Một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật về nguyên tắc bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng
Thứ nhất, Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương
6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại và Bộ luật
Dân sự năm 2015 đã xác định, quy định
quyền sử dụng đất là một loại tài sản và là
hàng hóa đặc biệt. Vì thế, cần quy định giá
đất được bồi thường là giá thị trường.
Thứ hai, cần quy định thống nhất “một
giá đất” là giá thị trường áp dụng trong bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và giá
đất phải trả thông qua chuyển dịch đất đai
tự nguyện theo Điều 73 Luật Đất đai năm
2013. Quy định “một giá đất” để đảm bảo
đất được xác định và trả về giá trị thực của
nó, phù hợp với các quy luật của nền kinh
tế thị trường, không phân biệt chủ thể được
quyền sử dụng sau thu hồi là Nhà nước hay
doanh nghiệp.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỒI THƯỜNG VỀ ĐẤT KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÌ MỤC ĐÍCH
QUỐC PHÒNG, AN NINH; PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÌ LỢI
ÍCH QUỐC GIA, LỢI ÍCH CÔNG CỘNG
Tóm tắt:
Pháp luật về đất đai của nước ta quy định cụ thể các nguyên tắc bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng. Tuy nhiên, thực tế việc tổ chức thực hiện cho thấy, quy định
của pháp luật còn có những hạn chế, bất cập nhất định cần được
tiếp tục hoàn thiện.
ThS. LS. Nguyễn Vinh Diện*
* ThS. LS. Văn phòng luật sư Vinh Diện & Cộng sự Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An
Abstract
Law on land in our country provides specific regulantion on
principles for land compensation when the government’s land
acquisition for national defense and public security purposes;
socio-economic developments for national benefits and community
benefits. However, the actual implementation shows that the law
has some limitations and shortcomings that need to be reviewed
and addressed for further improvements of the law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Đất đai; thu hồi đất; bồi
thường khi thu hồi đất
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 04/09/2018
Biên tập : 26/09/2018
Duyệt bài : 04/10/2018
Article Infomation:
Keywords: Law on land; land
acquisition; compensation for land
acquisition.
Article History:
Received : 04 Sep. 2018
Edited : 26 Sep. 2018
Approved : 04 Oct. 2018
1. Quy định của pháp luật đất đai về
nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng
1.1. Người sử dụng đất được bồi
thường khi có đủ các điều kiện quy định tại
Điều 75 Luật Đất đai năm 20131.
1 Khoản 1 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
Ở nước ta, chính sách, pháp luật đất
đai thay đổi qua từng thời kỳ với những quy
định khác nhau. Người sử dụng đất được
quyền sử dụng đất thông qua nhiều hình
thức như Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng
đất, Nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất, Nhà nước cho thuê đất ... Bên cạnh việc
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 22(374) T11/2018
sử dụng đất hợp pháp, nhiều trường hợp sử
dụng đất không hợp pháp, như sử dụng đất
do lấn, chiếm, do được giao trái thẩm quyền,
nhận chuyển nhượng không hợp pháp... Mỗi
một loại đất Nhà nước cũng quy định chế độ
pháp lý khác nhau, Nhà nước trao cho người
sử dụng đất những quyền năng nhất định.
Hơn nữa, quá trình quản lý đất đai ở nước
ta ở từng giai đoạn, thời kỳ khác nhau được
thực hiện bởi những cơ quan khác nhau và
quyền sử dụng đất được quản lý, xác lập
bởi nhiều loại giấy tờ về quyền sử dụng đất
khác nhau. Những nguyên nhân này dẫn
đến việc không phải người sử dụng đất nào
cũng được Nhà nước bồi thường khi đất bị
thu hồi, tùy từng hình thức xác lập quyền
sử dụng đất, tùy loại đất, tùy thuộc vào thời
gian, quá trình sử dụng đất và giấy tờ về
quyền sử dụng đất mà Nhà nước bồi thường
hoặc không bồi thường. Vì thế, Nhà nước
quy định cụ thể các điều kiện để được bồi
thường về đất khi thu hồi đất đối với từng
hình thức xác lập quyền sử dụng đất, từng
chủ thể sử dụng đất, từng loại đất, từng thời
điểm sử dụng đất, từng loại giấy tờ về quyền
sử dụng đất... Theo đó, nếu đất có đủ các
điều kiện theo quy định, khi thu hồi đất Nhà
nước phải bồi thường; nếu không đủ điều
kiện, Nhà nước không bồi thường, tùy từng
trường hợp Nhà nước xem xét hỗ trợ.
1.2. Việc bồi thường được thực hiện
bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng
với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng tiền2.
Luật Đất đai năm 2013 phân loại đất
thành 03 nhóm là nhóm đất nông nghiệp,
nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa
2 Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
3 Xem Điều 10 Luật Đất đai năm 2013.
4 Điều 11 Luật Đất đai năm 2013.
sử dụng. Mỗi một nhóm đất có nhiều loại
đất khác nhau3. Vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, Nhà nước có
quyền thu hồi bất kỳ loại đất nào. Tùy thuộc
vào loại đất bị thu hồi, người bị thu hồi đất
bị những thiệt hại nhất định, trong đó thiệt
hại lớn nhất là mất đất. Vì thế, ưu tiên đầu
tiên được Luật Đất đai năm 2013 quy định
nguyên tắc là “đất đổi đất”, tức là thu hồi đất
thì bồi thường bằng đất, đất bị thu hồi và đất
được bồi thường là đất có cùng mục đích sử
dụng, cùng loại đất, chỉ bồi thường bằng tiền
nếu không có cùng loại đất.
Việc xác định loại đất làm căn cứ để
thu hồi và xác định loại đất được bồi thường
dựa trên những căn cứ khác nhau. Pháp luật
đất đai quy định các căn cứ sau để xác định
loại đất: Theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở được cấp trước
ngày 10/12/2009; Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất. Trường hợp đất chưa
được cấp các loại giấy chứng nhận này thì
việc xác định loại đất căn cứ vào các giấy
tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản
1, khoản 2 và khoản 3 Điều 100 Luật Đất
đai năm 2013 hoặc căn cứ quyết định giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền4.
Thực tiễn ở các địa phương cho thấy,
nhiều thửa đất không có các giấy tờ về quyền
sử dụng đất nhưng đất được sử dụng ổn
định, không có tranh chấp và có căn xứ xác
lập quyền sử đụng đất. Để bảo đảm quyền
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 22(374) T11/2018
lợi của người sử dụng đất và giải quyết
những vấn đề do lịch sử quản lý đất đai để
lại, Nhà nước quy định các căn cứ xác định
loại đất trong những trường hợp này. Cụ thể,
Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số nghị định quy định chi tiết thi hành
Luật Đất đai (Nghị định 01) quy định như
sau: Trường hợp đang sử dụng đất ổn định
mà không phải do lấn, chiếm, chuyển mục
đích sử dụng trái phép thì loại đất được xác
định theo hiện trạng đang sử dụng; trường
hợp sử dụng đất do lấn, chiếm, chuyển mục
đích sử dụng đất trái phép thì loại đất được
xác định căn cứ vào nguồn gốc, quá trình
quản lý, sử dụng đất; trường hợp Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất thì xác định loại đất căn
cứ vào quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch điểm
dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng xã
nông thôn mới đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt và dự án đầu tư.
1.3. Giá đất để tính bồi thường là theo
giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định
thu hồi đất5.
Luật Đất đai năm 2013 quy định 03
loại giá đất là khung giá đất, bảng giá đất và
giá đất cụ thể.
Khung giá đất: Khung giá đất do
Chính phủ ban hành định kỳ 05 năm một lần
đồi với từng loại đất và theo từng vùng. Nếu
giá đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20%
trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm 20%
5 Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
6 Điều 113 Luật Đất đai năm 2013.
7 Khoản 1 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013.
8 Khoản 3 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013.
9 Khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013.
so với giá đất tối thiểu trong khung giá đất
trong thời gian thực hiện khung giá đất thì
Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù
hợp6.
Bảng giá đất: Trên cơ sở khung giá đất
do Chính phủ ban hành và căn cứ nguyên
tắc, phương pháp định giá đất, UBND cấp
tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi
ký quyết định ban hành. Bảng giá đất được
xây dựng định kỳ 05 năm một lần và công
bố vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kỳ.
UBND cấp tỉnh phải điều chỉnh bảng giá
đất khi khung giá đất được điều chỉnh hoặc
giá đất trên thị trường có biến động. Đối với
giá đất tại các vùng giáp ranh giữa các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có chênh
lệch lớn thì Thủ tướng Chính phủ quyết
định7.
Giá đất cụ thể: Dựa trên cơ sở điều
tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất
trị trường và thông tin về giá đất trong cơ
sở dữ liệu đất đai; căn cứ áp dụng phương
pháp định giá đất phù hợp do Chính phủ quy
định và căn cứ kết quả tư vấn xác định giá
đất, UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ
thể8. Giá đất cụ thể làm căn cứ tính tiền bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất9.
Việc định giá các loại giá đất dựa trên
các nguyên tắc sau: Theo mục đích sử dụng
đất hợp pháp tại thời điểm định giá; thời hạn
sử dụng đất; phù hợp với giá đất phổ biến
trên thị trường của loại đất có cùng mục đích
sử dụng (bao gồm giá đất đã chuyển nhượng,
giá đất trúng đấu giá) hoặc thu nhập từ việc
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 22(374) T11/2018
sử dụng đất; các thửa đất liền kề có cùng
mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu
nhập từ việc sử dụng đất tương tự thì cùng
thời điểm được xác định giá như nhau10. Các
phương pháp định giá đất bao gồm: Phương
pháp so sánh trực tiếp, phương pháp thặng
dư, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu
nhập và phương pháp hệ số điều chỉnh giá
đất11.
1.4.Việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan,
công bằng, công khai, kịp thời và đúng pháp
luật.
Nguyên tắc này không chỉ được đảm
bảo trong lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất mà phải được đảm bảo trong mọi
mặt của quá trình thực hiện các quy định của
pháp luật. Đối với việc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, thực hiện nguyên tắc này
được thể hiện trên các khía cạnh sau:
(i) Người dân nói chung, người bị thu
hồi đất nói riêng được tạo điều kiện tham gia
vào quá trình góp ý xây dựng các quy định
của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất; người có đất bị thu hồi được tạo
điều kiện tham gia vào quá trình thực thi
việc bồi thường với tư cách là một chủ thể
của quá trình đó;
(ii) Đảm bảo sự công khai, minh bạch
trong các quy định cụ thể về quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất và sửa đổi, điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy
định cụ thể các trường hợp được thu hồi đất
để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng để tránh việc lợi dụng
quy định này nhằm thu hồi đất cho doanh
nghiệp nhưng không vì mục đích phát triển
10 Khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai năm 2013.
11 Điều 4 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất.
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng; công khai các quyết định chủ
trương đầu tư, chấp thuận đầu tư, quyết định
đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, trừ trường hợp thuộc bí
mật nhà nước; công khai các quyết định của
cơ quan có thẩm quyền về nhu cầu đất để sử
dụng vì mục đích quốc phòng, an ninh, trừ
những công trình thuộc bí mật; công khai
toàn bộ hồ sơ thu hồi và bồi thường; quy
định quyền được tiếp cận hồ sơ địa chính
như tờ bản đồ, hồ sơ kỹ thuật, sổ địa chính,
sổ đăng ký ruộng đất đối với đất bị thu
hồi để người có đất bị thu hồi biết được
quyền lợi của mình được bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư; công khai, minh bạch về giải
quyết khiếu nại, tố cáo;
(iii) Đảm bảo sự công bằng, không
phân biệt giá đất bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện,
giữa những thửa đất có điều kiện sinh lợi
như nhau; công bằng để giải quyết những
hạn chế do quá trình quản lý đất đai để lại
liên quan đến điều kiện để được bồi thường
về đất;công bằng trong việc bồi thường bằng
đất khi so sánh giữa nơi đi và nơi đến, theo
đó những người bị thu hồi đất ở vị trí thuận
lợi thì cũng được giao đất ở vị trí tương ứng,
nếu đã được bồi thường đúng quy định thì
người bị thu hồi đất sớm bàn giao mặt bằng
được ưu tiên giao đất ở vị trí thuận lợi;
(iv) Kịp thời trong việc kiểm đếm, lập
phương án và chi trả bồi thường; xây dựng,
hoàn thiện và bàn giao khu tái định cư; hỗ
trợ đào tạo và chuyển đổi nghề; giải quyết
khiếu nại, tố cáo đúng thời hạn theo quy
định của pháp luật;
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 22(374) T11/2018
(v) Xác định và bồi thường đúng loại
đất, diện tích đất, giá đất và các quyền lợi
mà người bị thu hồi đất được hưởng.
2. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện
nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng
Thực tiễn thực hiện quy định của pháp
luật về nguyên tắc bồi thường về khi Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng cho thấy còn có
những bất cập, hạn chế sau:
- Về nguyên tắc bồi thường được thực
hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất
để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền
Thứ nhất, không có đất để bồi thường
hoặc giá trị của đất được bồi thường có giá
trị không tương xứng với đất bị thu hồi.
Hiện nay, nhóm đất nông nghiệp ngày
càng giảm, nhóm đất phi nông nghiệp ngày
càng tăng. Để tăng đất phi nông nghiệp thì
phải chuyển mục đích từ nhóm đất nông
nghiệp. Vì thế, quy định “đất đổi đất” không
khả thi vì thực tế quỹ đất nhiều nơi không
còn, đặc biệt là nhóm đất nông nghiệp, trong
đó đáng lưu tâm nhất là đất trồng lúa và đất
trồng cây hàng năm khác, đất làm muối, đất
nuôi trồng thủy sản và các loại đất rừng. Các
loại đất này là tư liệu sản xuất quan trọng
gắn liền với nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Việc không được bồi thường bằng đất
mà được bồi thường bằng tiền và các khoản
hỗ trợ như hiện nay không phát huy nhiều
giá trị do việc sử dụng tiền không hiệu quả
mà nếu bồi thường bằng đất thì phát huy
được giá trị lâu dài và bền vững hơn đối với
nông dân. Hơn nữa, việc bồi thường bằng
đất có lợi hơn bồi thường bằng tiền, đặc biệt
là đối với nhóm đất có khả năng sinh lợi cao
như đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp và nhóm đất nông nghiệp. Bởi lẽ,
hiện nay, giá đất để được bồi thường được
xác định tại thời điểm có quyết định thu hồi
mà không tính đến giá trị sinh lợi lâu dài của
đất.
Thực tế hiện nay, nhiều trường hợp đất
được bồi thường có giá trị không bằng đất bị
thu hồi. Điều này thể hiện ở các khía cạnh
như khả năng sinh lợi, giá trị thương mại,
điều kiện sản xuất, kinh doanh, chất lượng
cuộc sống gắn liền với không gian văn hóa,
giáo dục, tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo ...
Thứ hai, căn cứ hiện trạng để xác định
loại đất không chính xác.
Điều 2 Nghị định 01 quy định trường
hợp đất đang sử dụng ổn định mà không phải
do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng trái
phép thì loại đất được xác định theo hiện
trạng đang sử dụng. Tuy nhiên, trên thực tế,
người sử dụng đất tự ý thay đổi mục đích sử
dụng đất đối với một thửa đất dẫn đến hiện
trạng thay đổi diễn ra thường xuyên. Chẳng
hạn, người sử dụng đất sử dụng đất nông
nghiệp để trồng cây hàng năm, cây lâu năm,
sau đó họ phá bỏ để làm nhà; hoặc trường
hợp đất đã sử dụng đất để làm nhà ở qua
nhiều thế hệ, mục đích sử dụng đầu tiên là
đất ở, sau đó do bão lụt làm mất nhà, chưa
có điều kiện làm nhà nên họ trồng cây hàng
năm. Trong những trường hợp này, khi lập
phương án bồi thường, nếu cơ quan có thẩm
quyền chỉ căn cứ vào hiện trạng để xác định
loại đất là không chính xác, mà còn phải căn
cứ vào nguồn gốc, quá trình sử dụng đất.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 22(374) T11/2018
- Về giá đất để tính bồi thường
Thứ nhất, giá đất nói chung, giá đất cụ
thể làm căn cứ bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nói riêng không phù hợp với giá đất
phổ biến trên thị trường, cụ thể là thấp hơn
giá thị trường rất nhiều dẫn đến khó khăn,
khiếu nại phức tạp khi áp giá bồi thường,
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người có
đất bị thu hồi và làm ảnh hưởng đến tiến
độ giải phóng mặt bằng. Mặt khác, khái
niệm “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị
trường” còn mang tính chung chung.
Thứ hai, tồn tại cơ chế “thỏa thuận
ngầm” giữa chủ đầu tư, nhà thầu thi công
với người bị thu hồi đất. Trong một dự án
thu hồi đất, người bị thu hồi đất đồng ý thì
sớm bàn giao mặt bằng, người không đồng
ý sẽ không bàn giao mặt bằng, làm phát sinh
khiếu nại kéo dài. Chủ đầu tư, nhà thầu thi
công luôn mong muốn đẩy nhanh tiến độ dự
án, tránh việc khiếu nại, khởi kiện, cưỡng
chế kéo dài, tốn kém. Vì thế, chủ đầu tư, nhà
thầu tìm cách thỏa thuận với người có đất bị
thu hồi bằng việc chi thêm tiền bồi thường
không chính thức, không văn bản cho những
trường hợp này. Điều này dẫn đến tình trạng
bất công và tạo tiền lệ xấu là kéo dài quá
trình bàn giao mặt bằng để mong được thêm
tiền bồi thường cho dù giá bồi thường đã
thỏa đáng.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật về nguyên tắc bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng
Thứ nhất, Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương
6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại và Bộ luật
Dân sự năm 2015 đã xác định, quy định
quyền sử dụng đất là một loại tài sản và là
hàng hóa đặc biệt. Vì thế, cần quy định giá
đất được bồi thường là giá thị trường.
Thứ hai, cần quy định thống nhất “một
giá đất” là giá thị trường áp dụng trong bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và giá
đất phải trả thông qua chuyển dịch đất đai
tự nguyện theo Điều 73 Luật Đất đai năm
2013. Quy định “một giá đất” để đảm bảo
đất được xác định và trả về giá trị thực của
nó, phù hợp với các quy luật của nền kinh
tế thị trường, không phân biệt chủ thể được
quyền sử dụng sau thu hồi là Nhà nước hay
doanh nghiệp.
Thứ ba, cần quy định cụ thể căn cứ
xác định loại đất đối với đất không có giấy
tờ về quyền sử dụng đất nhưng đang sử dụng
đất ổn định mà không phải do lấn, chiếm,
chuyển mục đích sử dụng trái phép.
Thứ tư, cần quy định giá đất do đơn
vị tư vấn xác định phải được công khai
trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết
định làm căn cứ bồi thường, đại diện những
người bị thu hồi đất được tham gia vào quá
trình xác định giá đất với tư cách là một
thành viên của cơ quan (hội đồng) xác định
giá đất. Trường hợp giữa đại diện người có
đất bị thu hồi, đơn vị tư vấn và cơ quan xác
định giá đất không thống nhất được giá đất
thì thuê đơn vị tư vấn ngoài tỉnh để xác định.
Thứ năm, cần quy định trong trường
hợp bồi thường bằng đất thì đất được bồi
thường phải có giá trị và giá trị sinh lợi
tương đương với thửa đất bị thu hồi.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 22(374) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- boi_thuong_ve_dat_khi_nha_nuoc_thu_hoi_dat_vi_muc_dich_quoc.pdf