BỆNH ÁN MINH HỌA
Bệnh nhân nữ đau lưng 14 ngày, mức độ đau: 10
điểm, điểm RDQ: 20 điểm. Trên hình ảnh CHT có xẹp
mới đốt sống L2, xẹp độ 1. Bệnh nhân được tiến hành
bơm 8ml xi măng trong 5 phút, tổng thời gian 40 phút.
Điểm VAS sau 1 ngày: 4; Điểm Roland-Morris sau 1
ngày: 11.
KẾT LUẬN
Phương pháp THĐSQD là phương pháp can thiệp
tối thiểu, vết chọc kim nhỏ, bệnh nhân có thể đi lại và
xuất viện trong ngày, giảm thiểu chi phí nằm viện cũng
như công sức thời gian của người nhà chăm sóc bệnh
nhân. Phương pháp THĐSQD không chỉ mang lại hiệu
quả giảm đau nhanh, phục hồi vận động sớm mà hiệu
quả này còn tồn tại duy trì trong các thời gian theo dõi
sau 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.
Tuy nhiên đề tài nghiên cứu của chúng tôi vẫn
còn một số mặt hạn chế do nghiên cứu này mới chỉ là
nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng không đối chứng.
Chúng tôi không có nhóm chứng để so sánh xem
liệu phương pháp THĐSQD có thực sự hiệu quả hơn
phương pháp điều trị truyền thống hay không. Vì vậy
cần phải phát triển một nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng có đối chứng để trả lời được câu hỏi này.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả của phương pháp tạo hình đốt sống qua da trong điều trị xẹp đốt sống mới do loãng xương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 20144
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA
PHƯƠNG PHÁP TẠO HÌNH ĐỐT SỐNG QUA
DA TRONG ĐIỀU TRỊ XẸP ĐỐT SỐNG MỚI
DO LOÃNG XƯƠNG
The result of percutaneous vertebroplasty in treatment of
recent osteoporotic vertebral compression fractures
Đàm Thủy Trang*, Phạm Mạnh Cường*, Phạm Minh Thông*
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Bạch Mai
Purpose: To assess short-term outcomes in patients with
recent osteoporotic vertebral compression fractures treated with
percutaneous vertebroplasty.
Methods: About 15 patients suffered from recent osteoporotic
vertebral fractures underwent the percutaneous vertebroplasty
between April 2012 and October 2013 at Radiology Department,
Bach Mai hospital. The average age of patients was 75.9 years (14
womens). Measurements of pain and mobility were compared at 1
day, 1 week, 1 month and 3 months after the procedure.
Results: Pain scores were significantly reduced compared
with before treatment at every follow-up period. The preprocedural
mean VAS score was 9.1. At follow-up, mean VAS scores ranged
from 2.2 to 4.8. The pre-treatment mean RDQ score was 18.8 and
it ranged from 8.9 to 11 at follow-up.
Conclusion: Percutaneous vertebroplasty offers significant
benefits in relief pain and improve mobility for recent osteoporotic
vertebral fractures.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 5
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xẹp đốt sống là một trong những biến chứng
“thầm lặng” ở những bệnh nhân bị loãng xương. Xẹp
đốt sống gây ra đau lưng, biến dạng cột sống, hạn chế
vận động. Tạo hình đốt sống qua da (THĐSQD) cho
những trường hợp xẹp đốt sống có phù tủy xương trên
CHT mang lại hiệu quả đáng kể, trong đó triệu chứng
đau được cải thiện rõ rệt.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới
cho thấy đây là một phương pháp an toàn và hiệu quả
trong việc điều trị xẹp đốt sống vì giảm đau nhanh và
lâu dài đồng thời cải thiện chất lượng sống và sinh hoạt
của bệnh nhân [1], [2].
Trong những năm gần đây, phương pháp THĐSQD
đã được một số các bệnh viện lớn ở nước ta áp dụng
để điều trị xẹp đốt sống do loãng xương mang lại hiệu
quả rõ rệt [3], [4]. Tuy nhiên hiện nay chưa có công trình
nào đánh giá về kĩ thuật và hiệu quả của phương pháp
điều trị này đối với những bệnh nhân bị xẹp đốt sống
mới do loãng xương (xẹp đốt sống giai đoạn cấp và bán
cấp có đau lưng trên lâm sàng và phù tủy xương trên
CHT). Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này
nhằm bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị của phương
pháp này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Xẹp đốt sống lưng hoặc thắt lưng do loãng
xương.
- Lâm sàng có triệu chứng đau lưng tại chỗ,
không hoặc ít đáp ứng với điều trị nội.
- Xẹp đốt sống độ 1, 2 theo phương pháp của
Genant.
- Đốt sống xẹp có hình ảnh phù tủy xương trên
CHT.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân có các chống chỉ định điều trị tuyệt
đối với can thiệp nói chung.
- Bệnh nhân bị xẹp đốt sống mức độ 3 theo
Genant, xẹp đốt sống không kèm theo các
bệnh lí gây giảm mật độ xương.
- Bệnh nhân trong tình trạng chèn ép tủy cấp tính
có chỉ định mổ giải phóng tủy cấp cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu.
- Thời gian nghiên cứu: 4/2012 – 10/2013.
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Chẩn đoán hình
ảnh - Bệnh viện Bạch Mai.
2.3. Quy trình nghiên cứu
- Lập bệnh án: khám lâm sàng khai thác triệu
chứng và tiền sử bệnh.
- Thăm khám hình ảnh: chụp X-quang và CHT
cột sống lưng-thắt lưng, đo mật độ xương đánh
giá tình trạng loãng xương.
- Chuẩn bị và tiến hành can thiệp: giải thích cho
bệnh nhân và người nhà hiểu rõ mục tiêu, quá
trình và các tai biến có thể xảy ra. Tiến hành
đưa kim vào thân đốt sống và bơm xi măng.
- Theo dõi tại các thời điểm sau can thiệp 01
ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.
2.4. Tiêu chuẩn đánh giá
- Mức độ đau: thang điểm VAS.
- Mức độ hạn chế vận động: bộ câu hỏi Roland-
Morris.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
- Quản lý và xử lý số liệu bằng chương trình
SPSS 19.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của 15 đối tượng nghiên cứu là
75,87 ± 9,11 tuổi. Tuổi cao nhất là 90 tuổi và tuổi thấp
nhất là 58 tuổi. Trong đó có 14 bệnh nhân nữ và 1 bệnh nhân
là nam giới.
Mức độ đau trung bình trước khi tiến hành tạo hình
đốt sống là 9.1 ± 0.8 (8 - 10) điểm.
Thời gian đau trung bình là 18,93 ± 10,21 ngày
(5 - 43 ngày).
Số điểm trung bình của 15 đối tượng nghiên cứu
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 20146
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
sau khi phỏng vấn bằng bộ câu hỏi Roland-Morris là
18,8 ±1,2 điểm (17 - 21 điểm).
Số lượng và vị trí các đốt sống xẹp: 18 đốt sống
xẹp mới trong tổng số 28 đốt sống xẹp.
Trong đó vị trí từ D11 - L2 chiếm 72,22%.
3.2. Đặc điểm kỹ thuật tạo hình đốt sống
Tổng số đốt sống được tạo hình là 18 đốt sống.
Trong 15 bệnh nhân được tạo hình đốt sống có 12/15
(80%) bệnh nhân được tạo hình 1 đốt sống.
100% bệnh nhân được gây tê tại chỗ bằng Lidocain
2% và đường chọc kim là qua cuống sống hai bên vào
thân đốt sống.
Lượng xi măng trung bình được bơm vào thân đốt
sống khoảng 6,67 ± 2,60ml (2 - 10ml). Thời gian bơm
xi măng trung bình là 6,3 ± 2,1 phút và tổng lượng thời
gian tiến hành thủ thuật là 49,2 ± 18,3 phút.
Trong 18 lần thực hiện thủ thuật có 4 trường hợp
tràn vào đĩa đệm liên đốt sống và 1 trường hợp tràn qua
tĩnh mạch ngoài màng cứng.
3.3. Kết quả theo dõi sau can thiệp
- Tương quan giữa mức độ đau và mức độ hạn
chế hoạt động
Bảng 1. Tương quan giữa mức độ đau theo thang điểm VAS và mức độ hạn chế hoạt động theo bộ câu hỏi
Roland-Morris
Mức độ hạn chế hoạt động theo bộ câu hỏi Roland-Morris
Trước can thiệp
(n = 10)
1 ngày
(n = 10)
1 tuần
(n = 10)
1 tháng
(n = 9)
3 tháng
(n = 9)
Mức độ đau 0,846** 0,683* 0,709* 0,626 0,621
*p < 0,05. **p < 0,01.
- Mức độ đau theo thang điểm VAS:
Biểu đồ 1. Thang điểm đau VAS trước can thiệp, sau
1 ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng
- Mức độ hạn chế vận động theo bộ câu hỏi
Roland-Morris:
Biểu đồ 2. Điểm trung bình của bộ câu hỏi Roland
Morris trước can thiệp, sau 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng và
3 tháng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 7
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của các đối tượng là 75,9 tuổi.
Có sự phù hợp về độ tuổi trung bình trong nhóm nghiên
cứu của chúng tôi với các nghiên cứu trên thế giới,
đa số bệnh nhân là người cao tuổi bị xẹp đốt sống do
loãng xương. Trong nghiên cứu này, nữ giới chiếm tỉ
lệ 14/15 bệnh nhân. Điều này phù hợp với thực tế lâm
sàng bệnh lý loãng xương xảy ra chủ yếu ở phụ nữ
sau mãn kinh. Do sự thay đổi về lượng hormon sau
giai đoạn mãn kinh nên mật độ xương giảm dẫn tới làm
tăng nguy cơ gãy xương.
Trong 18 đốt sống được tạo hình, có 13/18 đốt
sống xẹp ở vị trí từ D11 - L2 chiếm 72,22%. Theo Đỗ
Mạnh Hùng và cs [4], vị trí xẹp D11 - L2 chiếm khoảng
81% (90/110 đốt sống). Theo nghiên cứu của Brodano
và cs, có 94 đốt sống xẹp, vị trí xẹp từ D11 - L2 chiếm
70% [5], còn theo Klazen và cs vị trí xẹp D11 - L2 chiếm
65% [6]. Như vậy, xẹp đốt sống thường xảy ra ở các vị
trí D11 - L2, tức là vùng bản lề vận động của cột sống.
Đây là vị trí cong nhất của cột sống, cũng là nơi cột
sống vận động nhiều và chịu trọng lực lớn nhất của cơ
thể. Khi bị loãng xương, các đốt sống vùng này bị ảnh
hưởng sớm nhất, dễ có nguy cơ gãy xương hơn các
đốt sống ở vị trí khác.
Tất cả đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đều
được chụp CHT cột sống trước khi tiến hành can thiệp
với mục đích xác định chính xác đốt sống bị tổn thương.
Chụp X quang có thể xác định vị trí các đốt sống bị xẹp,
tình trạng gù vẹo cột sống, nhưng khó đánh giá được
đốt sống nào mới xẹp và đốt sống nào xẹp cũ, đặc biệt
ở bệnh nhân loãng xương. Trong khi đó, trên CHT các
đốt sống bị xẹp mới thường tăng tín hiệu trên chuỗi
xung STIR biểu hiện tình trạng phù tủy xương, do xuất
hiện các vi gãy bên trong thân đốt sống, đôi khi có thể
nhìn thấy đường gãy xương là những dải giảm tín hiệu
trong vùng phù tủy xương. Người ta cho rằng hình ảnh
phù nề biểu hiện tính mới của tổn thương, là nguồn gốc
gây đau lưng cho bệnh nhân. Khi lựa chọn và điều trị
can thiệp cho các đốt sống xẹp mới này thì hiệu quả
điều trị được cải thiện đáng kể [7]. Những đốt sống xẹp
không có phù tủy xương trên CHT thường là những
đốt sống xẹp mạn tính. Khi đó xương trong thân đốt
sống đã liền, rất cứng, không thể tiến hành chọc kim
được vào thân đốt sống nên những trường hợp như
vậy không có chỉ định tạo hình đốt sống qua da. Do đó
chúng tôi chỉ lựa chọn những bệnh nhân xẹp đốt sống
có tăng tín hiệu trên chuỗi xung STIR nhằm mang lại
hiệu quả điều trị tối ưu.
4.2. Đặc điểm về kỹ thuật tạo hình đốt sống qua da
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi đều được tiến hành gây tê tại chỗ bằng Lidocain 2%
bao gồm gây tê dưới da, gây tê theo đường chọc kim
và gây tê màng xương xung quanh vị trí chọc cuống
sống. Nếu bệnh nhân đau nhiều, khó nằm yên thì có
thể được giảm đau sâu bằng các thuốc giảm đau tĩnh
mạch. Chúng tôi không sử dụng phương pháp gây mê
toàn thân cho bệnh nhân vì có thể có nguy cơ do gây
mê và tăng thêm gánh nặng về chi phí. Trong khi đó
thời gian diễn ra thủ thuật tương đối ngắn (trung bình
50 phút) và các bệnh nhân đều hợp tác tốt trong quá
trình thực hiện thủ thuật nên phương pháp gây tê tại
chỗ được ưu tiên sử dụng. Các nghiên cứu trong nước
và trên thế giới cũng tiến hành gây tê tại chỗ và/hoặc
phối hợp với giảm đau đường tĩnh mạch [4], [6].
Khi sử dụng đường chọc qua cuống sống một bên,
các tác giả thường cố gắng hướng kim vào trung tâm
đốt sống nhất, do đó kim chọc sẽ nằm sát thành trong
của cuống sống hơn, có nguy cơ làm tổn thương ống
sống. Việc sử dụng đường chọc qua cuống sống một
bên có thể rút gọn được thời gian làm thủ thuật tuy
nhiên xi măng sẽ không trải ra đồng đều trong thân đốt
sống. Do vậy trong nghiên cứu này, chúng tôi đều sử
dụng đường chọc qua cuống sống hai bên vì phương
pháp này an toàn hơn và xi măng sẽ ngấm lan tỏa và
đồng nhất trong thân đốt sống. Hiện nay trong các
nghiên cứu về THĐSQD các tác giả vẫn sử dụng cả
2 đường vào qua cuống sống một bên và hai bên [3],
[4], [8].
Thời gian trung bình để tạo hình đốt sống trong
nghiên cứu của chúng tôi là khoảng 50 phút. Nhiều đốt
sống xẹp cần tạo hình thì thời gian can thiệp cũng sẽ
kéo dài. Trong nghiên cứu của Brodano và cs trên 59
đối tượng, thời gian trung bình thực hiện thủ thuật cho
1 đốt sống xẹp là 30 phút, 2 đốt sống là 45 phút và 3 đốt
sống là 60 phút [5]. Như vậy, nếu bệnh nhân xẹp trên
2 đốt sống sẽ phải cân nhắc tiến hành tạo hình nhiều
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 20148
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thì để tránh bệnh nhân phải nằm lâu, chịu đựng một thủ
thuật can thiệp kéo dài.
Về tai biến, khi xi măng tràn vào đĩa đệm liên đốt
sống và tĩnh mạch ngoài màng cứng chúng tôi dừng
bơm xi măng để tránh tràn thêm. Trong quá trình theo
dõi, các biến chứng này đều không gây ra triệu chứng
trên lâm sàng. Theo Đỗ Mạnh Hùng và cs, có 20/68
trường hợp tràn xi măng vào đĩa đệm, 1 trường hợp
tràn xi măng vào lỗ liên hợp. Trong nghiên cứu của
Phạm Mạnh Cường và cs, có 5/20 trường hợp tràn xi
măng vào đĩa đệm và 1/20 trường hợp tràn xi măng vào
khoang ngoài màng cứng nhưng không có biểu hiện
gì trên lâm sàng và không cần phải điều trị gì [3], [4].
Alvarez và cs nghiên cứu có tới 72% trường hợp tạo
hình đốt sống có biến chứng tràn xi măng quanh đốt
sống tuy nhiên các trường hợp này không gây ra triệu
chứng lâm sàng nào [9].
Biến chứng tràn xi măng là biến chứng thường
gặp trong THĐSQD. Một số yếu tố có thể tiên lượng
được nguy cơ tràn xi măng như vị trí xẹp đốt sống,
mức độ xẹp của thân đốt sống (xẹp độ 3 dễ bị tràn xi
măng), lượng xi măng bơm vào thân đốt sống, độ nhớt
của xi măng, đường vỡ ở sát bề mặt thân đốt sống...
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vật liệu xi măng được
sử dụng trong các lần tạo hình là giống nhau (độ nhớt
thấp), các đốt sống chỉ xẹp độ 1 hoặc độ 2 nên các yếu
tố này hầu như không liên quan đến biến chứng tràn
xi măng. Các trường hợp tràn xi măng vào đĩa đệm
trong nghiên cứu của chúng tôi đều do xuất hiện đường
vỡ gần bề mặt thân đốt sống, xi măng lan theo đường
vỡ vào đĩa đệm. Các trường hợp này đã được dự tính
trước khi tiến hành can thiệp dựa vào phim chụp CHT
và đã được giải thích đầy đủ cho người nhà bệnh nhân.
4.3. Đặc điểm theo dõi sau tạo hình đốt sống qua da
Chúng tôi theo dõi các đối tượng ở các thời điểm
sau can thiệp, cụ thể là 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3
tháng. Chúng tôi chọn lựa các mốc thời gian này dựa
theo các tác giả trong nước và trên thế giới. Chúng tôi
sử dụng thang điểm VAS và bộ câu hỏi Roland-Morris
để đánh giá mức độ đau và mức độ hạn chế hoạt động
của đối tượng nghiên cứu. Đây là những công cụ dễ sử
dụng, dễ đánh giá, đã được áp dụng nhiều trong các
nghiên cứu trong và ngoài nước. Bộ câu hỏi Roland-
Morris chứa đựng các thông tin về thể lực, vận động
và sự hạn chế hoạt động chức năng liên quan đến các
bệnh lý cột sống.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có sự
cải thiện rõ ràng, có ý nghĩa thống kê về thang điểm
VAS, số điểm trung bình của bộ câu hỏi Roland-Morris
ở thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp (giảm 4,3
điểm trong thang điểm VAS và giảm 7,8 điểm RDQ ở
thời điểm sau 1 ngày). Sự cải thiện này vẫn thấy được
cả trong thời gian theo dõi các đối tượng nghiên cứu.
Ngoài ra nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy mối
tương quan tương đối chặt chẽ giữa mức độ đau với
mức độ hạn chế vận động, mối tương quan này thuận
chiều và có ý nghĩa thống kê ở thời điểm trước can
thiệp, sau can thiệp 1 ngày và 1 tuần. Sự tương quan
này cũng được nhận thấy ở nghiên cứu của Trout và
cs, với p<0,001 [10].
Bảng 2. Thang điểm VAS của các nghiên cứu
Tác giả Năm n
VAS
Trước can thiệp 1 ngày 1 tuần 1 tháng 3 tháng
Kobayashi và cs [2] 2004 205 7,22 2,07 - - -
Do và cs [1] 2005 167 8,71 - - 2,77 -
Klazen và cs [6] 2010 101 7,8 3,7 3,5 2,5 2,4
Chúng tôi 2013 10 9,1 4,8 3,5 3,1 2,2
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 9
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3. RDQ trong các nghiên cứu
Tác giả Năm n
RDQ
Trước can thiệp 1 ngày 1 tuần 1 tháng 3 tháng
Buchbinder và cs [11] 2009 38 17,3 - - 12,9 -
Klazen và cs [6] 2010 101 18,6 - - 11,8 9,8
Comstock và cs [12] 2013 68 16,62 - - 11,97 10,84
Chúng tôi 2013 10 18,8 11 10,67 9,75 8,87
Hai bảng trên cho thấy thang điểm VAS và thang
điểm RDQ cũng giảm rõ rệt ngay sau khi bệnh nhân
được tiến hành THĐSQD nhờ đó bệnh nhân có thể vận
động lại nhanh chóng. Việc phục hồi vận động sớm
giúp bệnh nhân tái hòa nhập cộng đồng, tránh được
các biến chứng do nằm lâu. Các đối tượng trong nghiên
cứu của chúng tôi đều là những bệnh nhân có tuổi cao
(tuổi trung bình là 75,8) nên nếu phải nằm lâu, sẽ tăng
nguy cơ làm nặng thêm các bệnh toàn thân, hoặc bị
viêm phổi bội nhiễm hoặc bị nhiễm khuẩn tiết niệu....
Hơn nữa các bệnh nhân loãng xương nếu nằm bất
động trong một thời gian dài cũng làm tăng nguy cơ mất
xương, do đó dễ bị gãy xương. Vì vậy giảm đau, phục
hồi vận động sớm là lợi ích mà phương pháp THĐSQD
mang lại cho các bệnh nhân bị xẹp đốt sống do loãng
xương.
BỆNH ÁN MINH HỌA
Bệnh nhân nữ đau lưng 14 ngày, mức độ đau: 10
điểm, điểm RDQ: 20 điểm. Trên hình ảnh CHT có xẹp
mới đốt sống L2, xẹp độ 1. Bệnh nhân được tiến hành
bơm 8ml xi măng trong 5 phút, tổng thời gian 40 phút.
Điểm VAS sau 1 ngày: 4; Điểm Roland-Morris sau 1
ngày: 11.
Hình 1. Hình ảnh CHT các Chuỗi xung T1W, T2W và STIR
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201410
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 2. Các bước trong quá trình can thiệp
V. KẾT LUẬN
Phương pháp THĐSQD là phương pháp can thiệp
tối thiểu, vết chọc kim nhỏ, bệnh nhân có thể đi lại và
xuất viện trong ngày, giảm thiểu chi phí nằm viện cũng
như công sức thời gian của người nhà chăm sóc bệnh
nhân. Phương pháp THĐSQD không chỉ mang lại hiệu
quả giảm đau nhanh, phục hồi vận động sớm mà hiệu
quả này còn tồn tại duy trì trong các thời gian theo dõi
sau 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.
Tuy nhiên đề tài nghiên cứu của chúng tôi vẫn
còn một số mặt hạn chế do nghiên cứu này mới chỉ là
nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng không đối chứng.
Chúng tôi không có nhóm chứng để so sánh xem
liệu phương pháp THĐSQD có thực sự hiệu quả hơn
phương pháp điều trị truyền thống hay không. Vì vậy
cần phải phát triển một nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng có đối chứng để trả lời được câu hỏi này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Do, H. M., B. S. Kim, M. L. Marcellus, et al.
(2005), Prospective analysis of clinical outcomes after
percutaneous vertebroplasty for painful osteoporotic
vertebral body fractures. AJNR Am J Neuroradiol.
26(7): 1623-8.
2. Kobayashi, K., K. Shimoyama, K. Nakamura, et
al. (2005), Percutaneous vertebroplasty immediately
relieves pain of osteoporotic vertebral compression
fractures and prevents prolonged immobilization of
patients. Eur Radiol. 15(2): 360-7.
3. Phạm Mạnh Cường, Phạm Minh Thông (2009),
Áp dụng phương pháp tạo hình đốt sống qua da trong
điều trị xẹp đốt sống do loãng xương. Nội khoa. 4: 53-
57.
4. Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Thạch (2010),
Đánh giá kết quả tạo hình đốt sống bằng bơm cement
sinh học ở bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương tại
Bệnh viện Việt Đức. Y học Việt Nam. 2(374): 182-187.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 11
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Brodano, G. B., L. Amendola, K. Martikos, et
al. (2011), Vertebroplasty: benefits are more than risks
in selected and evidence-based informed patients. A
retrospective study of 59 cases. Eur Spine J. 20(8):
1265-71.
6. Klazen, C. A., P. N. Lohle, J. de Vries, et al.
(2010), Vertebroplasty versus conservative treatment
in acute osteoporotic vertebral compression fractures
(Vertos II): an open-label randomised trial. Lancet.
376(9746): 1085-92.
7. Yang, H. L., G. L. Wang, G. Q. Niu, et al. (2008),
Using MRI to determine painful vertebrae to be treated
by kyphoplasty in multiple-level vertebral compression
fractures: a prospective study. J Int Med Res. 36(5):
1056-63.
8. Prather, Heidi, Linda Van Dillen, John P. Metzler,
et al. (2006), Prospective Measurement of Function
and Pain in Patients with Non-Neoplastic Compression
Fractures Treated with Vertebroplasty. The Journal of
Bone & Joint Surgery. 88(2): 334-341.
9. Alvarez, L., A. Perez-Higueras, J. J. Granizo,
et al. (2005), Predictors of outcomes of percutaneous
vertebroplasty for osteoporotic vertebral fractures.
Spine (Phila Pa 1976). 30(1): 87-92.
10. Trout, Andrew T., David F. Kallmes, Leigh
A. Gray, et al. (2005), Evaluation of Vertebroplasty
with a Validated Outcome Measure: The Roland-
Morris Disability Questionnaire. American Journal of
Neuroradiology. 26(10): 2652-2657.
11. Buchbinder, R., R. H. Osborne, P. R. Ebeling,
et al. (2009), A randomized trial of vertebroplasty for
painful osteoporotic vertebral fractures. N Engl J Med.
361(6): 557-68.
12. Comstock, Bryan A., Colleen M. Sitlani, Jeffrey
G. Jarvik, et al. (2013), Investigational Vertebroplasty
Safety and Efficacy Trial (INVEST): Patient-reported
Outcomes through 1 Year. Radiology.
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá hiệu quả ngắn hạn của phương pháp tạo hình đốt sống qua da (THĐSQD) ở các bệnh
nhân xẹp đốt sống mới do loãng xương.
Phương pháp: Từ tháng 04/2012 đến tháng 10/2013 có 15 bệnh nhân xẹp đốt sống mới do loãng xương được
THĐSQD tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Bạch Mai. Tuổi trung bình 75,9 tuổi (14 nữ). Các công cụ đánh
giá mức độ đau, mức độ vận động được sử dụng tại các thời điểm trước can thiệp, sau can thiệp 1 ngày, 1 tuần, 1
tháng và 3 tháng.
Kết quả: Mức độ đau giảm nhanh và phục hồi vận động so với trước can thiệp và tại các thời điểm theo dõi.
Điểm VAS trung bình trước can thiệp: 9,1 điểm. Theo dõi sau đó, điểm VAS trung bình dao động từ 2,2 - 4,8 điểm.
Điểm RDQ trung bình trước can thiệp: 18,8 điểm, dao động từ 8,9 - 11 điểm sau theo dõi.
Kết luận: THĐSQD mang lại hiệu quả rõ ràng trong việc giảm đau nhanh, phục hồi vận động sớm ở nhóm bệnh
nhân xẹp đốt sống mới do loãng xương.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. TS. Nguyễn Duy Huề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_danh_gia_hieu_qua_cua_phuong_phap_tao_hinh_dot_song.pdf