lá xanh, trái cây, ngũ cốc, ngũ cốc,
các loại hạt, và các loại thịt tươi. Axit folic là dạng tổng
hợp của Vitamin, khác biệt giữa folate và axit folic chỉ
một proton, axit folic có nhiều tác dụng sinh học
giống như folate, nhưng có khả dụng sinh học hơn do
đó cho liều hiệu quả hơn. Trong cơ thể acid folic được
khử thành tetrahydrofolat là coenzyme của nhiều
quá trình chuyển hoá trong đó có quá trình tổng hợp
các nucleotide nhân purin hoặc pyrimidin cần thiết
cho sự tổng hợp DNA. Acid folic là yếu tố không thể
thiếu được cho quá trình tổng hợp nucleoprotein và
tạo hồng cầu bình thường. Nếu thiếu acid folic sẽ gây
ra thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ giống như
thiếu máu do thiếu Vitamin B12 [3].
Nhu cầu acid folic tăng lên trong thai kỳ do nhu
cầu phân chia tế bào tăng lên của thai nhi và sự phát
triển kích thước tử cung. Acid folic cần cho tổng hợp
acid deoxyribonucleic (ADN), acid Ribonucleic (ARN)
và protein trong nhau thai, sự tăng trưởng của bào
thai, tăng số lượng tế bào hồng cầu trong máu, tăng
thải folate qua nước tiểu trong khi mang thai. Hậu quả
của thiếu hụt acid folic với phụ nữ mang thai gây thiếu
máu hồng cầu khổng lồ, nguy cơ sẩy thai cao, sinh non,
sinh con nhẹ cân. Nếu thiếu acid folic trong giai đoạn
sớm của thai kỳ sẽ tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh.
Ống thần kinh phát triển từ rất sớm vào tuần thứ 3 của
thai kỳ, bắt đầu từ ngày thứ 18, ống thần kinh sẽ bắt
đầu khép và đến ngày thứ 28 thì sẽ khép hoàn toàn.
Quá trình đóng ống thần kinh cần được cung cấp một
hàm lượng Acid Folic cần thiết vừa đủ để phát triển
hoàn thiện, tức là khép kín hoàn toàn [3]. Nếu như cơ
thể người mẹ không có đủ Acid Folic để cung cấp cho
bào thai, ống thần kinh sẽ không khép gây các dị tật
như nứt đốt sống, vô sọ, thoát vị não và các dị tật
khác như sứt môi, hở hàm ếch, dị tật tim, liệt các chi,
não úng thủy, thậm chí gây tử vong. Do vậy bổ sung
acid folic sau tháng đầu của thai kỳ sẽ không ngăn
ngừa khuyết tật ống thần kinh, tuy nhiên, nó sẽ mang
lại một số lợi ích đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
Axit folic đã được nghiên cứu để phòng ngừa nhiều
tình trạng bệnh tuy nhiên các bằng chứng rõ ràng nhất
là hiệu quả của bổ sung acid folic trong phòng ngừa các
khuyết tật ống thần kinh. Bổ sung axit folic làm giảm
nguy cơ khuyết tật ống thần kinh. Ngay từ gần 40 năm
trước, năm 1976, Smithells và công sự đã chứng minh khi
giảm nồng độ của một số vi chất dinh dưỡng, đặc biệt
là folate, trong huyết thanh của thai phụ ở thời điểm 3
tháng đầu thai kỳ liên quan đến một khuyết tật ống thần
kinh. Một thử nghiệm nhỏ của tác giả Blom tiến hành
sau đó trên những phụ nữ có tiền sử mang thai bị dị tật
ống thần kinh cho thấy khi bổ sung 0,4 – 5 mg axit folic
mỗi ngày làm giảm nguy cơ tái phát các dị tật ống thần
kinh gấp bốn lần ở những lần mang thai sau. Năm 1991,
nhóm nghiên cứu của MRC Vitamin Study Research đã
tiến hành một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi đa quốc
gia trên 1.817 phụ nữ có tiền sử mang thai bị dị tật ống
thần kinh được bổ sung acid folic, kết quả cho thấy bổ
sung acid folic làm giảm 72 % nguy cơ tái phát các dị
tật ống thần kinh. Trước đó, hiệu quả bảo vệ của việc bổ
sung acid folic đối với nguy cơ xảy ra bị dị tật ống thần
kinh đã được chứng minh chủ yếu trong các nghiên cứu
hồi cứu. Tuy nhiên, một thử nghiệm đối chứng ngẫu
nhiên lớn ở phụ nữ Hungary cho thấy bổ sung Vitamin
tổng hợp với bao gồm 0,8 mg axit folic làm giảm tát phát
dị tật ống thần kinh lên đến 93%, theo tác giả Czeizel và
Dudas 2004. Trong một báo cáo khác mới đây từ Trung
Quốc, trên các đối tượng nghiên cứu đến từ hai khu vực,
một nơi có tỷ lệ thấp và một nơi có tỷ lệ cao khuyết tật
ống thần kinh, bổ sung 400 mcg axit folic mỗi ngày ở
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản của giảm đáng kể tỷ lệ mắc
khuyết tật ống thần kinh ở cả hai khu vực. Những người
phụ nữ được bổ sung 400 mcg axit folic hàng ngày từ
thời điểm khám trước hôn nhân cho đến khi kết thúc ba
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
19
Tạp chí phụ sản - 12(2), 16-22, 2014
tháng đầu tiên của thai kỳ. Trong khu vực có tỷ lệ mắc
cao, tỷ lệ dị tật ống thần kinh là 1,0/1.000 trong bào thai
hoặc trẻ sơ sinh so với 4,8/1.000 trong bào thai hoặc trẻ
sơ sinh ở những phụ nữ không bổ sung axit folic. Tương
ứng là 0,6 và 1,0/1.000 ở nhóm được điều trị và không
được điều trị trong khu vực tỷ lệ thấp [9-14].
Các nghiên cứu về tỷ lệ khuyết tật ống thần kinh
trước và sau khi bổ sung axit folic ở những khu vực khác
nhau trên thế giới và tại những thời điểm khác nhau đã
cùng cho thấy giảm từ 25% đến 50% tỷ lệ khuyết tật ống
thần kinh trong khi các quốc gia không có can thiệp thì tỉ
lệ này không thay đổi [11].
Kết quả của những nghiên cứu này đã đưa ra một số
khuyến cáo chung cho phụ nữ dự định có thai nên bổ
sung 0,4 mg axit folic mỗi ngày ít nhất 1 tháng trước khi
thụ thai và trong ba tháng đầu của thai kỳ. Theo Pitkin,
2007, phụ nữ có nguy cơ cao như có tiền sử mang thai
bị dị tật ống thần kinh nên bổ sung 4 mg acid folic hàng
ngày trong giai đoạn thụ thai [14].
Liều tối ưu của axit folic để ngăn ngừa khuyết tật
ống thần kinh chưa được thống nhất, tuy nhiên đối
với hầu hết phụ nữ có nguy cơ trung bình, 400 - 800
mcg hàng ngày là đủ. Vì vậy, phụ nữ có thể mang thai
nên bổ sung của 400 đến 800 mcg axit folic hàng
ngày. Điều này phù hợp với khuyến cáo của Cục Dự
phòng Hoa Kỳ (The United States Preventive Services
Task Force - USPSTF), nên bổ sung 0,4 – 0,8 mg acid
folic một tháng trước khi mang thai cho đến 2 – 3
tháng đầu sau khi thụ thai để giảm nguy cơ khuyết
tật ống thần kinh, tiếp tục bổ sung 0,6 mg được
khuyến cáo sau đó để đáp ứng nhu cầu phát triển của
thai nhi và nhau thai. Tiếp tục bổ sung acid folic sau
ba tháng đầu thai kỳ ngăn chặn sự suy giảm folate
trong huyết thanh và tăng nồng độ homocysteine
xảy ra khi ngừng bổ sung [9]. Tượng tự vậy, Viện Hàn
lâm Quốc gia Hoa Kỳ khuyến cáo nên bổ sung thêm
400 mcg ngoài lượng cung cấp hàng ngày qua chế
độ ăn (khoảng 200 mcg/ngày cho một người phụ nữ
trung bình). Tuy nhiên, liều lượng cao hơn cũng có
thể cần thiết để giảm tối đa nguy cơ khuyết tật ống
thần kinh, đặc biệt ở những đối tượng đã từng mang
thai bị khuyết tật ống thần kinh.
Bổ sung sắt và acid folic dự phòng thiếu máu cho
phụ nữ trong thai kỳ
Theo WHO, ước tính khoảng 41,8% phụ nữ mang thai
trên toàn thế giới bị thiếu máu, trong đó ít nhất khoảng
một nữa thiếu máu liên quan đến thiếu sắt, phần còn
lại do các điều kiện khác như folate, Vitamin B12 hoặc
thiếu hụt Vitamin A, viêm mãn tính, nhiễm ký sinh trùng
và các rối loạn di truyền. Một người phụ nữ mang thai
được chẩn đoán thiếu máu nếu nồng độ Hemoglobin
trong ba tháng đầu và ba tháng giữa thai kỳ thấp hơn
so với 110 g/l. Trong ba tháng giữa thai kỳ, nồng độ
Hemoglobin thường giảm khoảng 5 g/L. Khi thiếu máu
được đi kèm với một dấu hiệu của thiếu sắt (ferritin ví
dụ như thấp) thì được gọi là thiếu máu thiếu sắt. Nồng
độ thấp Hemoglobin trong thiếu máu trung bình hoặc
nặng khi mang thai ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và
phát triển của thai nhi không chỉ trong tử cung mà còn
kéo dài đến sau sinh, có liên quan với tăng nguy cơ sinh
non, tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh, và nguy cơ mắc các
bệnh truyền nhiễm [16].
Ngược lại, nồng độ Hemoglobin lớn hơn 130 g/l
cũng liên quan đến kết quả thai kỳ không tốt như sinh
non và nhẹ cân.
Bằng chứng từ một tổng quan Cochrane đánh giá
những lợi ích và tác hại của việc bổ sung sắt ở phụ nữ
mang thai khỏe mạnh gồm 60 nghiên cứu ngẫu nhiên có
đối chứng trên 27.402 phụ nữ từ 30 quốc gia khác nhau.
Trong đó 43 thử nghiệm đủ tiêu chuẩn, 16 thử nghiệm
có chất lượng được đánh giá rất cao. Có 23 nghiên cứu
được tiến hành trong năm 2011, bao gồm cả một số
quốc gia có nguy cơ sốt rét, đó là những nơi sốt rét chỉ
xẩy ra chủ yếu trong một số khu vực nhất định hoặc sốt
rét tăng cao một cách đặc biệt, chỉ 2 trong số các nghiên
cứu có báo cáo về kết quả sốt rét. Kết quả đã cho thấy
những phụ nữ bổ sung sắt hàng ngày giảm nguy cơ sinh
nhẹ cân nhẹ cân hơn so với nhóm nhứng (RR 0.81, 95%
CI, 0.68 – 0.97, trong 11 nghiên cứu), kết quả cân nặng
trung bình lớn hơn 30,81g ở nhóm trẻ sơ sinh có mẹ
nhận được sắt trong thai kỳ (95% CI 5.94 – 55.68 g, trong
14 nghiên cứu). Không có ảnh hưởng đáng kể đến sinh
non hoặc tử vong sơ sinh. Bổ sung sắt hàng ngày làm
giảm 70% nguy cơ thiếu máu mẹ (RR 0.30, 95% CI 0.19
– 0.46, trong 14 nghiên cứu) và 57% thiếu sắt trong thai
kỳ (RR 0.43, 95% CI 0.27 – 0.66, có 7 nghiên cứu), nhưng
không có ảnh hưởng đáng kể đến nguy cơ nhiễm trùng
(RR 1.16, 95% CI 0.83 – 1.63, có 2 nghiên cứu) [14-16].
Dựa trên các bằng chứng thu thập được, WHO
khuyến cáo việc bổ sung sắt và acid folic đường uống
hàng như là một phần trong công tác chăm sóc tiền sản
để giảm nguy cơ sinh con nhẹ cân, thiếu máu mẹ và
thiếu sắt. Ở phụ nữ mang thai, nên bổ sung từ 30 – 60
mg sắt nguyên tố và 400 μg (0,4 mg) axit folic hàng ngày
suốt thai kỳ. Bổ sung sắt và acid folic nên bắt đầu càng
sớm nhất có thể.
Khuyến cáo tương tự đối với nhóm thai phụ mang
thai không bị thiếu máu, đồng thời với việc kiểm tra tình
trạng thiếu máu ở thời kỳ tiền sản và hậu sản, ngăn chặn
và kiểm soát bệnh lý sốt rét, nhiễm giun móc.
Trần Mạnh Linh, nguyễn Vũ Quốc huyTỔNG QUAN
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
20
Một số lợi ích tiềm năng khác khi bổ sung acid
folic trong thai kỳ
Một số dị tật bẩm sinh có thể là kết quả của sự
tương tác phức tạp liên quan đến mẹ và hệ gen thai
nhi và các yếu tố môi trường chẳng hạn như thiếu
hụt folate trong độ tuổi sinh sản. Ví dụ, đa hình MDR1
3435 C<T xuất hiện làm thay đổi tiếp xúc với tế bào để
gây quái thai có tiềm năng đặc biệt khi gặp tình trạng
thiếu hụt folate. Phụ nữ mang đột biến này nếu không
bổ sung acid folic trong khi mang thai có nguy cơ cao
bị sứt môi hở hàm ếch, hoặc bệnh tim bẩm sinh hơn
những phụ nữ bình thường.
Một phân tích gộp cho thấy bổ sung axit folic trước
khi sinh làm giảm nguy cơ cho một số dị tật bẩm sinh
không chỉ các dị tật ống thần kinh. Tuy nhiên, trong khi
một phân tích khác chỉ ra rằng chỉ bổ sung axit folic
hoặc kết hợp với các Vitamin và khoáng chất khác cho
thấy lợi ích không rõ ràng trong giảm dị tật bẩm sinh
(trừ các dị tật ống thần kinh) hoặc sẩy thai. Một số báo
cáo riêng lẽ cho thấy bổ sung acid folic, thường là một
phần trong các chế phẩm Vitamin tổng hợp, có liên
quan với giảm tật chậm nói nặng, tiền sản giật, sinh
non, chậm phát triển, một số bệnh ung thư ở trẻ em,
khuyết tật tim, tự kỷ. Tuy nhiên đến năm 2013, trong
một tổng quan hệ thống mới nhất về ảnh hưởng của
việc bổ sung acid folic trong khi mang thai cho kết quả
chưa thấy có liên quan đến sự giảm đáng kể trong sinh
non hoặc tử vong chu sinh. Do đó, những lợi ích này
cần phải được yêu cầu tiếp tục nghiên cứu và chứng
minh, cũng như đánh thêm về giá liều tối ưu.
Bổ sung Canxi và Vitamin D cho phụ
nữ trong thai kỳ
Bổ sung canxi, liều 1,5 – 2gram cacbonat canxi
mỗi ngày, đã được xác định có tác dụng dự phòng rối
loạn tăng huyết áp của thai kỳ. Vấn đề đã được chứng
minh trong một phân tích Cochrane gồm 13 nghiên
cứu ngẫu nhiên hơn 15.000 phụ nữ trong đánh giá tác
động của việc bổ sung canxi đến phát triển của các rối
loạn tăng huyết áp trong thai kỳ. Bổ sung canxi làm
giảm phát triển TSG (0,45 RR, 95% CI 0,31-0,65), giảm
nguy cơ sinh non (0.76 RR, 95% CI 0,60-0,97). Trong các
Thành phần bổ sung sắt: 30 – 60 mg, acid Folic: 400 μg (0.4 mg)
Tần số
Thời gian
Đối tượng
nơi áp dụng
- Bổ sung hàng ngày
- Trong suốt thai kỳ. Bổ sung sắt và acid folic nên bắt đầu càng sớm càng tốt
- Tất cả phụ nữ mang thai ở mọi lứa tuổi
- Tất cả mọi nơi
Bảng 2. Khuyến cáo bổ sung sắt và acid folic ở phụ nữ mang thai [11].
Hàm lượng 30 mg sắt nguyên tố tương đương với 150 mg sắt dạng heptahydrate
sulfate, 90 mg dạng ferrous fumarate hoặc 250 mg ferrous gluconate.
nhóm này, cung cấp canxi đặc biệt làm giảm tỷ lệ nguy
cơ lớn nhất là ở nhóm phụ nữ có nguy cơ cao của TSG
(5 nghiên cứu trên 587 phụ nữ: RR 0,22, 95% CI 0,12-
0,42), và cho những đối tượng có lượng canxi cung cấp
cơ bản thấp (8 nghiên cứu nghiệm trên 10.678 phụ
nữ: RR 0,36, 95% CI 0,20-0,65). Tuy nhiên, một nghiên
cứu lớn của WHO ở những phụ nữ có lượng canxi cung
cấp cơ bản thấp đã cho thấy không làm giảm tỷ lệ TSG,
nhưng có một sự giảm có ý nghĩa khi bắt đầu phát
triển sớm TSG và bệnh nặng [2].
Vai trò của cung cấp canxi ở những phụ nữ nguy
cơ thấp với chế độ ăn uống bình thường, lượng canxi
đầy đủ cho thấy bổ sung canxi không có ý nghĩa trong
việc ngăn ngừa TSG, ngược với các nghiên cứu nhóm
nguy cơ cao. Tại Hoa Kỳ, trong thử nghiệm trên 4.589
phụ nữ mang thai con so khỏe mạnh tuổi thai 13 – 21
tuần được phân ngẫu nhiên nhóm nhận được canxi
(2 gram/ngày) và nhóm giả dược. Kết luận không có
sự khác biệt giữa hai nhóm này về tỷ lệ xuất hiện TSG,
6,9% so với 7,3% [5-6].
Với các bằng chứng thu thập được, WHO khuyến cáo
trong các quần thể có sự thiếu hụt canxi, bổ sung canxi
được khuyến cáo như là một phần của công tác chăm
sóc trước để dự phòng tiền sản giật ở phụ nữ mang thai,
đặc biệt là trong những đối tượng có nguy cơ cao phát
triển bệnh cao huyết áp (khuyến cáo mạnh) [15].
Khi mang thai và cho con bú bổ sung canxi thường
được khuyến khích để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng
cho cơ thể và có lợi cho sức khỏe chung của mẹ và con.
Nhìn chung, nhu cầu bổ sung trong chế độ ăn ở phụ nữ
mang thai trong khoảng 1.000 – 1.300 mg hàng ngày,
tùy vào tuổi thai, tối đa không quá 2.500 mg/ngày. Mặc
dù bổ sung canxi để dự phòng các rối loạn tăng huyết
áp là phương pháp tương đối rẻ tiền và dễ tiếp cận, tuy
nhiên, cần chú ý liều canxi trên 500 mg/ngày. Ngoài ra,
canxi làm giảm độ ổn định của thuốc khi ở trong môi
trường hỗn hợp và ngăn cản sự hấp thu của sắt, kẽm,
magiê và phốt-pho, chính vì vậy một số nhà sản xuất
không cho canxi chung với hỗn hợp có chứa sắt. Đây
được xem là một công thức đạt tiêu chuẩn hiện nay.
Thành phần bổ sung 1,5–2,0 g canxi nguyên tố /ngày
Tần số
Thời gian
Đối tượng
nơi áp dụng
- hàng ngày, với tổng liều hàng ngày được chia thành ba liều (tốt hơn uống khi ăn)
- Bắt đầu từ tuần thứ 20 cho đến hết thai kỳ.
- Tất cả phụ nữ mang thai, đặc biệt nhóm nguy cơ cao Tiền sản giật
- những nơi thiếu canxi
Bảng 3. Khuyến cáo bổ sung canxi cho phụ nữ mang thai.
- 1 gram canxi nguyên tố tương đương với 2,5 g canxi cacbonat hoặc 4 g canxi citrate.
- Đối tượng nguy cơ cao phát triển tăng huyết áp thai kỳ và tiền sản giật khi có một hoặc
nhiều các yếu tố nguy cơ sau: béo phì, tiền sử mang thai tiền sản giật, đái tháo đường, tăng
huyết áp mạn tính, bệnh thận, bệnh tự miễn dịch, con so, tuổi của người mẹ cao, mang thai
vị thành niên và thai thai.
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
21
Tạp chí phụ sản - 12(2), 16-22, 2014
Các nghiên cứu quan sát đã báo cáo về mối liên
quan giữa tình trạng thiếu Vitamin D và tăng nguy cơ
TSG và thời điểm bắt đầu sớm TSG nặng. Một nghiên
cứu cho thấy giảm 29% nguy cơ TSG ở phụ nữ có bổ
sung Vitamin D (10 – 15 microgram/ngày, tương đương
400 – 600 IU/ngày).
Bổ sung Vitamin A và các carotenoid
Trong thai kỳ, Vitamin A rất cần thiết cho sức khỏe
của người mẹ cũng như sự phát triển của thai nhi.
Vitamin A rất quan trọng cho quá trình phân chia tế bào,
phát triển các cơ quan của thai nhi, phát triển hệ xương,
hệ thống miễn dịch qua đó chống lại các bệnh nhiễm
trùng, và phát triển thị lực ở thai nhi cũng như duy trì sức
khỏe và thị lực mẹ. Do đó, nhu cầu Vitamin A tăng cao
trong thời gian mang thai, mặc dù số lượng bổ sung cần
thiết là nhỏ và tập trung vào ba tháng cuối thai kỳ. Tỷ lệ
bệnh quáng gà, như là một hệ quả của thiếu Vitamin
A, phổ biến hơn trong ba tháng cuối thai kỳ. Hiện nay,
ước tính có 9,8 triệu phụ nữ mang thai bị ảnh hưởng bởi
bệnh quáng gà trên toàn thế giới. Theo hai tổng quan
hệ thống Cochrane, đánh giá ảnh hưởng và tính an toàn
của bổ sung Vitamin A ở phụ nữ mang thai, cho thấy bổ
sung Vitamin A làm giảm nguy cơ bệnh quáng gà mẹ
(một thử nghiệm) tuy nhiên không có sự khác biệt trong
tỷ lệ thai thai chết lưu và tử vong sơ sinh giữa phụ nữ có
bổ sung Vitamin A so với nhóm chứng [13].
Sau khi phân tích các bằng chứng hiện có, WHO xây
dựng hướng dẫn việc bổ sung Vitamin A là không được
khuyến cáo trong khi mang thai như là một phần của
công tác chăm sóc tiền sản nhằm phòng chống bệnh tật
và tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh (khuyến cáo mạnh).
Bổ sung Vitamin A chỉ được áp dụng để phòng ngừa
bệnh quáng gà khi trong quần thể có tỷ lệ bị quáng gà
trên 5% liên quan đến thiếu Vitamin A. Liều Vitamin A
hàng ngày tối đa 10.000 IU hoặc liều hàng tuần 25.000
IU, thời gian bổ sung Vitamin A nên vào thời điểm thai
sau 12 tuần, áp dụng ở những quần thể có tỉ lệ quáng gà
trong cộng đồng trên 5% hoặc cao hơn ở phụ nữ mang
thai hoặc cao hơn 5% ở nhóm trẻ em 24 – 59 tháng tuổi.
Bổ sung với tiền chất Vitamin A liều trên 10.000 IU
trong ba tháng đầu của thai kỳ đã được chứng minh là
làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh [13].
Phụ nữ mang thai nên được hướng dẫn để xây dựng
chế độ dinh dưỡng đầy đủ thông qua chế độ ăn hợp
lý hàng ngày. Các can thiệp khác như bổ sung các chất
dinh dưỡng giàu tiền chất Vitamin A có thể sử dụng để
cải thiện khẩu phần Vitamin A. Nguồn thực phẩm của
tiền chất Vitamin A bao gồm các loại rau như cà rốt, bí
ngô, đu đủ và dầu cọ đỏ, thức ăn nguồn gốc động vật
giàu tiền chất Vitamin A bao gồm các sản phẩm sữa (sữa
nguyên chất, sữa chua, phô mai), gan, dầu cá và sữa mẹ.
Bổ sung i-ốt tối ưu ở phụ nữ mang thai
và cho con bú
Phụ nữ mang thai và cho con bú là đối tượng thường
hay bị bỏ quên chế độ dinh dưỡng đủ i-ốt. Tình trạng
này có thể gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển
não bộ của thai nhi và trẻ nhỏ. Trong những trường hợp
cụ thể, nên bổ sung thêm lượng i-ốt cho phụ nữ mang
thai, cho con bú và cung cấp thực phẩm có bổ sung có
bổ sung iốt cho trẻ em 6 - 23 tháng tuổi. WHO và UNICEF
khuyến cáo nên bổ sung i-ốt cho phụ nữ mang thai và
cho con bú ở những quốc gia có tỉ lệ hộ gia đình được
tiếp cận với muối dưới i-ốt 20% cho đến khi chương
trình cung cấp muối i-ốt được thực hiện [11].
Một số vi chất dinh dưỡng khác
Kẽm cần thiết cho sự phát triển bình thường
của thai nhi, thiếu kẽm nghiêm trọng có liên quan
đến thai chậm phát triển, các nghiên cứu quan sát
cho rằng bổ sung kẽm có thể làm tăng trọng lượng
lúc sinh. Tuy nhiên, trong một tổng quan hệ thống
gần đây phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu
nhiên về hiệu quả của việc bổ sung kẽm trước khi
sinh cao hơn so với chuẩn cung cấp hàng ngày
trong thai kỳ (15 - 62 mg/ngày so với nhu cầu
chuẩn hàng ngày là 11 mg), cho thấy bổ sung kẽm
không có ảnh hưởng trọng lượng lúc sinh. Trong
một hệ thống các thử nghiệm ngẫu nhiên bổ sung
kẽm hàng ngày so với không bổ sung kẽm, kết quả
không cải thiện bất kỳ kết quả nào ngoại trừ giảm
14% tỉ lệ sinh non trong các thử nghiệm mà chủ
yếu tham gia phụ nữ có thu nhập thấp (RR 0.86, 95
% CI 0,76-0,97).
Ngoài ra một số các vi chất dinh dưỡng khác
như Thiamine (Vitamin B1), Vitamin B6, Vitamin
E đều đóng vai trò quan trọng đảm bảo sự
phát triển bình thường của thai nhi. Hiên nay, các
Vitamin tổng hợp được sản xuất khá phổ biến và
sãng có, được phối hợp đa thành phần gồm nhiều
loại Vitamin và các khoáng chất với liều lượng hợp
lý, nhiều dạng sử dụng gần như bao phủ được nhu
cầu thiết yếu cho nhiều đối tượng, các sản phẩm
nhóm cộng đồng Bổ sung iodine hàng ngày (μg/ngày)
Bổ sung iodine liều duy
nhất dầu iodine (mg/năm)
phụ nữ mang thai
phụ nữ cho con bú
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (15–49 tuổi)
250
250
150
400
400
400
Bảng 4. Khuyến cáo bổ sung i-ốt cho các nhóm đối tượng
Trần Mạnh Linh, nguyễn Vũ Quốc huyTỔNG QUAN
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
22
này có thể được bổ sung hợp lý cho phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ, mang thai hoặc đang cho con
bú, tuy nhiên, các can thiệp nên thực hiện khi có
khuyến cáo của bác sĩ.
Kết luận
Hậu quả của tình trạng dinh dưỡng kém và chế
độ dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai và cho con
bú không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến tình trạng sức
khỏe của phụ nữ mà còn có thể có các tác động tiêu
cực trên sự phát triển của trẻ sơ sinh. Bổ sung thêm
các vi chất đóng vai trò quan trọng không kém mặc
dù không thể thay thế được hoàn toàn vai trò của
chế độ ăn hợp lý hàng ngày. Dựa vào các bằng chứng
hiện có WHO đã đưa ra một số khuyến cáo như một
biện pháp can thiệp trong cộng đồng để cải thiện kết
quả thai kỳ và hỗ trợ cho những nỗ lực để đạt được
các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
- Phụ nữ độ tuổi hành kinh nên bổ sung 60 mg sắt
nguyên tố và 2.800 μg (2,8 mg) axit folic mỗi 3 tháng,
có thể lặp lại, ở cộng đồng có nguy cơ thiếu máu cao.
- Bổ sung 0,4 – 0,8 mg acid folic 1 tháng trước
khi mang thai đến 2 – 3 tháng đầu sau thụ thai để
giảm nguy cơ khuyết tật ống thần kinh, nên tiếp
tục duy trì 0,6 mg sau đó để đáp ứng nhu cầu phát
triển trong thai kỳ.
- Bổ sung sắt và acid folic hàng ngày là một
phần trong công tác chăm sóc tiền sản để giảm
nguy cơ sinh nhẹ cân, thiếu máu. Nên bổ sung từ
30 – 60 mg sắt nguyên tố và 400 μg axit folic hàng
ngày suốt thai kỳ.
- Những khu vực thiếu canxi, bổ sung canxi liều
1,5 – 2 gram hàng ngày có tác dụng dự phòng rối loạn
tăng huyết áp của thai kỳ cho tất cả phụ nữ mang thai
có nguy cơ cao tiền sản giật.
- Bổ sung Vitamin A không được khuyến cáo để
dự phòng tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tuy nhiên
có thể áp dụng để phòng ngừa bệnh quáng gà trong
quần thể có nguy cơ cao.
- Bổ sung i-ốt cho phụ nữ mang thai và cho con
bú ở những quốc gia có tỉ lệ hộ gia đình được tiếp cận
với muối i-ốt thấp hơn 20%.
Tài liệu tham khảo
1. Donata Grajecki, Birgit Christine Zyriax, Kai J. Buhling,
2012, The effect of micronutrient supplements on female
fertility: a systematic review. Arch Gynecol Obstet (2012),
285:1463–1471.
2. Gus Dekker, Baha Sibai, 2001, Primary, secondary, and tertiary
prevention of pre-eclampsia. The Lancet, 357 (9251): 209–215.
3. Henk J. Blom, Yvo Smulders, 2011, Overview of
homocysteine and folate metabolism. With special
references to cardiovascular disease and neural tube
defects. J Inherit Metab Dis (2011) 34:75–81.
4. Janet M Catov, Lisa M Bodnar, Jorn Olsen, Sjurdur Olsen,
Ellen A Nohr, 2011, Periconceptional multivitamin use and risk
of preterm or small for gestational age births in the Danish
National Birth Cohort. Am J Clin Nutr 2011; 94: 906–12.
5. Lachmeijer A.M.A. et al, 2002, Searching for preeclampsia
genes: the current position. European journal of Obstetrics &
Gynecology and Reproductive Biology, 105 (2): 94–113.
6. Levine R.J., Hauth J.C., Curet L.B., Sibai B.M., Catalano
P.M., Morris C.D., Der Simonian R., Esterlitz J.R., Raymond
E.G., Bild D.E., Clemens J.D., Cutler J.A., 1997, Trial of calcium
to prevent preeclampsia. N Engl J Med, 337 (2): 69–76.
7. Lisa M. Bodnar, Gong Tang, Roberta B. Ness, Gail Harger,
James M. Roberts, 2006, Periconceptional Multivitamin Use
Reduces the Risk of Preeclampsia. Am J Epidemiol 2006;
164: 470–477.
8. Phan Bích Nga, 2012, Thiếu vi chất dinh dưỡng ở mẹ và
con và hiệu quả bổ sung đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng
bào thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Luận án tiến sỹ
dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng 2012.
9. U.S. Preventive Services Task Force, 2009, Clinical
Guidelines: Folic Acid for the Prevention of Neural Tube
Defects: U.S. Preventive Services Task Force Recommendation
Statement. Ann Intern Med. 2009;150:626-631.
10. Vriesea S.R., Christophea A.B., Maesb M., 2003,
Lowered serum n-3 polyunsaturated fatty acid (PUFA)
levels predict the occurrence of postpartum depression:
Further evidence that lowered n-PUFAs are related to major
depression. Life Sciences 73 (2003) 3181–3187.
11. WHO Library Cataloguing-in-Publication Data, 2013,
Essential nutrition actions: improving maternal, newborn,
infant and young child health and nutrition. World Health
Organization 2013.
12. WHO Library Cataloguing-in-Publication Data, 2013,
WHO recommendations for Prevention and treatment of pre-
eclampsia and eclampsia. World Health Organization 2013.
13. WHO, 2011, Guideline: Vitamin A supplementation in
postpartum women. World Health Organization, 2011.
14. WHO, 2012, Guideline: Daily iron and folic acid in
pregnant women. Geneva, World Health Organization, 2012.
15. WHO, 2013, Guideline: Calcium supplementation in
pregnant women. Geneva, World Health Organization, 2013.
16. WHO, 2011, Guideline: Intermittent iron and folic acid
supplementation in menstruating women. Geneva, World
Health Organization, 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
bo_sung_cac_yeu_to_vi_luong_trong_thai_ky.pdf