Hình ảnh cộng hưởng từ trên bệnh nhân
Alzheimer có thể coi như một tiêu chuẩn chẩn
đoán sớm bệnh thông qua việc so sánh sự
khác biệt hình ảnh các chuỗi xung khuếch tán,
phổ và tưới máu thông qua sự biến đổi các
thông số của các chuỗi xung trên bệnh nhân
so với các thông số chuẩn của máy.
Tuổi trung bình bệnh nhân là 73,6; nam
chiếm 60%, nữ chiếm 40%. Có tỷ lệ đồng tín
hiệu 100% trên chuỗi xung khuếch tán. Nồng
độ các chất trong phổ NAA, Cho, Lip và Lac
có xu hướng giảm so với các chỉ số bình
thường. Myo tăng ở tất cả các thuỳ và vị trí
đo; Cr tăng ở thuỳ thái dương, thuỳ chẩm
chưa thấy dấu hiệu thay đổi; Glx, Ala giảm tại
thùy thái dương bên phải, bên trái và thùy
chẩm không thấy thay đổi.
Trong chuỗi xung tưới máu giảm rCBF,
rCBV và tăng MTT, TTP gấp 3 - 4 lần trên
bệnh nhân Alzheimer ở cả 4 thuỳ thái dương,
đỉnh, chẩm và trán. Có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p < 0,05 với chỉ số rCBF giữa các
thùy bên phải và rCBV giữa các thùy bên trái.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá đặc điểm các chuỗi xung: khuếch tán, phổ, tưới máu trên bệnh nhân alzheimer tại bệnh viện lão khoa trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 114 (5) - 2018 51
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM CÁC CHUỖI XUNG:
KHUẾCH TÁN, PHỔ, TƯỚI MÁU TRÊN BỆNH NHÂN ALZHEIMER
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
1Trần Văn Ngọc, 1Phạm Thắng, 2Vũ Đăng Lưu
1Bệnh viện Lão khoa Trung ương, 2Trường đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu ứng dụng chụp cộng hưởng từ sọ não trên 30 bệnh nhân được chẩn đoán Alzheimer bằng
các chuỗi xung khuếch tán, phổ và tưới máu trên máy MRI 1.5 tesla tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Tuổi trung bình là 73,6; nam chiếm 60%. Có tỷ lệ đồng tín hiệu 100% trên chuỗi xung khuếch tán. Nồng độ
các chất trong phổ NAA, Cho, Lip và Lac có xu hướng giảm so với các chỉ số bình thường. Myo tăng ở tất cả
các thuỳ và vị trí đo; Cr tăng ở thuỳ thái dương, thuỳ Chẩm chưa thấy dấu hiệu thay đổi; Glx, Ala giảm tại
thùy thái dương bên phải, bên trái và thùy chẩm không thấy thay đổi. Chỉ số chuỗi xung tưới máu rCBF,
rCBV giảm; Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 của chỉ số rCBF giữa các thùy bên phải và
rCBV giữa các thùy bên trái. MTT, TTP tăng 3 - 4 lần trên bệnh nhân Alzheimer và không thấy có sự khác
biệt giữa các thùy. Có thể ứng dụng các chỉ số trong chuỗi xung khuếch tán, phổ và tưới máu trong việc phát
hiện và chẩn đoán sớm bệnh Alzheimer.
Từ khóa: Cộng hưởng từ Alzheimer, chuỗi xung khuếch tán, phổ, tưới máu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Alzheimer là bệnh lý thoái hóa hệ thần kinh
trung ương với đặc điểm tiến triển tăng dần và
không thể hồi phục, các tế bào thần kinh ở vỏ
não cùng với các cấu trúc xung quanh bị tổn
thương, làm giảm khả năng phối hợp vận
động, rối loạn cảm giác và cuối cùng gây ra
tình trạng mất trí nhớ, rối loạn nhận thức, kèm
theo thay đổi hành vi, gây ảnh hưởng đến
nghề nghiệp và xã hội của bệnh nhân [1; 2].
Bệnh chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác
nhau đặc trưng bằng suy giảm trí nhớ, không
phân biệt giới tính, thường gặp ở người cao
tuổi, hiện nay khoa học vẫn chưa hiểu rõ
nguyên nhân và tiến triển của Alzheimer [3; 4].
Việc chẩn đoán sa sút trí tuệ đến nay chủ
yếu vẫn dựa vào các biểu hiện trên lâm sàng
của bệnh nhân. Các tiêu chuẩn chẩn đoán sa
sút trí tuệ được chấp nhận trên toàn thế giới
như DSM V, ICD X, NINCDS - ADRDA \ Tuy
vậy, không thể phủ nhận vai trò của các xét
nghiệm cận lâm sàng trong chẩn đoán hội
chứng sa sút trí tuệ nói chung và bệnh
Alzheimer nói riêng [5; 6].
Một trong những phương pháp hiện nay
đang được quan tâm nghiên cứu ứng dụng
trong chẩn đoán không xâm nhập là chụp
cộng hưởng từ sọ não. Nhiều tác giả cũng đã
nghiên cứu ứng dụng cộng hưởng từ sọ não
đo thể tích vùng hải mã, hạnh nhân, thuỳ trán,
thuỳ thái dương, thuỳ đỉnh, thuỳ chẩm trong
chẩn đoán cũng như tiên lượng của bệnh
Alzheimer. Tuy nhiên việc phát hiện teo thùy
Thái Dương và các thùy não thì bệnh
Alzheimer đã ở giai đoạn nặng. Các nghiên
cứu trên thế giới đang tập trung tiến hành phát
triển các ứng dụng và đánh giá sự thay đổi tính
chất của các chuỗi xung đặc biệt của cộng
Địa chỉ liên hệ: Trần Văn Ngọc, Viện Lão khoa Trung
ương
Email: trannguyenngoc318@gmail.com
Ngày nhận: 15/1/2018
Ngày được chấp thuận: 18/6/2018
52 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
hưởng từ để cố gắng phát hiện bệnh ở giai
đoạn sớm hơn [7; 8].
Việc chẩn đoán và phát hiện sớm bệnh
Alzheimer đem lại một ý nghĩa to lớn trong
việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Do vậy,
một số tác giả trên thế giới đã đưa ra các tiêu
chuẩn chẩn đoán mới của sa sút trí tuệ trong
đó bên cạnh các tiêu chuẩn lâm sàng như cũ
có bổ sung thêm một số tiêu chuẩn dựa trên
các chẩn đoán cận lâm sàng [9 - 11].
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu cộng
hưởng từ nào mô tả đặc điểm các chuỗi xung:
khuếch tán, phổ, tưới máu và sự thay đổi của
chúng trên bệnh nhân được chẩn đoán
Alzheimer. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Mô tả một số
đặc điểm của 3 chuỗi xung khuếch tán, phổ và
tưới máu trên bệnh nhân đã được chẩn đoán
Alzheimer.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bao gồm 30 bệnh nhân được chẩn đoán
Alzheimer đang điều trị ngoại trú theo chương
trình quản lý và theo dõi bệnh mạn tính tại
Bệnh viện Lão khoa Trung ương, không phân
biệt giới tính, tuổi và mức độ mắc bệnh.
2. Địa điểm nghiên cứu và thời gian
nghiên cứu
+ Địa điểm: Khoa Chẩn đoán Hình ảnh -
Bệnh viện Bạch Mai.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11 năm
2016 đến tháng 5 năm 2017.
3. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: mô tả tiến cứu.
- Nghiên cứu một số đặc điểm liên quan:
+ Tuổi, giới, hình thức lao động, mức độ
bệnh.
- Nghiên cứu hình thái học:
+ Nghiên cứu đặc điểm hình thái học não
của bệnh nhân Alzheimer của 3 chuỗi xung:
Khuếch tán, phổ và tưới máu trên máy cộng
hưởng từ PHILLIP INGENIA 1.5 tesla.
Các chỉ số được tiến hành nghiên cứu trên
các chuỗi xung:
+ Khuếch tán: Đánh giá đồng tín hiệu, tăng
tín hiệu hay giảm tín hiệu tại 4 thuỳ: trán, thái
dương, chẩm và đỉnh.
+ Phổ: đánh giá sự biến thiên của các chỉ
số nồng độ NAA; Myo; Cr; cho; lip; lac; GlX;
Ala \ tại 2 thuỳ: thái dương và chẩm.
+ Tưới máu: Đánh giá các chỉ số rCBF;
rCBV; MTT; TTP tại 4 thuỳ: trán, thái dương,
chẩm và đỉnh.
4. Xử lý số liệu
Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng
các thuật toán thống kê y học, theo chương
trình EPI-INFO 7.0. Tính các tỷ lệ, trị số trung
bình.
5. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên các bệnh
nhân được chẩn đoán Alzheimer tình nguyện,
chụp cộng hưởng từ không làm tổn hại tới sức
khoẻ của bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu
mang lại dữ liệu về thực trạng và các tổn
thương của não theo thời gian, là cơ sở để
chẩn đoán Alzheimer từ giai đoạn sớm.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm phân bố bệnh nhân theo
nhóm tuổi của nhóm nghiên
TCNCYH 114 (5) - 2018 53
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Đặc điểm phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi của nhóm nghiên cứu
Nhóm tuổi n Tỷ lệ (%)
< 60 5 16,7
61 - 70 11 36,7
71 - 80 8 26,6
> 80 6 20
Trung bình 73,6 ± 12,4 100
Tuổi trung bình mắc bệnh: 73,6 ± 12,4, thấp nhất 45 tuổi, cao nhất 88 tuổi, trong đó số bệnh
nhân từ 61 - 70 tuổi là: 11 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 36,7%; số bệnh nhân từ 71 - 80 tuổi là: 8 bệnh
nhân chiếm tỷ lệ 26,6%; số bệnh nhân trên 80 tuổi là: 6 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 20,0% và dưới 60
tuổi có 5 bệnh nhân chiếm 16,7%. Độ tuổi từ 61 - 80 chiếm 63,3%.
2. Đặc điểm phân loại bệnh nhân theo giới và loại hình lao động
Bảng 2. Đặc điểm phân loại bệnh nhân theo giới và loại hình lao động
Giới tính Nam Nữ Tổng số
Loại hình lao động n % n % n %
Trí óc 10 33,3 8 26,6 18 60
Chân tay 8 26,7 4 13,4 12 40
18 60% 12 40% 30 100
Tỷ lệ nam 18 người chiếm 60%, nữ 12 người chiếm 40%. Trong đó người lao động trí óc 18
(60%), người lao động chân tay 12 người chiếm 40%, nam lao động trí óc 10 chiếm 55,6%; nam
lao động chân tay 44,4%. nữ lao động trí óc 8 chiếm 66,7%; nữ lao động chân tay 33,3%
Bảng 3. Đặc điểm phân bố mức độ của bệnh
Mức độ n Tỷ lệ (%)
Nhẹ 8 26,7
Trung bình 17 56,7
Nặng 5 15,6
Mức độ mắc bệnh nhẹ có 8 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 26,7%; mức độ trung bình có 17 bệnh nhân
chiếm tỷ lệ 56,7% và mức độ nặng có 5 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 15,6%. Theo dõi hình ảnh chuỗi
xung khuếch tán trên 30 bệnh nhân tiến hành nghiên cứu chúng tôi thấy 100% tỷ lệ đồng tín hiệu
trên chuỗi xung khuếch tán tại 4 thùy não được đánh giá bao gồm các thuỳ trán, thái dương, đỉnh
và chẩm. Không thấy có hình ảnh tăng, giảm tín hiệu.
54 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 4. Nồng độ các chất trong phổ
Thái Dương Chẩm
Phải Trái Phải Trái
NAA 1,81 ± 0,49 1,86 ± 0,01 1,93 ± 0,40 1,96 ± 0,02
Myo 5,53 ± 0,07 4,54 ± 0,12 5,74 ± 0,10 4,59 ± 0,16
CR 3,27 ± 0,03 3,15 ± 0,02 3,04 ± 0,05 3,02 ± 0,03
Cho 3,02 ± 0,03 3,05 ± 0,04 3,10 ± 0,03 3,11 ± 0,04
Lip 0,90 ± 0,02 0,86 ± 0,04 0,98 ± 0,03 1,09 ± 0,05
Lac 1,14 ± 0,02 1,03 ± 0,03 1,20 ± 0,05 1,23 ± 0,06
Glx 1,96 ± 0,24 2,01 ± 0,16 2,56 ± 0,16 2,40 ± 0,11
Ala 1,21 ± 0,11 1,28 ± 0.12 1,38 ± 0,10 1,42 ± 0,08
Các chất/Thuỳ
Bảng 4 cho thấy, nồng độ các chất trong phổ lần lượt đo được trên các vị trí thuỳ thái dương
và thùy chẩm cả 2 vị trí bên phải và bên trái với NAA: giảm rõ rệt ở thùy thái dương bên phải và
trái (1,81; 1,86) thùy chẩm giảm nhẹ (1,93; 1,96). Myo: tất cả các vị trí đo của 2 thuỳ đều thấy
tăng cao hơn chỉ số trung bình (Cao nhất 5,74 chẩm phải, thấp nhất 4,54 thái dương trái); Cr tăng
ở thùy thái dương cả bên phải và trái (3,27; 3,15) chưa thấy sự thay đổi tại thùy chẩm. Cho, Lip
và Lac giảm trên thùy thái dương và chẩm cả bên phải và trái, các chỉ số này có xu hướng giảm.
Glx, Ala giảm tại thùy thái dương bên phải, bên trái và thùy chẩm không thấy thay đổi.
Bảng 5. Hình ảnh chuỗi xung tưới máu Phải
Thuỳ/Chỉ số rCBF rCBV MTT TTP
Thái Dương 9,83 ± 7,36 2,30 ± 1,21 14,34 ± 6,51 16,45 ± 4,36
Đỉnh 7,40 ± 4,32 2,01 ± 0,913 16,29 ± 4,20 16,55 ± 2,69
Chẩm 7,21 ± 2,64 2,26 ± 1,32 19,31 ± 5,62 16,9 ± 4,10
Trán 5,99 ± 2,10 1,83 ± 0,96 18,35 ± 4,45 16,6 ± 3,40
p p ˂ 0,05 p ˃ 0,05 p ˃ 0,05 p ˃ 0,05
Chỉ số rCBF, rCBV giảm trên tất cả 4 thùy thái dương, đỉnh, chẩm và trán, sự thay đổi chỉ số
rCBF giữa các thùy có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, trong đó thùy trán giảm thấp nhất (5,99 ±
2,10); sự thay đổi chỉ số rCBV giữa các thùy không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tại 4 thùy
các chỉ số MTT và TTP đều tăng từ 3 - 4 lần so với giá trị trung bình đo được từ não không tổn
thương; so sánh sự thay đổi các chỉ số MTT và TTP tại 4 thùy không thấy sự khác biệt, p > 0,05.
TCNCYH 114 (5) - 2018 55
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 6. Hình ảnh chuỗi xung tưới máu Trái
Thuỳ/Chỉ số rCBF rCBV MTT TTP
Thái Dương 6,57 ± 3,52 2,15 ± 1,03 19,60 ± 5,75 18,43 ± 6,91
Đỉnh 5,02 ± 2,54 1,33 ± 0.94 15,88 ± 8,72 18,3 ± 5,74
Chẩm 6,33 ± 3,70 2,04 ± 1,12 19,32 ± 5,36 16,93 ± 3,15
Trán 5,40 ± 2,10 1,38 ± 0,9 15,31 ± 5,81 16,4 ± 2,93
p p > 0,05 p 0,05 p > 0,05
Tương tự bên phải chúng tôi thấy chỉ số rCBF, rCBV giảm trên tất cả 4 thùy Thái Dương,
Đỉnh, Chẩm và Trán; sự thay đổi chỉ số rCBF giữa các thùy không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05;
sự thay đổi chỉ số rCBV giữa các thùy bên trái có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, Các chỉ số MTT
và TTP đều tăng gấp 3 - 4 lần so với giá trị bình thường tại 4 thùy; sự khác biệt giữa các thùy
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Tuổi mắc bệnh, giới tính, hình thức lao
động và mức độ bệnh là các yếu tố liên quan
tới bệnh Azlheimer: Tuổi là một yếu tố nguy
cơ chính cho tỷ lệ mắc bệnh theo Tổ chức Y
tế Thế giới thì cứ mỗi 5 năm sau tuổi 65, các
nguy cơ nhiễm bệnh khoảng gấp đôi, tỷ lệ
người càng cao tuổi thì càng có nhiều nguy
cơ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với các tác giả khác tuổi trung bình mắc bệnh:
73,6 ± 12,4; bệnh nhân 61 - 70 tuổi chiếm tỷ lệ
cao nhất 36,7% vì đây là nhóm tuổi bắt đầu có
biểu hiện của bệnh và đi khám nhiều; bệnh
nhân 71 - 80 tuổi chiếm tỷ lệ 26,6%. ở lứa tuổi
này có tỷ lệ đi khám ít hơn vì thường cho rằng
đó là bệnh của người già nên không cần
khám, đặc biệt là những người sống ở khu
vực nông thôn; bệnh nhân trên 80 tuổi chiếm
tỷ lệ 20,0% và dưới 60 tuổi chiếm 16,7%.
Bệnh nhân thấp tuổi nhất 45, cao tuổi nhất là
88 [1; 9].
Theo các nghiên cứu sự khác biệt giới tính
ở các mức tỷ lệ, thì phụ nữ có nguy cơ phát
triển bệnh Azlheimer cao hơn nam [5; 8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi nam chiếm
60%, nữ chiếm 40% sự khác biệt này do
chúng tôi tiến hành nghiên cứu trong bệnh
viện và sự nhập viện điều trị là do ý thức chủ
quan của bệnh nhân không phải tỷ lệ mắc
bệnh thực tại cộng đồng. Tương tự cũng
giống như vậy tỷ lệ lao động trí óc là 60%, lao
động phổ thông là 40% trên các nghiên cứu
khác tại cộng đồng thì tỷ lệ lao động phổ
thông cao hơn lao động trí óc. Tính theo mức
độ nặng nhẹ của bệnh thì nhóm trung bình
chiếm cao nhất 56,7%; tiếp theo là nhóm nhẹ
chiếm 26,7 và cuối cùng nhóm nặng chiếm tỷ
lệ thấp nhất 15,6%.
Về đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ
chuỗi xung khuếch tán trên 30 bệnh nhân tiến
hành nghiên cứu chúng tôi thấy 100% tỷ lệ
đồng tín hiệu trên cả 4 thùy não bao gồm:
Thái dương, đỉnh, chẩm và trán. Không thấy
có hình ảnh tăng hoặc giảm tín hiệu các vị trí
nghiên cứu. Kết quả này cho thấy sự khác
biệt của các loại tổn thương não khác nhau
56 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
trên các chuỗi xung khuếch tán, khi não không
tổn thương cấp thì có hiện tượng đồng tín
hiệu, tăng tín hiệu chỉ xuất hiện trên tổn
thương chảy máu, nhồi máu cấp hay các u
não giàu tế bào, áp xe não giai đoạn chưa
hóa mủ.
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ chuỗi
xung phổ theo nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy, nồng độ các chất trong cộng hưởng từ
phổ lần lượt đo được trên thuỳ thái dương và
thùy chẩm cả 2 vị trí bên phải và bên trái với
NAA giảm rõ rệt ở thùy thái dương bên phải
và trái, thùy chẩm giảm nhẹ. MyoInositol: tất
cả các vị trí đo của 2 thuỳ đều thấy tăng hơn
so với chỉ số trung bình [8; 9; 11]; Cr tăng ở
thùy thái dương cả bên phải và trái, chưa thấy
sự thay đổi tại thùy chẩm. Cho, Lip và Lac
giảm trên cả thùy thái dương và chẩm bao
gồm các vị trí bên phải và trái. Glx, Ala giảm
tại thùy thái dương bên phải, bên trái và thùy
chẩm không thấy thay đổi. Theo nghiên cứu của
các tác giả trước đây thì nồng độ N-acetyl và
các chất dẫn truyền thần kinh giảm ở thùy trán
và thùy thái dương ở bệnh nhân Alzheimer so
với người bình thường [5]. Nghiên cứu của
chúng tôi tiến hành trên thuỳ thái dương và thuỳ
chẩm và cùng tiến hành trên máy cộng hưởng
từ 1,5 tesla, có một số khác biệt về đối tượng
bệnh nhân nên kết quả có thể có sai khác, đây
là dữ liệu liệu nghiên cứu về chuỗi xung phổ đầu
tiên trên trên bệnh nhân Azlheimer tại Việt Nam.
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ chuỗi
xung tưới máu: Tiến hành đo các chỉ số rCBF,
rCBV, MTT và TTP trên cả 4 thuỳ thái dương,
đỉnh, chẩm và trán, đây là những chỉ số cơ
bản của cộng hưởng từ tưới máu đánh giá
các tổn thương trên não [7; 12]. Chúng tôi
thấy rCBF, rCBV giảm trên tất cả 4 thùy thái
dương, đỉnh, chẩm và trán; trong đó tại vị trí
đo bên phải chỉ số rCBF đo được có sự khác
biệt giữa các thùy với p < 0,05, chỉ số rCBV
không có sự khác biệt với p > 0,05; bên trái
chỉ số rCBF không có sự khác biệt với p >
0,05; rCBV có sự khác biệt với p < 0,05, Các
chỉ số, MTT và TTP đều tăng cao gấp 3 - 4 lần
giá trị bình thường tại 4 thùy bao gồm cả 2 vị
trí đo bên phải và trái chúng tôi đều thu nhận
được kết quả tương đồng; sự thay đổi MTT và
TTP giữa các thùy đều không có ý nghĩa
thống kê. Bước đầu chúng tôi ghi nhận kết
quả về giảm rCBF, rCBV và tăng, MTT, TTP
trên bệnh nhân Alzheimer ở cả 4 thuỳ thái
dương, đỉnh, chẩm và trán.
V. KẾT LUẬN
Hình ảnh cộng hưởng từ trên bệnh nhân
Alzheimer có thể coi như một tiêu chuẩn chẩn
đoán sớm bệnh thông qua việc so sánh sự
khác biệt hình ảnh các chuỗi xung khuếch tán,
phổ và tưới máu thông qua sự biến đổi các
thông số của các chuỗi xung trên bệnh nhân
so với các thông số chuẩn của máy.
Tuổi trung bình bệnh nhân là 73,6; nam
chiếm 60%, nữ chiếm 40%. Có tỷ lệ đồng tín
hiệu 100% trên chuỗi xung khuếch tán. Nồng
độ các chất trong phổ NAA, Cho, Lip và Lac
có xu hướng giảm so với các chỉ số bình
thường. Myo tăng ở tất cả các thuỳ và vị trí
đo; Cr tăng ở thuỳ thái dương, thuỳ chẩm
chưa thấy dấu hiệu thay đổi; Glx, Ala giảm tại
thùy thái dương bên phải, bên trái và thùy
chẩm không thấy thay đổi.
Trong chuỗi xung tưới máu giảm rCBF,
rCBV và tăng MTT, TTP gấp 3 - 4 lần trên
bệnh nhân Alzheimer ở cả 4 thuỳ thái dương,
đỉnh, chẩm và trán. Có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p < 0,05 với chỉ số rCBF giữa các
thùy bên phải và rCBV giữa các thùy bên trái.
TCNCYH 114 (5) - 2018 57
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Lời cám ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Khoa
Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Bạch Mai,
lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai, lãnh đạo bệnh
viện Lão khoa Trung ương đã tạo điều kiện
thuận lợi để chúng tôi hoàn thành nghiên cứu
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Bắc (2010). Nghiên cứu
đặc điểm hình thái tổn thương não trên bệnh
nhân Alzheimer và động vật thực nghiệm.
Luận án tiến sĩ y học chuyên ngành giải phẫu
người, Học viện Quân Y.
2. Phạm Thắng (2010). Bệnh Alzheimer và
các thể sa sút trí tuệ khác. Nhà xuất bản Y
học, 3 - 327.
3. Alsop D.C., Dai W., Grossman M et al
(2010). Arterial spin labeling blood flow MRI:
its role in the early characterization of Alz-
heimer's disease. J Alzheimers Dis, 20(3),.
871 - 880.
4. Cai S., Chong T., Peng Y et al (2017).
Altered functional brain networks in amnestic
mild cognitive impairment: a resting - state
fMRI study. Brain Imaging Behav, 11(3), 619 -
631.
5. Clark D.G., McLaughlin, P.M., Woo E
et al (2016). Novel verbal fluency scores and
structural brain imaging for prediction of cogni-
tive outcome in mild cognitive impairment. Alz-
heimers Dement (Amst), 2, 113 - 22.
6. The ICD-10 Classification of Mental
and Behavioural Disorders, Clinical
descriptions and diagnostic guidelines, World
Health Organization.
7. Alberdi A., Aztiria A., Basarab A
(2016). On the early diagnosis of Alzheimer's
Disease from multimodal signals: A survey",
Artif Intell Med, 71, 1 - 29.
8. De Leon M.J., DeSanti S., Zinkowski R
et al (2004). MRI and CSF studies in the early
diagnosis of Alzheimer's disease. J Intern
Med, 256(3), 205 - 23.
9. American Psychiatric Association
(2013). Diagnostic and Statistical Manual of
Mental Disorders. Fifrth Ed. (DSM-V), Wash-
ington DC: American Psychiatric Association.
10. Colangeli S., Boccia M., Verde P et al
(2016). Cognitive Reserve in Healthy Aging
and Alzheimer's Disease: A Meta-Analysis of
fMRI Studies. Am J Alzheimers Dis Other
Demen, 31(5), 443 - 449.
11. Anandh K.R., Sujatha C.M., Rama-
krishnan S (2016). A Method to Differentiate
Mild Cognitive Impairment and Alzheimer in
MR Images using Eigen Value Descriptors. J
Med Syst, 40(1), 25.
12. Ardekani B.A., Bermudez E., Mubeen
A.M et al (2017). Prediction of Incipient Alz-
heimer's Disease Dementia in Patients with
Mild Cognitive Impairment. J Alzheimers Dis,
55(1), 269 - 281.
Summary
ASSESSING THE CHARACTERISTICS OF SPECIAL CHAINS:
DIFFUSION; SPECTRO; PERFUSION IN ALZHEIMER’S AT NATIONAL
GERIATRIC HOSPITAL
This study was conducted to access the application of cerebral cranial resonance imaging in
30 patients diagnosed with Alzheimer's with diffusion, spectral and perfusion series on 1.5-tesla
58 TCNCYH 114 (5) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
MRI in National Geriatric Hospital. Mean age was 73.6; male accounts for 60%. 100% co-
signaling rate on the diffusion pulse series. Concentrations of NAA, Cho, Lip and Lac spectrum
tended to decrease compared to normal. Myo increases at all lobes and measurement positions;
Cr increases in temporal lobes, occipital ligaments have not seen signs of change; Glx, Ala de-
creased in right temporal lobe, left and occipital lobe did not change. rCBF, rCBV perfusion index
decreased and there was a statistically significant difference with p < 0.05 of rCBF between the
right lobes and rCBV between the left lobes. MTT, TTP increased 3 - 4 times in Alzheimer's
patients and there was no difference between the lobes. It is possible to apply the indicators in
diffusion, spectral and perfusion in the detection and early diagnosis of Alzheimer's disease.
Key word: Alzheimer MRI, Diffusion, Spectro, Perfusion
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buoc_dau_danh_gia_dac_diem_cac_chuoi_xung_khuech_tan_pho_tuo.pdf