Điều trị
Điều trị bóc tách đơn độc ĐM MTTT chưa có thống
nhất giữa các tác giả, điều trị chủ yếu dựa vào phân loại
tổn thương trên hình ảnh CLVT và diễn biến lâm sàng.
Đối với các bệnh nhân không có biểu hiện triệu
chứng thường được điều trị bảo tồn bằng dùng các
thuốc chống đông và điều trị các bệnh phối hợp kèm
theo, tuy nhiên đối với các trường hợp bóc tách kéo dài,
kèm theo có giả phình mạch mà kích thước tăng lên khi
theo dõi cần điều trị can thiệp, tùy từng trường hợp mà
phương pháp phẫu thuật hay đặt stent lòng mạch được
lựa chọn [8].
Đối với các bệnh nhân có biểu hiện các triệu chứng
như đau bụng và thiếu máu ruột thì tùy từng mức độ để
điều trị, với các bệnh nhân thiếu máu nặng, nhồi máu
ruột cần điều trị can thiệp cấp cứu bằng can thiệp nội
mạch hoặc phẫu thuật. Đối với các bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng nhưng không có biểu hiện thiếu máu
hay thiếu máu mức độ vừa (đau sau khi ăn) điều trị nội
khoa là lựa chọn đầu tiên[8].
Hai bệnh nhân của chúng tôi được chẩn đoán
phân loại type IVa và IIb theo Sakamoto, bệnh nhân
thứ nhất có hẹp lòng ĐM MTTT tuy nhiên cả hai bệnh
nhân đều đáp ứng tốt với điều trị nội khoa, không cần
can thiệp.
Bệnh nhân điều trị bảo tồn cần phải theo dõi các
dấu hiệu của nhồi máu ruột và được kiểm tra kết quả
điều trị sau 1 tuần, sau 1 tháng, sau đó kiểm tra định kì
4 tháng/1 lần.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bóc tách động mạch mạc treo tràng trên đơn độc chẩn đoán và điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201560
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
BÓC TÁCH ĐỘNG MẠCH MẠC TREO TRÀNG
TRÊN ĐƠN ĐỘC CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
Lê Thanh Dũng*, Lê Thị Hồng Phương*, Phạm Hữu Khuyên*,
Vũ Hải Thanh*
SUMMARRY
Isolated superior mesenteric artery (SMA) dissection, with no other abnormality or aortic dissection, is unusual.
Diagnosis base on the aid of Doppler and 64-slice multidetector CT. We report two cases of isolated spontaneous
SMA dissection without aortic involvement in two patients who had presented with epigastric pain that was especially
worse after food intake. Examen on 64-slice multidetector CT show an isolated SMA dissection, not involving the
aorta. These patients were managed conservatively with anticoagulants.
Keyword: Isolated superior mesenteric artery.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bóc tách động mạch mạc treo tràng trên đơn độc
không kèm theo tổn thương động mạch chủ bụng là
bệnh hiếm gặp, tính đến năm 2005 có 56 trường hợp
được báo cáo trong y văn [1]. Chẩn đoán dựa trên siêu
âm Doppler và chụp cắt lớp vi tính đa dãy. Nguyên
nhân gây ra chưa khẳng định rõ ràng mặc dù có nhiều
yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh, hiện chưa có thống
nhất về cách phân loại, theo dõi và điều trị. Triệu chứng
lâm sàng hay gặp nhất ở các bệnh nhân là đau bụng
cấp vùng thượng vị [12].
Chúng tôi trình bày hai trường hợp bệnh nhân đau
bụng cấp được chẩn đoán bóc tách động mạch mạc
treo tràng trên đơn độc và theo dõi điều trị tại Bệnh viện
Việt Đức.
II. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
1. Trường hợp thứ nhất
Bệnh nhân nam 49 tuổi, mã số vào viện 44492,
không có tiền sử các bệnh huyết áp, tim mạch hay
chấn thương, vào viện với lý do đau bụng đột ngột vùng
thượng vị, đau tăng lên sau ăn.
Khám lâm sàng: bụng mềm không chướng không
có điểm đau khu trú, không có phản ứng thành bụng
hay cảm ứng phúc mạc, các xét nghiệm sinh hóa và
huyết học trong giới hạn bình thường.
Chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm Doppler thấy huyết
khối giảm âm thành động mạch (ĐM) mạc treo tràng
trên (MTTT) làm hẹp khoảng 70% lòng mạch (hình 1).
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Việt Đức
Hình 1. Hình ảnh Doppler ĐM MTTT có huyết khối
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 61
DIỄN ĐÀN
Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) 64 dãy có tiêm thuốc cản quang và dựng hình mạch máu thấy hình ảnh ĐM MTTT
bóc tách cách vị trí xuất phát 15mm, lòng giả lấp đầy huyết khối. Các nhánh của ĐM MTTT còn ngấm thuốc sau
tiêm (Hình 2)1.
Hình 2. Chụp CLVT 64 dãy dựng hình ĐM MTTT
Hình ảnh siêu âm và CLVT không có biểu hiện thiếu máu ruột, không có bất thường động mạch chủ bụng và
các tạng trong ổ bụng.
Bệnh nhân được điều trị bảo tồn bằng chống đông Heparin (250) liều 300UI/kg/24giờ sau đó dùng Heparin
trọng lượng phân tử thấp (Lovenox) liều 0,8ml/ngày. Trong quá trình điều trị, bệnh nhân đỡ đau dần. Sau 1 tuần điều
trị, bệnh nhân không còn triệu chứng đau và chụp CLVT 64 dãy không thấy bệnh tiến triển (Hình 3). Bệnh nhân ra
viện trong tình trạng ổn định, điều trị ngoại trú Sintrom liều 2mg/ngày.
Hình 3. Động mạch mạc treo tràng trên sau 1 tuần điều trị bảo tồn
2. Trường hợp thứ hai
Bệnh nhân nữ 45 tuổi, mã số vào viện 4247, vào viện với lý do đau bụng vùng thượng vị, bệnh nhân không có
tiền sử về các bệnh tim mạch, tiểu đường. Khám lâm sàng: bụng mềm không chướng không có điểm đau khu trú,
không có phản ứng thành bụng hay cảm ứng phúc mạc. Nội soi dạ dày bình thường. Các xét nghiệm không thấy
bất thường. Siêu âm ổ bụng cho kết quả không phát hiện bất thường. Siêu âm Doppler mạch máu ổ bụng nghi ngờ
có huyết khối bán phần ĐM MTTT (hình 4). Bệnh nhân được chụp CLVT 64 dãy ổ bụng có tiêm thuốc cản quang và
dựng hình mạch máu ổ bụng, kết quả: hình ảnh bóc tách động mạch mạc treo, không kèm theo tổn thương động
mạch chủ bụng, không có dấu hiệu thiếu máu ruột (hình 5).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201562
DIỄN ĐÀN
Hình 4. Hình ảnh siêu âm Doppler ĐM MTTT
Hình 5. CLVT có hình ảnh bóc tách ĐM MTTT
Bệnh nhân này cũng được điều trị bảo tồn bằng thuốc chống đông Heparin 10000UI/ngày và Aspegic 100mg/
ngày trong thời gian 7 ngày. Bệnh nhân hết đau bụng, được điều trị ngoại trú bằng thuốc chống đông Aspergic
100mg/ngày.
Kiểm tra siêu âm Doppler và CLVT 64 dãy sau 3 tháng, tình trạng bệnh ổn định, hết đau bụng, không tiến triển
(Hình 6).
Hình 6. Chụp CLVT 64 dãy sau 3 tháng điều trị
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 63
DIỄN ĐÀN
III. BÀN LUẬN
Bóc tách ĐM MTTT đơn độc là bệnh hiếm gặp
trước đây, tuy nhiên tỷ lệ phát hiện ngày càng tăng nhờ
tiến bộ của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, đặc
biệt là chụp cắt lớp vi tính đa dãy có tiêm thuốc cản
quang.
1. Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra bóc tách ĐM MTTT đến nay
còn chưa rõ ràng, nghiên cứu của nhiều tác giả cho
thấy một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến được mô
tả như các bệnh nhân tăng huyết áp, nghiện thuốc lá,
bệnh lý xơ vữa động mạch, các bệnh lý liên quan đến
tổ chức liên kết thành mạch (hội chứng Marfan, Ehlers-
Danlos), các bệnh nhân có tiền sử chấn thương, phẫu
thuật trong ổ bụng, hoặc các bệnh nhân có tiền sử can
thiệp sản khoa [7].
Theo giả thuyết Solis và cộng sự đưa ra, bóc tách
có thể do áp lực tác động lên thành động mạch ở bờ
dưới tụy vì điểm bắt đấu bóc tách thường từ 3-4cm từ
lỗ ĐM MTTT tương ứng với bờ dưới tụy [6]. Hai bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi không xác định
được nguyên nhân cũng như yếu tố ảnh hưởng như
đã nêu.
2. Chẩn đoán
2.1. Chẩn đoán lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng thường gặp của các bệnh
nhân bóc tách đơn độc ĐM MTTT là đau bụng, đau
bụng có thể cấp tính hoặc mạn tính, đau bụng cấp
do bóc tách thành mạch, hoặc thiếu máu ruột mức độ
nặng; đau bụng mạn tính thường do hẹp lòng mạch,
đau tăng sau bữa ăn, khi có dấu hiệu thiếu máu cấp
có thể kèm theo các dấu hiệu bụng chướng, buồn nôn,
nôn. Tuy nhiên một số trường hợp bệnh được phát
hiện tình cờ, không có triệu chứng khi thăm khám các
bệnh lý khác[2-5].
Độ tuổi thường gặp trong các nghiên cứu là tuổi
trung niên, tỷ lệ mắc ở nam giới nhiều hơn nữ giới, có
thể do liên quan đến các yếu tố nguy cơ [12]. Hai bệnh
nhân của chúng tôi vào viện với biểu hiện lâm sàng là
đau bụng vùng thượng vị, giống như đa số các bệnh
nhân trong các thông báo.
2.2. Chẩn đoán cận lâm sàng
Chẩn đoán cận lâm sàng chủ yếu dựa vào các
phương pháp chẩn đoán hình ảnh như siêu âm Doppler
mạch máu và chụp CLVT đa dãy có dựng hình mạch
máu. Siêu âm Doppler là phương pháp dễ thực hiện,
giá thành rẻ, dễ thực hiện nhiều lần, có giá trị để chẩn
đoán và theo dõi trong quá trình điều trị, tuy nhiên hạn
chế của siêu âm Doppler là khó đánh giá khi bệnh nhân
bụng chướng hơi, có thiếu máu ruột cấp tính và phụ
thuộc nhiều vào kinh nghiệm người làm. Chụp CLVT có
tiêm thuốc cản quang và dựng hình mạch máu có giá
trị chẩn đoán xác định, phân loại được tổn thương và
đánh giá được các biến chứng do hậu quả của bóc tách
động mạch gây nên[7].
Các dấu hiệu bóc tách thành mạch trên CLVT:
huyết khối thành mạch, lòng thật, lòng giả, giới hạn
đoạn mạch bóc tách, dấu hiệu thiếu máu ruột: thành
ruột mỏng, có khí trong thành ruột, khí trong tĩnh mạch
cửa[12].
Chụp cộng hưởng từ có giá trị tương tự chụp
CLVT trong đánh giá tổn thương bóc tách thành mạch,
tuy nhiên trong thực hành lâm sàng ít được áp dụng do
cần sự hợp tác tốt của bệnh nhân, thời gian thăm khám
kéo dài và hạn chế đánh giá các biến chứng [9].
Chụp mạch máu số hóa xóa nền có vai trò trong
chẩn đoán xác định và phân loại tổn thương tuy nhiên
ngày nay ít được áp dụng, được thay thế nhờ các máy
chụp CLVT đa dãy đầu dò có dựng hình mạch máu.
Chụp mạch máu số hóa xóa nền được sử dụng trong
các trường hợp can thiệp nội mạch để điều trị tổn
thương[4].
Phân loại tổn thương bóc tách ĐM MTTT đơn độc
dựa vào hình ảnh CLVT, hiện nay chưa có phân loại
thống nhất giữa các tác giả. Các phân loại chủ yếu dựa
vào tính chất dòng chảy trong lòng giả: dòng chảy trong
lòng giả không trở vào lòng thật (no re-entry) và dòng
chảy trong lòng giả trở vào lòng thật (re-entry). Một số
phân loại thường được dùng để chẩn đoán như: phân
loại theo Sakamoto[11], phân loại theo Dong Lin-li,
phân loại theo Zerbib, phân loại theo Yun.
Phân loại theo Sakamoto khá đơn giản [11], bao
gồm 4 type:
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201564
DIỄN ĐÀN
Type 1: dòng chảy trong lòng giả trở vào lòng thật
(re-entry).
Type 2: dòng chảy trong lòng giả không trở vào
lòng thật (no re-entry).
Type 3: huyết khối lòng giả và giả loét.
Type 4: huyết khối lòng giả không có hình giả loét.
Hình 7. Phân loại theo Sakamoto
Một số tác giả khác phân loại phức tạp hơn, dựa
trên cơ sở phân loại Sakamoto. Theo Dong Lin-li và
cộng sự chia ra 5 type: [8]
Type 1: dòng chảy từ lòng giả trở về lòng thật (re-
entry).
Type 2,3,4,5: dòng chảy trong lòng giả không trở
vào lòng thật (no re-entry).
- Type 2 không có huyết khối lòng giả.
- Type 3 có huyết khối lòng giả và hình ảnh giả
loét.
- Type 4 có huyết khối lòng giả không có hình ảnh
giả loét.
- Type 5 là dạng giả phình.
Trong các type 2,3,4 lại được chia thành các dưới
type:
a- Không gây hẹp lòng thật.
b- Có gây hẹp lòng thật.
c- Có huyết khối lòng thật.
Phân loại của Dong Lin-li có ưu điểm chỉ rõ hơn
các nguy cơ biến chứng từ đó giúp định hướng điều trị
tốt hơn. Type 3 và 4 có nguy cơ hẹp lòng và tắc mạch,
trong khi type 5 có nguy cơ vỡ giả phình.
Hình 8. Phân loại theo Dong Lin-li
3. Điều trị
Điều trị bóc tách đơn độc ĐM MTTT chưa có thống
nhất giữa các tác giả, điều trị chủ yếu dựa vào phân loại
tổn thương trên hình ảnh CLVT và diễn biến lâm sàng.
Đối với các bệnh nhân không có biểu hiện triệu
chứng thường được điều trị bảo tồn bằng dùng các
thuốc chống đông và điều trị các bệnh phối hợp kèm
theo, tuy nhiên đối với các trường hợp bóc tách kéo dài,
kèm theo có giả phình mạch mà kích thước tăng lên khi
theo dõi cần điều trị can thiệp, tùy từng trường hợp mà
phương pháp phẫu thuật hay đặt stent lòng mạch được
lựa chọn [8].
Đối với các bệnh nhân có biểu hiện các triệu chứng
như đau bụng và thiếu máu ruột thì tùy từng mức độ để
điều trị, với các bệnh nhân thiếu máu nặng, nhồi máu
ruột cần điều trị can thiệp cấp cứu bằng can thiệp nội
mạch hoặc phẫu thuật. Đối với các bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng nhưng không có biểu hiện thiếu máu
hay thiếu máu mức độ vừa (đau sau khi ăn) điều trị nội
khoa là lựa chọn đầu tiên[8].
Hai bệnh nhân của chúng tôi được chẩn đoán
phân loại type IVa và IIb theo Sakamoto, bệnh nhân
thứ nhất có hẹp lòng ĐM MTTT tuy nhiên cả hai bệnh
nhân đều đáp ứng tốt với điều trị nội khoa, không cần
can thiệp.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 65
DIỄN ĐÀN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bệnh nhân điều trị bảo tồn cần phải theo dõi các
dấu hiệu của nhồi máu ruột và được kiểm tra kết quả
điều trị sau 1 tuần, sau 1 tháng, sau đó kiểm tra định kì
4 tháng/1 lần.
IV. KẾT LUẬN
Chúng tôi báo cáo hai trường hợp bóc tách ĐM
MTTT đơn độc không kèm theo bóc tách động mạch
chủ trên hai bệnh nhân trung tuổi có biểu hiện đau bụng
thượng vị, đau tăng lên sau ăn. Bệnh nhân được chẩn
đoán dựa vào lâm sàng và các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh, điều trị bảo tồn bằng thuốc chống đông
kéo dài có kết quả lâm sàng ổn định.
1. Miyamoto N, Sakurai Y, Hirokami M, Takahashi
K, Nishimori H, Tsuji K, et al. Endovascular stent
placement for isolated spontaneous dissection of the
superior mesenteric artery: report of a case. Radiat
Med. (2005). 520–524.
2. Suzuki S, Furui S, Kohtake H, Sakamoto T,
Yamasaki M, Furukawa A, et al. Isolated dissection
of superior mesenteric artery: CT findings in 6
cases. Abdom Imaging. (2004). 153–157.
3. Javerliat I, Becquemin JP, d’Audiffret A.
Spontaneous isolated dissection of superior mesenteric
artery. Eur J Vasc Endovasc Surg. (2003). 180–184.
4. Takayama H, Takeda S, Saitoh SK, Hayashi H,
Takano T, Tanaka K. Spontaneous isolated dissection
of superior mesenteric artery. Intern Med. (2002). 713–
716.
5. Dushnitsky T, Peer A, Katzenelson L, Strauss
S. Dissecting aneurysm of superior mesenteric artery:
Flow dynamics by colour Doppler sonography. J
Ultrasound Med. (1998). 781–783.
6. Hirai S, Hamanaka Y, Mitsui N, Isaka M,
Kobayashi T. Spontaneous and isolated dissection
of main trunk of the superior mesenteric artery. Ann
Thorac Cardiovasc Surg. (2002).236–240.
7. Sheldon PJ, Esther JB, Sheldon EL, Sparks
SR, Brophy DP, Oglevie SB. Spontaneous dissection
of the superior mesenteric artery. Cardiovasc Intervent
Radiol. (2001).329–331.
8. Dong-lin L, Yang-yan H, Adel MA, Xu-dong C,
Wei J, Ming L, Hong-kun Z, Ting-bo L. Management
strategy for spontaneous isolated dissection of the
superior mesenteric artery based on morphologic
classification. Journal of vascular surgery. (8/2014).
165-172.
9. Lauterbach, S.R., Cambria, R.P., Brewster,
D.C., Gertler, J.P., Lamuraglia, G.M., Isselbacher, E.M.,
Hilgenberg, A.D., and Moncure, A.C. Contemporary
management of aortic branch compromise resulting from
acute aortic dissection. J Vasc Surg. (2001); 33: 1185–
1192
10. Yasuhara, H., Shigematsu, H., and Muto,
T. Self-limited spontaneous dissection of the main
trunk of the superior mesenteric artery. J Vasc
Surg. (1998); 27: 776–779.
11. Sakamoto I, Ogawa Y, Sueyoshi E, et
al. Imaging appearances and management of isolated
spontaneous dissection of the superior mesenteric
artery. Eur J Radiol (2007); 64: 103-10.
12. Palle Lalitha, Balaji Reddy, Isolated superior
mesenteric artery dissection, Indian J Radiol
Imaging. (2010); 20(2): 132–134.
Người liên hệ: Lê Thanh Dũng. Email: drdung74@yahoo.com
Ngày nhận bài 28.10. 2015
Ngày chấp nhận đăng: 15.11. 2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
boc_tach_dong_mach_mac_treo_trang_tren_don_doc_chan_doan_va.pdf