I. Đặt vấn đề:
Bối cảnh của Đổi Mới: thực trạng trước Đổi Mới và quyết định đổi mới của Đảng.
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đất nước ta bắt đầu bước vào quá trình khôi phục và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta vấp phải rất nhiều khó khăn và mâu thuẫn trong kinh tế.
Nến kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 và 3 không thực hiện được. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, thiếu đồng bộ, trình độ kĩ thuật lạc hậu. Đại bộ phận vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động rất thấp. Sản xuất phát triển chậm chạp, không đủ cho tiêu dùng, làm không đủ ăn phải dựa vào bên ngoài rất lớn. Phân phối lưu thông rối ren. Thị trường, tài chính tiền tệ không ổn định. Ngân sách nhà nước bội chi liên tục. Giá cả thì leo thang từng ngày. Ví dụ chỉ số giá năm 1975 là 1 lần thì 1980 là 2,5 lần và 1985 đã là 38,5 lần. [g.t lịch sử kinh tế tr.399]. Do đó đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là công nhân viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Lòng tin của nhân dân vào Đảng bị lung lay, nguy cơ mất chính quyền là rất lớn.
(1)Tốc độ tăng GDP so với lạm phát giai đoạn 1976-1985
Nguyên nhân của tình trạng trên về mặt chủ quan:
+ Trước Đổi Mới, trong công cuộc cải tạo CNXH chúng ta có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, nhưng thực tế cho thấy lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả trong trường hợp quan hệ sản xuất không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Cải tạo một cách gò ép, chạy theo số lượng không coi trọng chất lượng, buông lỏng quản lý. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu. Nhiều chính sách thể chế lỗi thời chưa được bãi bỏ. Một số cải tiến được đưa ra nhưng mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn khớp thậm chí trái ngược nhau.
Nói tóm lại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã là sức cản lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô hình mới phù hợp hơn để đưa đất nước khỏi khủng hoảng.
Nhận thức được yêu cầu cấp thiết đó. Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta.
Đại hội là điểm khởi đầu cho quá trình đổi mới. Và từ sau đó Đại hội VII (6/1991); Đại hội VIII (6/1996); Đại hội IX (4/2001) và gần đây nhất là Đại hội X (4/2006) đã tiếp tục khẳng định, bổ xung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới. Trong từng thời kì, từng giai đoạn các biện pháp cụ thể có thể khác nhau. Tuy nhiên trong suốt quá trình Đổi mới, Đảng luôn giữ quan điểm : “Đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải đổi mới cả chính trị và các mặt khác của xã hội”.
Vậy tại sao Đảng lại có quan điểm như vậy, chúng ra sẽ tìm hiểu cơ sở lí luận triết học của quá trình đó thông qua những lập luận dưới đây.
17 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 23859 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bối cảnh của đổi mới: Thực trạng trước đổi mới và quyết định đổi mới của đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Đặt vấn đề:
Bối cảnh của Đổi Mới: thực trạng trước Đổi Mới và quyết định đổi mới của Đảng.
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đất nước ta bắt đầu bước vào quá trình khôi phục và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta vấp phải rất nhiều khó khăn và mâu thuẫn trong kinh tế.
Nến kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 và 3 không thực hiện được. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, thiếu đồng bộ, trình độ kĩ thuật lạc hậu. Đại bộ phận vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động rất thấp. Sản xuất phát triển chậm chạp, không đủ cho tiêu dùng, làm không đủ ăn phải dựa vào bên ngoài rất lớn. Phân phối lưu thông rối ren. Thị trường, tài chính tiền tệ không ổn định. Ngân sách nhà nước bội chi liên tục. Giá cả thì leo thang từng ngày. Ví dụ chỉ số giá năm 1975 là 1 lần thì 1980 là 2,5 lần và 1985 đã là 38,5 lần. [g.t lịch sử kinh tế tr.399]. Do đó đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là công nhân viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Lòng tin của nhân dân vào Đảng bị lung lay, nguy cơ mất chính quyền là rất lớn.
(1)Tốc độ tăng GDP so với lạm phát giai đoạn 1976-1985
Nguyên nhân của tình trạng trên về mặt chủ quan:
+ Trước Đổi Mới, trong công cuộc cải tạo CNXH chúng ta có những biểu hiện nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, nhưng thực tế cho thấy lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả trong trường hợp quan hệ sản xuất không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Cải tạo một cách gò ép, chạy theo số lượng không coi trọng chất lượng, buông lỏng quản lý. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu. Nhiều chính sách thể chế lỗi thời chưa được bãi bỏ. Một số cải tiến được đưa ra nhưng mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn khớp thậm chí trái ngược nhau.
Nói tóm lại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã là sức cản lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô hình mới phù hợp hơn để đưa đất nước khỏi khủng hoảng.
Nhận thức được yêu cầu cấp thiết đó. Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta.
Đại hội là điểm khởi đầu cho quá trình đổi mới. Và từ sau đó Đại hội VII (6/1991); Đại hội VIII (6/1996); Đại hội IX (4/2001) và gần đây nhất là Đại hội X (4/2006) đã tiếp tục khẳng định, bổ xung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới. Trong từng thời kì, từng giai đoạn..các biện pháp cụ thể có thể khác nhau. Tuy nhiên trong suốt quá trình Đổi mới, Đảng luôn giữ quan điểm : “Đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải đổi mới cả chính trị và các mặt khác của xã hội”.
Vậy tại sao Đảng lại có quan điểm như vậy, chúng ra sẽ tìm hiểu cơ sở lí luận triết học của quá trình đó thông qua những lập luận dưới đây.
II. Giải quyết vấn đề:
Cơ sở của : đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Nguyên tắc: sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Để tiến hành tất cả các hoạt động sống con người trước hết phải tồn tại. Muốn tồn tại con người cần phải có thức ăn, cái mặc, nhà ở, phương tiện đi lại… Để tạo ra những thứ đó con người phải tạo ra chúng. Tức là phải sản xuất và không ngừng sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng. Xã hội không thể tồn tại nếu thiếu hoạt động sản xuất. Chính vì vậy mà sản xuất là hoạt động cơ bản quan trọng nhất của xã hội loài người và là một yêu cầu khách quan. Bằng việc “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Nếu thiếu thốn về vật chất, con người sẽ tất yếu nảy sinh những sự bức bối, khó chịu. Điều này sẽ gây ra sự suy kiệt về thể chất, suy giảm về tinh thần cho xã hội. Nếu kéo dài thì sẽ nảy sinh những biến cố lớn.
Chính trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo v.v.. đều hình thành trên cơ sở sản xuất vật chất. Vì vậy để hình thành một chế độ xã hội như mong muốn như chế độ XHCN có nền tảng là nền kinh tế phát triển, pháp quyền vững chắc, văn hoá tốt đẹp giàu có.. thì trước hết phải bắt đầu từ thay đổi từ sản xuất, tức là từ kinh tế. Không thể lấy các biện pháp hành chính, bắt buộc, duy ý chí như trước đổi mới đã làm.
Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mâm mống của tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế- xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó.
Như vậy trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể xã hội thì quan hệ sản xuất “hợp thành” cơ sở kinh tế của xã hội , tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Với mục tiêu tiến lên CNXH từ sau khi giành được độc lập năm 1945 và nhất là sau 1954, tại miền Bắc đã bắt đầu xây dựng quan hệ sản xuất duy nhất là quan hệ sản xuất XHCN. Trong đó kinh tế nhà nước, tập thể chiếm toàn bộ đời sống kinh tế. Quan hệ sản xuất này tồn tại phù hợp trong thời kì chiến tranh. Tuy nhiên sau 1975 khi mà quan hệ sản xuất XHCN có điều kiện bao trùm toàn bộ đất nước và phát triển trong điều kiện hoà bình thì lại bộc lộ nhiều hạn chế và gây ra nhiều khó khăn cho đời sống nhân dân. Như vậy cơ sở hạ tầng với chỉ một quan hệ sản xuất XHCN duy nhất rõ ràng không phù hợp với hoàn cảnh nước ta hiện nay.
Cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định trong phát triển xã hội, quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phải thống nhất với nhau trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Không có chế độ nào mà chỉ có mỗi cơ sở hạ tầng (tức chỉ có sản xuất mà không có các mối quan hệ xã hội khác) và cũng không có chế độ nào chỉ có kiến trúc thượng tầng mà không có sản xuất. Vấn đề là ở đây việc sản xuất có trước, từ các yêu cầu trong quá trình sản xuất nhằm ổn định trật tự xã hội thì kiến trúc thượng tầng mới được hình thành một cách tương ứng. Ví dụ: trong lịch sử, các cuộc cách mạng dẫn đến sự thay đổi một hình thái kinh tế xã hội nhất định không phải có thể được tiến hành bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu cùng một lúc được. Mà chúng có sự khác nhau rõ rệt giữa các quốc gia. Bởi vì cách mạng phải tiến hành trên cơ sở có sự thay đổi của cơ sở hạ tầng. Cách mạng tư sản Anh(1640-1660), Pháp(1789-1794), Mỹ(1861-1865) đồng thời đánh dấu thắng lợi quyết định của phương thức sản xuất TBCN so với phương thức sản xuất phong kiến.
Cơ sở hạ tầng thể hiện ở quan hệ sản xuất thống trị. Về mặt khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phải là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện đó thì người lao động mới có được sự kết hợp tối ưu nhất với tư liệu sản xuất để tiến hành quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất không phải chỉ là trình độ lí luận, nhận thức “được tuyên truyền, giác ngộ cao” không thôi mà có thể coi là tiến bộ được. Nó thể hiện phần lớn ở trình độ công cụ lao động, kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội và trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất của quá trình phát triển của nhân loại. Trên cơ sở quan hệ sản xuất lại tiếp tục hình thành các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội.
Trước và trong Đổi Mới, chúng ta phải nhìn nhận là lực lượng sản xuất tại Việt Nam hiện nay vẫn còn lạc hậu so với các quốc gia trên thế giới. Trình độ cơ khí hoá, hiện đại hoá còn rất hạn chế. Với một quốc gia thuần nông đã nhiều đời nay, việc thiếu kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động trong sản xuất công nghiệp vẫn chưa thể khắc phục hết. Trình độ tổ chức và phân công lao động vẫn còn yếu kém. Khoa học kĩ thuật chưa phát triển cao, phần lớn là nhập khẩu kĩ thuật chứ thực chất chúng ta chưa có khả năng nghiên cứu được các công nghệ do trình độ khoa học nhất là khoa học ứng dụng rất hạn chế. Ngoài ra nhận thức của người lao động cũng chưa thật sự được tự giác trong lao động, học tập. Trước Đổi Mới, trong khi lực lượng sản xuất chưa có sự phát triển như vậy thì quan hệ sản xuất đặt ra lại là một quan hệ sản xuất quá tiên tiến, đòi hỏi trình độ lực lượng sản xuất cao thì rõ ràng không phù hợp. Do trình độ quản lý kém nên không thể quản lý người lao động, khiến họ trở nên mất tự giác, ỷ lại vào tập thể. Do quá bức bách đời sống nên người dân phải xé rào pháp luật rất nhiều mà xử lý thì không hết nên gây hậu quả nhận thức đến tận ngày nay. Tư tưởng chưa đúng đắn khiến văn hoá, phong tục, bản sắc dân tộc bị suy giảm. Tất cả là do những sai lầm trong vấn đề kinh tế gây nên.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm luôn địa vị thống trị về mặt chính trị và tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện của đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng , do cơ sở hạ tầng quyết định.
Trước Đổi Mới, khủng hoảng chưa gây ra những hậu quả thực sự trầm trọng. Tuy nhiên nếu để lâu dài thì mâu thuẫn xã hội sẽ xảy ra. Mâu thuẫn đó không mang màu sắc giai cấp mà chỉ là sự đối lập giữa lợi ích chính đáng của người dân với sự yếu kém, trì trệ của nhà nước. Trong thời kỳ quá độ, việc bảo vệ chính quyền là hết sức quan trọng trước các thế lực thù địch. Do đó việc để mất sự ủng hộ của quần chúng là hết sức nguy hiểm. Chính CNTB cũng có những bước đi rất khôn ngoan khi nắm bắt được đặc điểm này của xã hội. Để xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, CNTB thực hiện các biện pháp trợ cấp xã hội. Để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác nhất là chống phá CNXH, CNTB thực hiện cấm vận kinh tế. Thực chất của hành động này là gây chia rẽ giữa chính quyền và nhân dân. Trước tình hình như vậy, không có gì hơn là chúng ta phải tự xây dựng được một nền kinh tế mạnh để có thể tự chủ, tự cường. Chống lại mọi nguy cơ từ bên trong và ngoài.
Như vậy Đổi mới chắc chắn phải lấy kinh tế là trọng tâm. Qua đổi mới về kinh tế, chúng ta mới có khả năng ổn định tình hình chính trị, tư tưởng cho nhân dân. Bằng sự thay đổi căn bản quan hệ sản xuất trong xã hội. Chúng ta mới có thể phát huy được tối đa nội lực của đất nước. Có đảm bảo về đời sống vật chất cho nhân dân thì mới có thể phát huy các mặt khác của xã hội. Khi người dân sống đầy đủ thì tự giác sẽ tuân thủ pháp luật, cố gắng học tập nâng cao dân trí, chú ý tới văn hoá…Đoàn kết dân tộc được nâng cao, nhân dân tin tưởng vào Đảng và chính quyền, vào con đường tiến lên CNXH.
Cần nói thêm rằng sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như pháp luật, chính trị,v.v.Trong kiến trúc thượng tầng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,v.v.hoặc có những yếu tố được kế thừa trong xã hội mới. Do đó trong đổi mới cần tập trung thay đổi trong các mặt có liên quan gần gũi nhất đến kinh tế như hệ thống luật, chính sách, tư duy đổi mới trong hàng ngũ lãnh đạo v.v. để có thể thúc đẩy quá trình phát triển. Thứ đó mới đến các vấn đề còn lại.
Cơ sở: phải đồng thời đổi mới chính trị và các mặt khác của xã hội.
Tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người là ngoài sản xuất vật chất ra còn các hoạt động khác.
Con người tồn tại trong thế giới không chỉ có hoạt động sản xuất để sống. Chúng ta không thể chỉ ăn uống, ngủ nghỉ ... không thôi mà còn có rất nhiều các hoạt động khác nữa. Thậm chí ngay từ thời xa xưa con người đã nhận ra rằng để có thể tồn tại và phát triển thì tất yếu phải tập hợp nhau lại. Chỉ từ hoạt động bảo vệ cộng đồng, cùng nhau sản xuất mà cho tới nay đời sống xã hội đã tiến lên tới mức con người ngày nay nếu không có những quan hệ xã hội thì khó có thể coi là con người đầy đủ. Bởi vì khi sinh ra chúng ta không thể có ngay được sức khoẻ, trí lực, trình độ v.v như một cái máy được lập trình trước. Mà chúng ta phải được nuôi nấng, được giáo dục để phát triển cả thể chất lẫn tinh thần.
Khái niệm kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, các đoàn thể xã hội ,v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Ví dụ: Cơ sở hạ tầng mang với quan hệ sản xuất phong kiến thống trị hình thành nhà nước phong kiến với thể chế chính trị chuyên chế, pháp luật mang tính bảo vệ hoàng gia, quý tộc địa chủ, đạo “trung quân” là hàng đầu, nền triết học mang tính thần thánh… Cơ sở hạ tầng với quan hệ sản xuất TBCN thống trị hình thành nên nhà nước tư bản, với nền chính trị, pháp luật, triết học.. tập trung vào bảo vệ chế độ tư hữu TLSX là chủ yếu.
Sở dĩ kiến trúc thượng tầng tất yếu phải được hình thành bởi vì trong cơ sở hạ tầng không chỉ có một quan hệ sản xuất thống trị không thôi mà ngoài ra còn có quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống trong tương lai. Mà lợi ích của các nhóm người đại diện cho các quan hệ sản xuất này lại không như nhau thậm chí đối lập gay gắt. Điều đó làm cho bộ phận người được hưởng lợi từ quan hệ sản xuất thống trị đang tồn tại phải tổ chức lực lượng để bảo vệ nó. Còn những nhóm người có lợi ích khác cũng tổ chức lực lượng để đấu tranh giành quyền lợi cho mình. Có thể các thiết chế xã hội còn do sự sai khác về dân tộc, tôn giáo nhưng suy cho cùng cũng phải từ lợi ích kinh tế mà ra.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng có liên hệ với nhau một cách qua lại và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song mỗi yếu tố khác nhau lại có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng , còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ có quan hệ gián tiếp với nó.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ đó nhà nước, giai cấp thống trị mới thực sự được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội .
Kiến trúc thượng tầng có vai trò quan trọng, tác động trở lại cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết đinh kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng , nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng , cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau đều có vai trò khác nhau đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,v.v.cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Nhà nước có các công cụ đầy quyền lực để tác động đến kinh tế như pháp luật, chính sách, kế hoạch, thuế, lãi suất, tỷ giá v.v. Ngoài ra nhà nước còn có thể tham gia trực tiếp vào kinh tế thông qua các công ty quốc doanh, ngân hàng, xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong một giới hạn nhất định, nhà nước có khả năng biến đổi quan hệ sản xuất, thay đổi tính chất của lực lượng sản xuất (cũng có thể chỉ là về mặt danh nghĩa). Nó tác động vào cơ sở hạ tầng một cách trực tiếp. Những yếu tố còn lại của kiến trúc thượng tầng như triết học có thể là nền tảng tư tưởng, nhận thức. Như triết học Marx là cơ sở lý luận cho giai cấp công nhân đấu tranh xây dựng CNXH, tác động đến cơ sở hạ tầng thông qua tuyên truyền, giác ngộ. Triết học tác động được là đến cơ sở hạ tầng phải thông qua sự tự giác và lực lượng sản xuất cần có một trình độ ý thức nhất định. Tôn giáo cũng là một yếu tố có ảnh hưởng lớn vì những người đồng tôn giáo thường đồng ý thức với nhau hơn. Tôn giáo tác động đến cơ sở hạ tầng thông qua niềm tin của con người, tác động đến ý chí nhiều hơn là ý thức.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Điều này được minh chứng rõ ràng trong thời kì trước Đổi Mới. Rõ ràng chúng ta đã xây dựng chế độ XHCN, chế độ mà về mặt lý thuyết là một chế độ phát triển cao. Cùng với đó là nền kinh tế kế hoạch hoá theo đúng như tiêu chuẩn CNXH. Vậy nhưng nền kinh tế của ta lại lâm vào khủng hoảng. Đó là do kiến trúc thượng tầng đã có những tác động không phù hợp đến một cơ sở hạ tầng còn đang ở trình độ thấp. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu không gắn liền với thực tế khiến cho người lao động khó khăn. Cơ chế bao cấp làm người ta ỷ lại, mất tính sáng tạo. Việc đời sống nhân dân nằm trong tay một bộ phận cán bộ nảy sinh thói cửa quyền v.v.
Vấn đề là, sau bao nhiêu năm sống trong cơ chế như vậy, với lí luận dường như đã “đinh đóng cột”. Việc tháo gỡ nó rất khó khăn. Những tiền đề của Đổi Mới xuất hiện rải rác nhưng ban đầu chưa được chấp nhận. Và chúng ta không thể ngay lập tức chuyển sang một cơ chế khác khi chưa có những điều kiện kèm theo để chứng tỏ cơ chế đó là phù hợp hơn. Đổi mới kinh tế là việc tất yếu phải làm. Tuy nhiên có những thứ cần được đổi mới nữa, đó là đổi mới tư duy, đổi mới về nhận thức trong hàng ngũ lãnh đạo từ cao xuống thấp trong công tác quản lý, hoạch định đường lối. Đổi mới tâm lý người lao động rằng từ bây giờ họ không còn thể ỷ lại, trông chở không làm mà vẫn hưởng. Nhưng lại mở ra một chân trời khác rằng họ có thể tự quyết định mức sống của mình thông qua lao động bỏ ra. Đổi mới tâm lý tiểu nông còn thâm căn cố đế trong tâm trí người Việt Nam. Bởi vì để có thể đáp ứng được một trình độ khoa học công nghệ cao, một đời sống mà phân công lao động ngày càng mở rộng thì đòi hỏi sự tự giác rất nhiều.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế của nó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị tư tưởng. Để hoàn thành công cuộc xây dựng CNXH việc trải qua thời kỳ quá độ là khách quan. Vì vậy Đảng cần đổi mới trong công tác lý luận, tuyên truyền nhằm giác ngộ cho người dân nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ. Đảng vẫn phải giữ vững sự lãnh đạo duy nhất. Nhà nước cần có ban hành những chính sách thông thoáng, thu hút đầu tư cả trong nước và quốc tế.
3. Nhận xét
- Nội dung của đổi mới và vận dụng lý thuyết trong thực tế.
Quá trình đổi mới do Đảng tiến hành được thực hiện trước hết trong kinh tế tập trung vào các điểm sau:
+ Phát triển kinh tế nhiều thành phần: Đại hội VI đã xem xét lại vấn đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm mới về kinh tế nhiều thành phần. Xuất phát từ thực trạng kinh tế- xã hội việt nam khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, Các nguồn lực còn bị hạn chế. Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
+ Phát triển kinh tế cá thể , tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp. Trước Đổi Mới, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể vẫn tồn tại ở nước ta và chiếm 29,1%GDP[g.t LSKT tr.409]. Nhưng chủ trương của nhà nước là hạn chế, cải tạo nên khu vực này không có điều kiện phát triển. Trong thời kỳ Đổi Mới, khu vực này được quan tâm khôi phục và phát triển.
Năm 1988 các cơ sở kinh tế tư nhân quy mô nhỏ được hoạt động trong các ngành quan trọng như công nghiệp,xây dựng, vận tải, dịch vụ. Năm 1992 Hiến Pháp quy định mọi công dân có quyền tự do kinh doanh không hạn chế số vốn và số lao động.
+ Trước Đổi Mới, chúng ta xây dựng quá nhiều cơ sở công nghiệp nặng, quy mô lớn, thiên về xây mới. Gây ra thiếu thốn lương thực,thực phẩm, hàng tiêu dùng. Đại hội VI chỉ rõ : “tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
+Xoá bỏ bao cấp, tự do hoá giá cả, khôi phục các quan hệ hàng hoá tiền tệ. “Giá cả phù hợp với giá trị, đồng thời phù hợp với sức mua của đồng tiền…”.
+ Xây dựng thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế vận hành theo sự điều khiển của cả hai cơ chế thị trường và sự can thiệp của nhà nước.
+Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Thu hút vốn, kỹ thuật từ nước ngoài trong khi nguồn lực trong nước còn hạn chế.
Tập trung vào Đổi Mới kinh tế, song Đảng vẫn tiến hành đổi mới về các mặt khác của xã hội. Trước hết là hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý. Từ 1987 đến 1990, nhà nước tiến hành sửa đồi nhiều loại thuế. Từ 1988, nhiều luật mới được thông qua tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế như luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư nước ngoài. Hệ thống nhà nước được tinh giản, giảm bớt số bộ, cơ quan hành chính không cần thiết. Trong công tác đối ngoại, chúng ta chuyển từ việc chỉ quan hệ với một số nước XHCN sang quan hệ đa phương, làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở hợp tác bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ. Văn hoá, giáo dục cũng từng bước được đổi mới với sự học hỏi đa dạng từ nước ngoài.
Với các biện pháp trên, tình hình kinh tế-xã hội của nước ta dần dần có sự cải thiện. Thể chế kinh tế thị trường được xác lập là điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển một cách mạnh mẽ. Việc đồng bộ hoá kiến trúc thượng tầng là cơ sở tốt cho phát triển kinh tế.
(2) Tốc độ tăng GDP so với lạm phát giai đoạn 1995-2005
Trong quá trình Đổi Mới, mặc dù gặp nhiều khó khăn ban đầu do chính sách thù địch từ bên ngoài. Con đường Đổi Mới gặp nhiều vấn đề khúc mắc về lý luận, chịu sự chống phá từ các lực lượng phản động bên ngoài rất nhiều. Tình hình trong nước ban đầu cũng khá bất ổn do cơ chế bao cấp bị bãi bỏ, người dân chưa kịp làm quen với tư duy kinh tế thị trường. Cơ chế tự chủ, tự hạch toán thay thế cho cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải thay đổi tư duy quản lý. Nhưng Đảng vẫn giữ vững lập trường chuyển đổi dứt khoát sang kinh tế thị trường và kiên định con đường XHCN. Trong quá trình đó cơ sở Triết học đã được vận dụng một cách triệt để nhằm làm sáng tỏ lý luận cho sự nghiệp Đổi Mới.
20 năm đổi mới với rất nhiều chính sách, biện pháp mà Đảng và Nhà nước đã thực hiện, tất cả đều nhằm vào mục tiêu đó là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, đó là:
+Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
+Đổi Mới toàn diện, đồng bộ, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
+Đổi mới trước hết vì lợi ích nhân dân, dựa vào nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn nhạy bén với cái mới.
+Phát huy cao độ nội lực, khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
III. Kết luận.
Thành tựu qua 20 năm đổi mới.
Sau 20 năm Đổi Mới, đất nước ta không những đã thoát khỏi tình trạng nghèo đói, thiếu thốn mà đã có những bước tiến lớn về kinh tế. Cụ thể tốc độ tăng GDP trung bình 10 năm gần đây là 7%, lạm phát kiềm chế ở mức dưới mức tăng trưởng kinh tế. GDP bình quân năm 2006 là 650USD/người. Kim ngạch ngoại thương đạt 65 tỷ USD năm 2005. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đến 2005 là 53,6 tỷ USD. Số hộ nghèo năm 1989 là 55% giảm còn 11,4% năm 2000. Nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Về chính trị, với phương châm mở rộng đối ngoại, Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước chúng ta đã gia nhập nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…vai trò của chúng ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quy củ. Văn hoá - giáo dục được cả xã hội quan tâm và cũng được đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, ngày càng có nhiều cơ sở tôn giáo được xây dựng.Điều đó chứng tỏ chúng ta đã có những chuyển biến lớn trong công cuộc phát triển đất nước. Công cuộc xây dựng CNXH ngày càng có cơ sở vững chắc, con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ.
Như vậy quan điểm đổi mới của Đảng là có cơ sở triết học chính xác và vận dụng thực tế đúng đắn.
Điều này được chứng tỏ bằng những luận điểm dựa trên cơ sở lý luận triết học về hình thái kinh tế-xã hội trong đó chủ yếu là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Vận dụng lý luận trong thực tế, Đảng ta đã tiến hành quá trình Đổi Mới đạt nhiều thành công như ngày nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ]-tr-19.doc