- Chúng tôi nhận thấy một khó khăn khi thực hiện
thủ thuật RFA phổi là tư thế bệnh nhân liên quan đến
vấn đề gây mê; 8 bệnh nhân đều được tiền mê nên
sẽ không nằm sấp hoàn toàn như các bệnh nhân gây
mê toàn thân. Do vậy, việc tiếp cận vào những khối u
ở phía sau sẽ khó khăn và phải đi theo đường chéo
với tư thế bệnh nhân nằm nghiêng. Ngoài ra, kim đốt
sóng cao tần dài và có cán nặng (15-25 cm) sẽ bị ngả
khi chọc kim, kim quá dài sẽ không cho được vào máy
chụp. Chúng tôi đã khắc phục bằng cách lựa chọn kim
có độ dài phù hợp và sử dụng Fluoro CT.
- Biến chứng đau sau thủ thuật gặp ở 2/8 trường
hợp, đây là biến chứng nhẹ hay gặp và có thể điều trị
bằng nội khoa. Có 3/8 trường hợp tràn khí màng phổi,
trong đó 1 trường hợp là tràn khí màng phổi chủ động
và 1 trường hợp tràn khí phát hiện ngay sau can thiệp
chúng tôi tiến hành chọc hút khí và sau đó không phải
can thiệp thêm. 1 trường hợp tràn khí phát hiện sau khi
bệnh nhân về bệnh phòng theo dõi bằng chụp XQ phổi,
nhưng không có biểu hiện lâm sàng và cũng không phải
đặt dẫn lưu màng phổi. Các biến chứng khác như ho
máu, tràn máu màng phổi, viêm phổi không có.Theo
thống kê những nghiên cứu về RFA phổi ở Scotland,
tràn khí màng phổi phải đặt dẫn lưu màng phổi từ 10-
20%; có nơi < 10% tùy theo từng trung tâm; tràn máu
màng phổi < 10%; đau 14%; ho máu 4%, viêm phổi
1,5%, các biến chứng khác như áp xe phổi, thông phế
quản với màng phổi và khí phế thũng < 1%. Các biến
chứng khác ít gặp như: tái phát u ở trên đường chọc,
ho máu nặng, tắc phế quản, nhiễm nấm, đau thần kinh
hoành và thần kinh cánh tay, hoại tử xương sườn (1, 2).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá kết quả điều trị di căn phổi bằng đốt sóng cao tần tại bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/20194
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
DI CĂN PHỔI BẰNG ĐỐT SÓNG CAO TẦN
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Initial evaluation the result of treatment for lung
metastasis by radio frequency ablation in vietduc
hospital
Vũ Hoài Linh, Lê Thanh Dũng, Đào Xuân Hải,
Đồng Ngọc Minh
Purpose: We aimed to evaluate the effectiveness and the
complicationsof radiofrequency (RF) ablation of metastatic lung tumors
Methods: Eight patients with lung metastatic underwent computed
tomography-guided percutaneous RF ablation between May 2016 and
August 2018. A total of 11 tumors (8 metastatic from hepato cellular
carcinoma, 2 metastatic from chorio and 1 metastatic from colon cancer)
were treated with RF ablation (9 sessions). Tumor diameter ranged
from 0.9 to 1.9 cm (median 1.26cm). Effectiveness of treatment and
complications were analyzed.
Results:Success rate was 100 % with only one session, local tumor
progression hasn’t occurred in 11 tumors. Complications occurred in 5
sessions (55.5%). Chest pain occurred in 2 sessions andpneumothorax
occurred in 3 sessions with one requiring image-guided percutaneous
chest tube drainage.
Conclusion: RF ablation is a safe and effective treatment for
selected patients with metastatic lung tumors.
Key words: radio frequency ablation, pulmonary metastasis, lung
cancer.
* Bệnh viện Hữu nghị
Việt Đức
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 5
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẠI CƯƠNG
Ung thư phổi là một trong những khốiu hay gặp
nhất. Theo thống kê ở Scotland, ung thư phổi chiếm
khoảng 17% tổng số ung thư với hơn 5000 ca phát hiện
mới 1 năm. Ung thư phổi cũng chiếm số lượng lớn nhất
gây tử vong do ung thư ở Scotland năm 2010 ở cả 2
giới(26% ở nữ và 27% ở nam); trung bình 2000 ca chết
1 năm. Ung thư phổi có 2 loại: nguyên phát và di căn
phổi. Trong đó, ung thư phổi nguyên phát có 2 nhóm là
ung thư tế bào nhỏ (Small Cell Lung Cancer - SCLC)
chiếm 20% và ung thư không tế bào nhỏ (Non Small
Cell Lung Cancer-NSCLC) 80% (1).
Điều trị và tiên lượng ung thư phổi dựa vào tế bào
học và giai đoạn bệnh. NCSLC ở giai đoạn I, II và III có
thể được điều trị triệt căn bằng phẫu thuật, xạ trị, hóa
chất toàn thân hoặc phối hợp các phương pháp. Trong
khi đó, NCSLC giai đoạn IV tức là có di căn thì điều trị
không triệt căn bằng điều trị toàn thân. Phẫu thuật là tiêu
chuẩn vàng điều trị ung thư phổi giai đoạn sớm (I, II) và
những di căn phổi khu trú. Ung thư giai đoạn III thường
phải phối hợp các phương pháp điều trị, xạ trị đơn thuần
chỉ dùng cho những bệnh nhân giai đoạn III không có
khả năng phẫu thuật cắt bỏ và không thể điều trị hóa chất
toàn thân. SCLC phát triển rất nhanh và không khống
chế được bằng phẫu thuật; điều trị bằng hóa chất, tia xạ
đơn thuần hoặc phối hợp 2 phương pháp (1).
Bên cạnh ung thư phổi nguyên phát, phổi là cơ
quan di căn nhiều thứ 2 và phẫu thuật vẫn được lựa
chọn hàng đầu. Tuy nhiên, vẫn có tỷ lệ tái phát sau
phẫu thuật cắt thùy phổi và có thể phải phẫu thuật nhiều
lần, việc này sẽ ảnh hưởng đến chức năng phổi. Phẫu
thuật cũng không tiến hành được với những bệnh nhận
có bệnh lý khác hoặc chức năng phổi bị giới hạn (2).Đốt
sóng cao tần (Radiofrequency ablation-RFA)phổi được
tiến hành lần đầu tiên bởi Dupuy và cộng sự vào năm
2000. Đây là phương pháp điều trị mới thay thế cho
phẫu thuật hoặc xạ trị đối với bệnh nhân ung thư phổi
nguyên phát và thứ phát không còn chỉ định phẫu thuật
hoặc còn khả năng phẫu thuật nhưng có những bệnh lý
khác cản trở phẫu thuật hoặc không đồng ý phẫu thuật.
RFA cũng có thể là một phần trong điều trị đa phương
thức đối với những trường hợp ung thư phổi nguyên
phát hoặc thứ phát ở giai đoạn tiến triển (2). Trong bài
viết này, chúng tôi thống kê và đánh giá bước đầu hiệu
quả của RFA đối với bệnh nhân di căn phổi.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương tiện và trang thiết bị:
- Máy chụp CLVT đa dãy (2 dãy, 16 dãy), cóchương
trình Fluoro CT.
- Máy và kim đốt sóng cao tần: hệ thống Cool-tips
E serie (Covidien) kim đầu đốt 2-3 cm, chiều dài 15-20
cm vàhệ thống Starmed với kim có thể thay đổi độ dài
đầu đốt từ 1-4 cm.
- Thuốc gây mê, máy theo dõi dấu hiệu sinh tồn,
hệ thống oxy.
- Bác sỹ điện quang can thiệp, bác sỹ gây mê hồi
sức, kỹ thuật viên.
2. Chỉ định và chống chỉ định
* Chỉ định:
- Di căn phổi không có chỉ định phẫu thuật do
chức năng phổi kém, hoặc có bệnh lý khác phối hợp,
hoặc từ chối phẫu thuật.
- Bệnh nhân đã được phẫu thuật nhưng thất bại
hoặc tái phát sau phẫu thuật.
- Những trường hợp có nhiều u hoặc u hai phổi
* Chống chỉ định:
- Kích thước u> 5 cm, tiền sử phẫu thuật cắt phổi,
ứ khí hoặc xơ phổi nặng, toàn trạng kém, đặt máy tạo
nhịp, rối loạn đông máu.
3. Các bước kỹ thuật:
- Chuẩn bị bệnh nhân:mỗi trường hợp đều được
hội chẩn giữa bác sỹ lâm sàng (ung bướu, gan mật, tiêu
hóa,lồng ngực, gây mê hồi sức) và bác sỹ điện quang
can thiệp; làm bilan chẩn đoán (CLVT, sinh thiết, PET-
CT), các xét nghiệm cơ bản; giải thích các nguy cơ tai
biến có thể xảy ra
- Tiền mê: thuốc an thần Fentanyl 0,05-0,1g, thuốc
giảm đau Perfalgan 1g, gây tê tại chỗ bằng Lidocain
1%; Ketamin 20-30 mg lúc bắt đầu đốt; theo dõi huyết
động và bão hòa Oxy bằng Monitor, thở Oxy 5l/p.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/20196
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Xác định đường tiếp cận: dựa vào phim CLVT
hoặc PET-CT để dự kiến đường chọc và đặt bệnh nhân
theo tư thế thuận lợi nhất cho can thiệp (ngửa, sấp,
nghiêng). Chụp lại CLVTngực có đặt dụng cụ định vị
(kim lấy thuốc) để xác định vị trí chọc kim, chọn đường
vào ngắn nhất và an toàn nhất, tránh được các cấu trúc
như rãnh liên thùy, các mạch máu lớn, xương sườn.
- Chuẩn bị máy và kim RFA: khởi động máy và
kiểm tra kim, hệ thống làm mát đầu kim có hoạt động
bình thường không bằng cách kiểm tra nhiệt độ đầu kim.
- Định vị kim RFA: sát khuẩn và trải toan vị trí
chọc, gây tê tại chỗ. Định vị kim RFA vào khối u dưới
hướng dẫn của CLVT, với những khối u nhỏ cần sử
dụng phần mềm chiếu CT (Fluoro CT) để hỗ trợ.Sau khi
định vị kim vào đúng vị trí khối u, kiểm tra lại trên các lát
cắt, dựng các mặt phẳng khác nhau
- Đốt khối u: thời gian10-12 phút tùy theo kích
thước khối u; trong quá trình đốt cần chụp kiểm tra từ 2-3
lần để kiểm tra lại vị trí kim cũng như theo dõi diện đốt.
- Kiểm tra sau đốt: hết thời gian đốt khối u, rút
kim kết hợp với đốt đường chọc.Chụp kiểm tra đánh giá
kết quả đốt, xem có biến chứng tràn khí hay chảy máu
màng phổi để xử trí.
2.4. Tiêu chuẩn thành công:
- Diện đốt bao trùm khối u, cách rìa khối u ít nhất
0,5 cm.
2.5. Theo dõi sau can thiệp
- Ngay sau can thiệp: theo dõi trong vòng 24 giờ,
chụp kiểm tra XQ phổi nếu cần để phát hiện các biến
chứng và xử trí
- Sau khi ra viện: kiểm tra sau 1,3, 6 tháng bằng
chụp CLVT hoặc PET-CT để đánh giá kết quả điều trị.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1. Kết quả nghiên cứu
STT Tuổi Giới Tiền sử
Số lượng
u
Kích thước u
(cm) Phổi
Biến
chứng
Thời gian
sống (tháng) Hiện tại
1 46 Nữ U đại tràng 1 1,5 Phải Không 35 Còn sống
2 41 Nữ Chorio 1 1,9 Trái
TKMT
không cần
dẫn lưu
15
Còn sống
(di căn
não)
3 59 Nam HCC 1 1,3 Phải Đau 14 Còn sống
4 68 Nam HCC 1 1 Phải
TKMP
không cần
dẫn lưu
14 Còn sống
5 24 Nữ Chorio 1 1,5 Trái Đau 12 Còn sống
6 35 Nam HCC 1 1 Phải Không 17 Còn sống
7 60 Nam HCC 1 1,3 Phải Không 2 Còn sống
8 49 Nam HCC 4 0,9-1,0-1,2-1,3 2 bên TKMP trái 6 Còn sống
Hình 1. Định vị kim và chụp kiểm tra trong quá trình RFA u phổi
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 7
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Trong tổng số 8 bệnh nhân có 5 bệnh nhân nam đều
di căn phổi từ ung thư tế bào gan nguyên phát (HCC), 3
bệnh nhân nữ có 1 trường hợp u đại tràng và 2 trường
hợp Chorio di căn phổi; độ tuổi trung bình là 47,75 (24-68
tuổi). Có 7 trường hợp chỉ có di căn một khối được RFA
1 lần, 1 bệnh nhân có di căn 4 khối ở 2 phổi được RFA
2 lần. Tỷ lệ thành công của thủ thuật là 100%, không có
trường hợp nào phải tiến hành lại lần 2 do tồn dư khối
u hoặc tái phát trong thời gian theo dõi. Điều này được
lý giải là do kích thước u di căn trong nghiên cứu nhỏ,
trung bình 1,26 cm (0,9-1,9)nên với kim đầu đốt 2-3 cm
mà chúng tôi sử dụng cùng với việc định vị chính xác kim
vào khối u, hoàn toàn có thể tạo được diện đốt an toàn,
đảm bảo cách rìa u ít nhất là 0,5 cm. Đây cũng là khoảng
cách tối thiểu cần đạt được trong các nghiên cứu trên thế
giới (1,2,5). Do số lượng bệnh nhân còn ít nên chưa thể
xác định được thời gian sống thêm và thời gian tái phát
u, nhưng ca đầu tiên của chúng tôi đã theo dõi được 35
tháng và chưa phát hiện tái phát u.
- Xu hướng điều trị ung thư hiện nay là phối hợp
các phương pháp trong điều trị đa mô thức; các bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được điều trị
bằng nhiều phương pháp như phẫu thuật (cắt gan, cắt
đại tràng, ghép gan), hóa chất toàn thân. RFA được chỉ
định khi phẫu thuật, hóa chất hay xạ trị không có hiệu
quả; hoặc những trường hợp di căn 2 phổi và nhiều nốt.
Trường hợp bệnh nhân Trần Thái H. 49t có HCC gan
trái đã cắt gan, tái phát gan phải đã TACE, xuất hiện tổn
thương thứ phát ở 2 phổi: phổi phải 3 nốt và phổi trái 1
nốt nên không có chỉ định phẫu thuật, điều trị hóa chất
toàn thân với di căn phổi do HCC hiệu quả không cao.
Trong lần RFA thứ 1 chúng tôi đốt 02 nốt ở phổi phải,
lần thứ 2 đốt 1 nốt bên phải và 1 nốt bên trái. Các nốt
được đốt hoàn toàn, không thấy tái phát sau 6 tháng
theo dõi. Như vậy, RFA có thể chỉ định trong những
trường hợp di căn nhiều nốt và hai bên phổi, nhưng
phải đảm bảo được chức năng phổi.
Hình 2. BN nam 49 tuổi, chẩn đoán HCC đã
TACE, di căn phổi phải 3 nốt, phổi trái 1 nốt.
Đốt 2 liệu trình cách nhau 01 tháng, đốt lần 2 có
tràn khí khoang màng phổi trái, chọc hút ngay
sau thủ thuật, không có triệu chứng lâm sàng,
không cần dẫn lưu màng phổi.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/20198
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Về các kỹ thuật bổ trợ: tràn khí màng phổi chủ
độnglà kỹ thuật được sử dụng khi RFA các khối u nằm
sát trung thất, tim với mục đích là tách rời khối u và
trung thất, tránh gây tổn thương trung thất, tim khi đốt.
Trong số bệnh nhân của chúng tôi có 1 trường hợp phải
sử dụng kỹ thuật này. Bệnh nhân Trần Thị H. 41 tuổi,
di căn phổi trái do Chorio đã điều trị hóa chất nhưng
không có hiệu quả; kích thước u 2 cm nằm ở thùy dưới
phổi trái sát thất trái. Sau khi định vị kim vào khối u,
chúng tôi chọc kim vào khoang màng phổi và bơm khí
vào khoang màng phổi đến khi thấy khối u đã tách khỏi
tim mới tiến hành đốt khối u. Sau khi RFA, chúng tôi
lại hút khí ra ngoài qua đường chọc cũ. Kết quả khối u
được đốt hoàn toàn, không gây tổn thương thất trái và
tràn khí màng phổi ít, không cần dẫn lưu.
- Chiếu CT – Fluoro CT: đây là phần mềm hỗ trợ cho
phép chiếu các lát cắt CT, giúp bác sỹ điện quang can thiệp
thấy được hình ảnh cắt lớp động trong quá trình chọc kim,
từ đó giúp định vị chính xác kim vào khối u, nhất là các khối
u nhỏ, cả khi bệnh nhân hít thở, tiết kiệm thời gian thủ thuật
đồng thời giảm biến chứng chảy máu hoặc tràn khí màng
phổi do chọc nhiều lần. Chúng tôi có 3 bệnh nhân sử dụng
phần mềm hỗ trợ này và cho hiệu quả tốt.
Hình 3. BN nữ 41 tuổi, chẩn đoán Chorio đã điều trị hóa chất tại bệnh viện phụ sản trung ương; xuất hiệu u di căn
đáy phổi trái KT1,9 cm, nằm sát tim, theo dõi thấy u tăng kích thước; điều trị hóa chất không hiệu quả, tiến hành
RFA kim Cool-tips đầu đốt 2 cm; dùng kỹ thuật gây tràn khí màng phổi chủ động để tách khối u và tim, sau đốt hút
khí trong khoang màng phổi ra ngoài; bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng, không có biến chứng về tim sau thủ
thuật. Chụp kiểm tra sau 9 tháng: không còn khối u.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 9
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Chúng tôi nhận thấy một khó khăn khi thực hiện
thủ thuật RFA phổi là tư thế bệnh nhân liên quan đến
vấn đề gây mê; 8 bệnh nhân đều được tiền mê nên
sẽ không nằm sấp hoàn toàn như các bệnh nhân gây
mê toàn thân. Do vậy, việc tiếp cận vào những khối u
ở phía sau sẽ khó khăn và phải đi theo đường chéo
với tư thế bệnh nhân nằm nghiêng. Ngoài ra, kim đốt
sóng cao tần dài và có cán nặng (15-25 cm) sẽ bị ngả
khi chọc kim, kim quá dài sẽ không cho được vào máy
chụp. Chúng tôi đã khắc phục bằng cách lựa chọn kim
có độ dài phù hợp và sử dụng Fluoro CT.
- Biến chứng đau sau thủ thuật gặp ở 2/8 trường
hợp, đây là biến chứng nhẹ hay gặp và có thể điều trị
bằng nội khoa. Có 3/8 trường hợp tràn khí màng phổi,
trong đó 1 trường hợp là tràn khí màng phổi chủ động
và 1 trường hợp tràn khí phát hiện ngay sau can thiệp
chúng tôi tiến hành chọc hút khí và sau đó không phải
can thiệp thêm. 1 trường hợp tràn khí phát hiện sau khi
bệnh nhân về bệnh phòng theo dõi bằng chụp XQ phổi,
nhưng không có biểu hiện lâm sàng và cũng không phải
đặt dẫn lưu màng phổi. Các biến chứng khác như ho
máu, tràn máu màng phổi, viêm phổi không có.Theo
thống kê những nghiên cứu về RFA phổi ở Scotland,
tràn khí màng phổi phải đặt dẫn lưu màng phổi từ 10-
20%; có nơi < 10% tùy theo từng trung tâm; tràn máu
màng phổi < 10%; đau 14%; ho máu 4%, viêm phổi
1,5%, các biến chứng khác như áp xe phổi, thông phế
quản với màng phổi và khí phế thũng < 1%. Các biến
chứng khác ít gặp như: tái phát u ở trên đường chọc,
ho máu nặng, tắc phế quản, nhiễm nấm, đau thần kinh
hoành và thần kinh cánh tay, hoại tử xương sườn (1, 2).
IV. KẾT LUẬN
- RFA là phương pháp an toàn và hiệu quả trong
điều trị di căn phổi, ít biến chứng, nhất là khi sử dụng
các kỹ thuật bổ trợ như gây tràn khí màng phổi chủ
động và phần mềm Fluoro CT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The clinical and cost effectiveness of radiofrequency ablation for lung cancer. Healthcare improvement
Scotland. Number 10 September 2012.
Hình 4. BN nam 60 tuổi, chẩn đoán HCC đã TACE và ghép gan; xuất hiện nốt ở đáy phổi phải, tăng kích thước sau
khi theo dõi 1,3 cm, RFA với kim đầu đốt 2 cm. có sử dụng Fluoro CT để giúp định vị chính xác kim vào khối u. Chụp
kiểm tra sau can thiệp thấy vùng đốt bao trùm toàn bộ nốt.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201910
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Radiofrequency ablation for lung tumors: outcomes, effects on survival, and pronostic factors.Okan Akhan,
Ezgi Guler, Devrim Akinci. Diagnostic Interventional Radiol 2016: 22:65-71.
3. Complications after 1000 lung radiofrequency ablation sessions in 420 patients: A singer center’s experiences.
Masataka Kashima, Koichiro Yamakado, Haruyuki Takaki, Hiroshi Kodama, Tomomi Yamada, Junji Uraki,
Atsuhiro Nakatsuka. AJR 2011;197: W576-W580.
4. Percutaneous thermal ablation of primary lung cancer. T. De Baere, L. Tselikas, V. Catena, X Bay, F. Deschamps,
J. Balussiere. Diagnostic and interventional Imaging (2016) 97, 1019-1024.
5. Radiofrequency ablation of lung tumors: Imaging features of the post-ablation zone. Fereidoun G. Abtin, Filbert
Aradat, Antonio F. Gutierrez, Christopher Lee, Micheal C. Fishbein, Robert D. Sue. RSNA 2012.
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá hiệu quả và biến chứng của đốt sóng cao tần trong điều trị di căn phổi.
Phương pháp nghiên cứu: 8 bệnh nhân di căn phổi được điều trị bằng đốt sóng cao tần dưới hướng dẫn của cắt lớp vi
tính từ 5/2016 đến 8/2019.Tổng số 11 khối u di căn phổi (8 khối di căn từ ung thư biểu mô tế bào gan, 2 khối di căn từ ung thư
nguyên bào nuôi và 1 khối di căn từ ung thư đại tràng) được đốt sóng cao tần với 9 liệu trình. Kích thước u từ 0.9 đến 1.9 cm
(trung bình là 1.26 cm). Hiệu quả điều trị và các biến chứng được thống kê.
Kết quả: Tỷ lệ thành công của thủ thuật là 100% chỉ với một liệu trình, không có trường hợp còn tồn dư khối u. Biến
chứng xuất hiện trong 5 thủ thuật (55,6%), đau ngực gặp 2 trường hợp và tràn khí màng phổi gặp 3 trường hợp, trong đó 1 trường
hợp phải đặt dẫn lưu màng phổi.
Kết luận: Đốt sóng cao tần là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị di căn phổi.
Từ khóa: đốt sóng cao tần, di căn phổi, ung thư phổi
Ngày nhận bải 20.5.2019. Ngày chấp nhận đăng: 15.7.2019
Người liên hệ: Vũ Hoài Linh. Trung tâm CĐHA bệnh viện hữu nghị Việt Đức, Email: hoailinh833@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_danh_gia_ket_qua_dieu_tri_di_can_phoi_bang_dot_song.pdf