Với bộ kit Oncomine BRCA Research Assay,
quy trình phân tích bao phủ 100% trình tự mã hóa
cho các exome của hai gen BRCA1/2 cộng thêm
trung bình 63 bp intron tại vị trí giáp biên giữa
exome-intron. Assay này mang lại hiệu suất cao,
cho kết quả nhất quán, đáng tin cậy và nhanh
chóng với chất lượng cao từ mỗi mẫu. Quy trình
giải trình tự của chúng tôi đạt hiệu quả cao đối với
những biến thể SNV, indels và MNP [14]. Đối với
những biến thể homopolymer nằm trong khu vực
mã hóa cho protein, biến thể 8-mer không được
phát hiện và khả năng phát hiện biến thể 6-mer
thấp, trong khi đó khả năng phát hiện biến thể 7-
mer lại cao [14]. Để phát hiện những biến thể CNV,
một thuật toán tin sinh học mới, phiên bản w3.0,
được dùng để phát hiện mất đoạn hoặc lặp đoạn
lớn xảy ra trong vùng của hai gen BRCA (large
intragenic rearrangement) – độ nhạy cho phiên bản
này là 94% theo như khảo sát [14]. Để có thể phát
hiện đột biến mất đoạn và lặp đoạn lớn một cách
toàn vẹn hơn, phương pháp khuếch đại đầu dò nối
đa mồi hiện nay là tiêu chuẩn vàng cho mục đích
này, nhưng trong giới hạn của nghiên cứu chúng
tôi không sử dụng phương pháp này.
Dữ liệu hiện tại của chúng tôi vẫn còn ít để
có thể khẳng định quy trình của chúng tôi có đủ độ
chuyên biệt và độ đặc hiệu và nó phù hợp cho
những ứng dụng trong lâm sàng. Chúng tôi kiến
nghị gia tăng số lượng mẫu, xác nhận lại kết quả
bằng ngoại kiểm và khảo sát thêm về độ tái lặp kết
quả thí nghiệm. Ngoài ra, việc giải trình tự mẫu
máu từ các bệnh nhân là cần thiết để xác minh liệu
biến thể có nguồn gốc dòng mầm hay dòng sinh
dưỡng.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu khảo sát đột biến gen BRCA1 và BRCA2 trong quần thể ung thư biểu mô buồng trứng người Việt Nam bằng kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 49
BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT ĐỘT BIẾN GEN BRCA1 VÀ BRCA2
TRONG QUẦN THỂ UNG THƯ BIỂU MÔ BUỒNG TRỨNG NGƯỜI
VIỆT NAM BẰNG KỸ THUẬT GIẢI TRÌNH TỰ THẾ HỆ MỚI
Ngô Đại Phú1, Ngô Vĩnh Tường1,6, Phạm Huy Hoà2, Bùi Thị Hồng Nhu2, Võ Thanh Nhân2,
Lê Quang Thanh2, Lê Thái Khương3, Hoàng Anh Vũ3, Nguyễn Duy Sinh4, Hoàng Thành Chí5,
Nguyễn Đăng Quân6, Nguyễn Trọng Bình6*
1 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 227 Nguyễn Văn Cừ, Phường 4,
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2 Bệnh viện Từ Dũ, 284 Cống Quỳnh, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
3 Đại học Y dược TPHCM, 217 Hồng Bàng, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
4 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park, 208 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, Quận Bình Thạnh,
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
5 Công Ty TNHH Mekophar, Lô I-9-5, Đường D2, Khu Công Nghệ Cao, Phường Long Thạnh Mỹ, Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
6 Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố Hồ Chí Minh, 2374 Quốc Lộ 1, Khu Phố 2, Phường Trung Mỹ Tây,
Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
* Tác giả liên hệ Nguyễn Trọng Bình
(Ngày nhận bài: 04-10-2019; Ngày chấp nhận đăng: 18-03-2020)
Tóm tắt. BRCA1 và BRCA2 là hai gen ức chế khối u quan trọng. Việc đột biến hai gen này ở bệnh nhân
ung thư biểu mô buồng trứng dòng mầm và dòng sinh dưỡng thì đáp ứng tốt hơn với thuốc ức chế
enzyme poly(ADP-ribose) polymerase inhibitor (PARPi). Gần đây, một vài thuốc PARPi, như Olaparib
và Rucaparib, đã được chấp thuận dùng cho bệnh nhân ung thư buồng trứng với đột biến dòng mầm
BRCA1/2 bởi Food and Drug Administration (FDA) và với đột biến dòng mầm và dòng sinh dưỡng đối
với European Medicines Agency (EMA). Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có dữ liệu nào đáng tin cậy
về tình trạng đột biến hai gen này trong quần thể bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng nhằm hỗ trợ
cho điều trị. Do đó, chúng tôi tiến hành giải trình tự nhằm khảo sát đột biến hai gen BRCA1/2 dòng mầm
và dòng sinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng người Việt Nam. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi tiến hành giải trình tự hai gen này bằng Ion Torrent PGM. Đối tượng nghiên cứu là 11 mẫu
mô vùi nến được thu nhận từ Bệnh viện Từ Dũ của 11 bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng. DNA
từ các mẫu này và 2 mẫu đối chứng đã biết thông tin đột biến được tiến hành multilplex PCR với kit
Oncomine BRCA Research Assay. Trong mười một mẫu được giải trình tự, một đột biến gây bệnh (1/11
bệnh nhân; 9,1%) đã được phát hiện trên gen BRCA1, là đột biến điểm đưa codon stop vào trình tự
protein tại vị trí axit amin 1772. Tóm lại, quy trình giải trình tự của chúng tôi thành công trong việc xác
định và khảo sát tỉ lệ đột biến BRCA1/2 trong một nhóm nhỏ bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng
với mẫu sinh phẩm là mô vùi nến.
Từ khóa: BRCA1, BRCA2, Ion Torrent PGM, ung thư biểu mô buồng trứng người Việt Nam
Ngô Đại Phú và CS.
50
Preliminary study of BRCA1 and BRCA2 mutations among
Vietnamese ovarian carcinomas population
by using ion personal genome machine platforms
Ngo Dai Phu1, Ngo Vinh Tuong1,6, Pham Huy Hoa2, Bui Thi Hong Nhu2, Vo Thanh Nhan2,
Le Quang Thanh2, Le Thai Khuong3, Hoang Anh Vu3, Nguyen Duy Sinh4, Hoang Thanh Chi5,
Nguyen Đang Quan6, Nguyen Trong Binh6*
1 University of Science, Vietnam National University Ho Chi Minh City, 227 Nguyen Van Cu St., Ward 4, District 5,
Ho Chi Minh City, Vietnam
2 Tu Du Hospital of Obstetrics and Gynecology, 284 Cong Quynh St., Pham Ngu Lao Ward, District 1,
Ho Chi Minh City, Vietnam
3 University of Medicine and Pharmacy, 217 Hong Bang St., Ward 11, District 5, Ho Chi Minh City, Vietnam
4 Vinmec International General Hospital, 208 Nguyen Huu Canh St., Ward 22, Binh Thanh District,
Ho Chi Minh City, Vietnam
5 Mekophar Chemical Pharmaceutical Joint Stock Company, D2 Street St., High Technology Park, Long Thanh My
Ward, District 9, Ho Chi Minh City, Vietnam
6 Biotechnology Center of Ho Chi Minh City, 2374 Highway 1, Trung My Tay Ward, District 12,
Ho Chi Minh City, Vietnam
* Correspondence to Nguyen Trong Binh
(Received: 04 October 2019; Accepted: 18 March 2020)
Abstract. BRCA1 and BRCA2 are two important tumor suppressor genes. The germline and somatic
mutations of these two genes in ovarian carcinomas are sensitive for treatment with ADP-ribose
polymerase enzyme inhibitor (PARPi). Recently, several PARPi drugs, such as Olaparib and Rucaparib,
have been approved for ovarian cancer with BRCA1/2 germline mutations by Food and Drug
Administration (FDA), and for both germline and somatic mutations by European Medicines Agency
(EMA). However, there have no been reliable data about the prevalence of mutations of these two genes
in ovarian carcinomas population for treatment in Vietnam so far. Therefore, we studied the prevalence
of the BRCA1/2 germline and somatic mutations among ovarian carcinomas patients in the Vietnamese
population. In this study, we sequenced these two genes by using Ion Torrent PGM. The subjects of the
study are 11 formalin-fixed paraffin-embedded tumor (FFPE) samples from 11 patients with ovarian
carcinomas obtained from Tu Du Hospital of Obstetrics and Gynecology (Vietnam). Multiplex PCR then
was performed on the DNA samples and two controls containing known mutations by using Oncomine
BRCA Research Assay. Of the sequenced 11 samples, a pathogenic mutation (1/11 patient, 9.1%) detected
on the BRCA1 gene was a nonsense point mutation causing stop codon at the position of amino acid
1772. Consequently, our sequencing workflow shows the success in identifying and investigating the
prevalence of BRCA1/2 mutation in a small group of ovarian carcinomas with FFPE tumor samples.
Keywords: BRCA1, BRCA2, Ion Torrent PGM, Vietnamese ovarian carcinomas
1 Mở đầu
Ung thư buồng trứng là một trong những
ung thư thường gặp ở nữ giới. Ước tính thế giới có
295.414 ca mới được chẩn đoán và 184.799 ca tử
vong vào năm 2018 [1]. Tại Việt Nam, theo ghi
nhận quần thể ung thư 2004, ung thư buồng trứng
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 51
đứng hàng thứ 7 trong số các loại ung thư thường
gặp ở nữ giới [2]. Ước tính Việt Nam có số ca mới
được chẩn đoán là 1.500, số ca tử vong là 856 và số
ca hiện hành là 3.736 [1]. Phần lớn những ca ung
thư buồng trứng ác tính thuộc dạng biểu mô,
thường được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển khi
mà tỉ lệ sống 5 năm chỉ còn 29% [3].
Trong số những nhân tố làm gia tăng nguy
cơ ung thư buồng trứng, phải kể đến nguyên nhân
bệnh do di truyền, trong đó đột biến dòng mầm ở
hai gen BRCA1 và BRCA2 chiếm phần lớn. Mặc dù
tỉ lệ đột biến hai gen này trong quần thể chung là
tương đối thấp (1/800–1/400), nhưng đáng lưu ý là
tỉ lệ này trong quần thể bệnh nhân ung thư buồng
trứng lại khá cao, khoảng 20% gồm cả dòng mầm
và dòng sinh dưỡng [4]. Người mang đột biến dị
hợp tử hai gen này có nguy cơ cao về phát triển ung
thư buồng trứng với BRCA1 là 40–60% và BRCA2
là 11–30% [5] và một số loại ung thư khác như ung
thư vú, tuyến tụy và tuyến tiền liệt.
BRCA1/2 là hai gen ức chế khối u quan
trọng, giữ vai trò then chốt trong sửa chữa đứt gãy
mạch đôi DNA. Hiện tượng đứt gãy mạch đôi
DNA xảy ra khá phổ biến trong tế bào một khi đột
biến mất chức năng xảy ra trên gen còn lại ở người
mang đột biến dị hợp tử BRCA sẽ dẫn đến bất ổn
bộ gen và do đó thường gây ra ung thư. Một lưu ý
quan trọng khác là ung thư biểu mô buồng trứng
mang đột biến BRCA1/2 thì nhạy với hóa trị liệu
platinum và thuốc ức chế poly ADP-ribose
polymerase inhibitors (PARPi). Vào tháng 12 năm
2014, European Medicines Agency (EMA) và Food
and Drug Administration (FDA) đã chính thức
chấp thuận olaparib cho điều trị trên những bệnh
nhân ung thư buồng trứng có đột biến BRCA1/2 [6,
7]. Tiếp đó, vào tháng 12/2016, thuốc PARPi thế hệ
thứ hai, rucaparib, được FDA chấp thuận và theo
sau là sự chấp thuận từ phía EMA cho điều trị
thuốc trên cả bệnh nhân với đột biến dòng mầm và
dòng sinh dưỡng [8].
Tại Việt Nam hiện đã có một số cơ sở nghiên
cứu chẩn đoán đột biến BRCA1/2 ở bệnh nhân ung
thư vú bằng phương pháp giải trình tự Sanger,
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do kích thước hai
gen này khá lớn và đột biến rải rác khắp toàn bộ
hai gen [9, 10]. Bên cạnh đó, để phân tích tổng thể
các đột biến xảy ra trên hai gen này, Sanger và
phương pháp khuếch đại đầu dò nối đa mồi
(multiplex ligation-dependent probe amplification
– MLPA) cần được kết hợp, nhưng điều này không
có lợi về mặt chi phí cũng như thời gian giữa các
lần chẩn đoán để đưa ra quyết định điều trị kịp
thời. Do đó, hiện chưa có dữ liệu nào đáng tin cậy
tại Việt Nam về tình trạng đột biến BRCA1/2 trong
quần thể ung thư buồng trứng nhằm hỗ trợ cho
điều trị. Ngoài ra, các nghiên cứu chỉ dùng mẫu
máu bệnh nhân để xét nghiệm. Như thế, chỉ ghi
nhận được tỉ lệ đột biến dòng mầm mà bỏ sót tỉ lệ
đột biến dòng sinh dưỡng và vật liệu di truyền từ
những mẫu này thường có chất lượng cao. Trong
khi đó, phần lớn mẫu sinh phẩm lâm sàng mô u
dùng cho tầm soát đột biến dòng sinh dưỡng lại là
những mẫu mô vùi nến (formalin-fixed paraffin-
embedded – FFPE). DNA phân lập từ những mẫu
này thường bị giới hạn do bị phân mảnh và có chất
lượng không tốt do hiện tượng khử amin hóa cũng
như hiện tượng liên kết chéo hình thành trong suốt
giai đoạn cố định với formalin [15].
Với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học và công
nghệ, kỹ thuật giải trình tự gen thế hệ mới được đề
xuất như là phương án thay thế hữu hiệu và khả
thi cho phát hiện biến thể ở hai gen này. Để vượt
qua những hạn chế gặp phải trong khi phân tích
với mẫu mô vùi nến, bộ kit Oncomine BRCA
Research Assay được sử dụng kết hợp với xử lý
DNA mẫu bằng uracil-DNA glycosylase sau tách
chiết nhằm loại bỏ những biến thể giả (artifacts)
xuất hiện do hiện tượng khử amin. Bên cạnh đó, kit
Oncomine BRCA còn chứa các đoạn mồi chứng nội
(internal control primer amplicons); những đoạn
mồi này, cùng với thuật toán tin sinh, cho phép
phân tích các biến thể thêm hoặc mất đoạn lớn
(copy number variant – CNV) mà không cần tới hai
phương pháp khác nhau như đã yêu cầu. Quy
Ngô Đại Phú và CS.
52
trình chẩn đoán tích hợp hai trong một cho thấy lợi
thế không những về mặt thời gian mà còn cả chi
phí trong khi vẫn có thể phân tích tổng thể sự thay
đổi xảy ra trên hai gen; gồm các đa hình đơn
nucleotide (SNV), thêm hoặc mất đoạn nhỏ (indels)
và thêm hoặc mất đoạn lớn (CNV) [14]. Xuất phát
từ cách nhìn nhận đó, chúng tôi bước đầu tiến hành
khảo sát tình trạng đột biến ở hai gen này trong
quần thể bệnh nhân ung thư buồng trứng dạng
biểu mô bằng máy giải trình tự personal genome
machine (PGM).
2 Nguyên liệu và phương pháp
2.1 Nguyên liệu
Nghiên cứu này đã nhận được “Chấp thuận
của Hội Đồng Đạo Đức trong nghiên cứu y sinh
học – Đại học Y Dược TPHCM – số 247/ĐHYD-HĐ
ngày 31/07/2017”. Đối tượng nghiên cứu gồm 11
mẫu mô vùi nến (formalin-fixed, paraffin-
embedded tumor samples) của 11 bệnh nhân có độ
tuổi trên 18, được thu nhận từ bệnh viện Từ Dũ từ
năm 2014 đến 2018 và được chẩn đoán giải phẫu
bệnh theo tiêu chuẩn của WHO. Số mẫu này sau
đó đã được một bác sĩ giải phẫu bệnh độc lập và có
uy tín kiểm chứng lại.
2.2 Phương pháp
Tách chiết DNA và xử lý với UDG
DNA bộ gen được phân lập từ 11 mẫu mô
vùi nến bằng kit GenJET FFPE DNA Purification
Kit (Thermo Fisher Scientific). Những lát cắt từ
mẫu mô vùi nến được loại bỏ paraffin bằng cách
đưa lên nhiệt độ cao (65 °C) và được ủ cùng với
enzymes proteinase K để ly giải DNA bộ gen ra
khỏi tế bào. Liên kết ngang của DNA tiết ra được
phá vỡ (giữa DNA-DNA, DNA-protein, DNA-
paraffin) bằng cách gia nhiệt lên 90 °C. Các thành
phần không mong muốn sau đó được loại bỏ ở
bước rửa; DNA bộ gen còn lại trên cột được thu
nhận bằng dung dịch rửa giải. Sau khi tinh sạch,
nồng độ DNA được xác định bằng Qubit® 4.0
fluorometer.
DNA sau khi thu nhận được xử lý với uracil-
DNA glycosylase (New England Biolabs) để loại
bỏ những đột biến dương tính giả gây ra do hiện
tượng khử amin ở cytosine. Mẫu được ủ với
enzyme này ở 37 °C trong một giờ, sau đó enzyme
được loại bỏ bằng phương pháp
phenol/chloroform/isoamyl alcohol theo tỉ lệ
25:24:1 và được thu nhận lại bằng phương pháp tủa
với ethanol và muối.
Xây dựng thư viện DNA và giải trình tự
Sau khi tinh sạch DNA, mẫu được pha loãng
về 5 ng/µL và tiến hành multiplex PCR cùng với
hai mẫu đối chứng bằng Oncomine BRCA
Research Assay (Thermo Fisher Scientific). Hai
mẫu đối chứng, một đại diện cho dòng mầm
(BRCA Germline I (gDNA)) và một đại diện cho
dòng sinh dưỡng (BRCA Somatic Multiplex I
(gDNA)), là DNA bộ gen có nguồn gốc từ những
dòng tế bào mang những biến thể đã biết với
những tần suất khác nhau mua từ Horizon
(Cambrige, UK). Assay này gồm hai hỗn hợp mồi
(pool 1 và pool 2) tách biệt, tức là có hai phản ứng
multiplex PCR cho mỗi mẫu. Phản ứng multiplex
PCR với mồi của pool 1 gồm: 2 µL 5X Ion Ampliseq
HiFi Mix, 2 µL Oncomine BRCA Pool 1, 2 µL DNA
bộ gen và 4 µL nước; và pool 2 gồm: 2 µL 5X Ion
Ampliseq HiFi Mix, 2 µL Oncomine BRCA Pool 2,
2 µL DNA bộ gen và 4 µL nước. Chương trình chu
kỳ luân nhiệt cho phản ứng multiplex PCR: 99 °C
trong 2 phút, theo sau là 21 chu kỳ ở 99 °C trong 15
giây và 60 °C trong 4 phút; sau cùng mẫu được giữ
ở 10 °C. Amplicon (những đoạn DNA) thu được từ
phản ứng multiplex được xử lý với FuPa reagent
để cắt bỏ đi một phần trình tự primer và
phosphoryl hóa amplicon khi ủ ở 50 °C trong 10
phút, tiếp đến là 55 °C trong 10 phút và sau cùng
là 60 °C trong 20 phút. Để giải trình tự cùng lúc
nhiều mẫu trên cùng một chip, thư viện DNA của
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 53
mỗi mẫu được gắn với một trình tự nhận biết
(barcode) được cung cấp trong kit Ion Xpress
Barcode Adaptor 1 to 16 Kit (Thermo Fisher
Scientific). Amplicon nối P1 Adaptor và Ion Xpress
Barcode theo chương trình nhiệt là 22 °C trong 30
phút, 68 °C trong 5 phút và 72 °C trong 5 phút. Thư
viện amplicon sau khi nối adaptor/barcode được
tinh sạch bằng AMP XP Reagent (Thermo Fisher
Scientific). Thư viện tinh sạch được định lượng
bằng Qubit® 4.0 fluorometer sử dụng kit Qubit
dsDNA HS assay kit (Thermo Fisher Scientific),
sau đó pha loãng mẫu về 100 pmol/L và kết hợp
thư viện theo tỉ lệ tương đương cho mỗi mẫu.
Tiếp theo, mẫu được tiến hành PCR hệ phân
tán (emulsion PCR) với máy Ion OneTouch 2 và bộ
kit Ion PGM™ Hi-Q™ View OT2 Kit – 200 (Thermo
Fisher Scientific), vận hành máy theo sự chỉ dẫn
của hãng. Hạt ISP dương tính (Template-positive
Ion Sphere Particles) được làm giàu bằng hạt
Dynabeads MyOne Streptavidin C1 Beads trên
máy OneTouch ES (Thermo Fisher Scientific). Hạt
ISP tinh sạch sau đó được đưa lên chip 318. Giải
trình tự gen được tiến hành trên máy Personal
Genome Machine (PGM) sử dụng kit Ion PGM Hi-
Q View Sequencing Kit (Thermo Fisher Scientific)
theo hướng dẫn của nhà sản xuất, sử dụng dòng
chảy 500 lần (500-flow runs).
Phân tích dữ liệu
Dữ liệu trình tự được xử lý bằng phần mềm
Ion Torrent Software vận hành trên Ion Torrent
Server (Thermo Fisher Scientific). Sơ đồ vận hành
gồm xử lý tín hiệu, phát hiện base (base calling), ấn
định chỉ số chất lượng, cắt adaptor, loại bỏ sản
phẩm trùng lặp (PCR dublicate removal, hoặc
demultiplexing), sắp gióng cột các trình tự (read)
thu được đến bộ gen tham khảo H19 (human
genome 19 reference), kiểm soát chất lượng sắp
gióng cột, phân tích độ phủ và phát hiện biến thể
(variant calling). Phân tích độ phủ và phát hiện
biến thể được thực hiện bằng phần mềm Torrent
Variant Caller plugin software (Thermo Fisher
Scientific). Thông số được thiết lập cho phần mềm
Variant Caller với mức độ nghiêm ngặt cao cho
phát hiện đột biến dòng sinh dưỡng. Phần phân
tích biến thể tiếp tục được thực hiện bằng phần
mềm Ion Reporter software (Thermo Fisher
Scientific). Phần mềm này phân loại biến thể thành
những loại: thay thế một nucleotide (single
nucleotide variation – SNV), thay thế đồng thời
nhiều nucleotide kế cận nhau (multiple nucleotide
polymorphism – MNP), thêm hoặc mất đoạn nhỏ
(insertions hoặc deletions – Indels), thêm hoặc mất
đoạn lớn với ít nhất 1 exon trở lên (copy number
variation – CNV), hoặc không đột biến (No calls).
Dữ liệu giải trình tự tại những vị trí nghi ngờ được
kiểm tra trực quan nhờ công cụ Integrative
Genomics Views – IGV (Broad Institute). Biến thể
được chú thích theo danh pháp được sử dụng bởi
Human Genome Variation Society và được xem là
biến thể có hại (deleterious) nếu chúng được ghi
nhận là gây bệnh (pathogenic) hoặc rất có thể gây
bệnh (likely pathogenic) như trong cơ sở dữ liệu
ClinVar (đối với đột biến dòng mầm) và cơ sở dữ
liệu COSMIC (đối với đột biến dòng sinh dưỡng).
Những đột biến missense, nonsense và frameshift
indels, mặc dù không được ghi nhận hoặc được
chú thích chưa rõ ý nghĩa (uncertain significance),
được coi là gây bệnh nếu chúng cắt ngắn những
domain chức năng của protein.
Giải trình tự Sanger
Đột biến gây bệnh được xác nhận lại bằng
giải trình tự Sanger. DNA mẫu có đột biến được
khuếch đại với cặp mồi thích hợp tại những vị trí
đột biến gây bệnh. Sản phẩm PCR được tinh sạch
bằng kit ExoSAP-IT® PCR Product Cleanup
(Thermo Scientific) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất. Giải trình tự được thực hiện với BigDye®
Terminator v3.1 (Life Technologies) và đem phân
tích sau đó trên máy ABI 3500 (Applied
Biosystems).
Ngô Đại Phú và CS.
54
3 Kết quả
3.1 Mẫu mô do một bác sĩ độc lập kiểm chứng
Việc sử dụng tất cả mẫu mô vùi nến cho
nghiên cứu này đều có sự đồng thuận từ phía bệnh
nhân. Mẫu mô được nhuộm với hematoxylin –
eosin (HE) và được một bác sĩ giải phẫu bệnh thứ
hai xác nhận các khối mô vùi nến đều chứa từ 70%
tế bào ung thư trở lên.
3.2 Tách chiết và xây dựng thư viện
Tách chiết DNA thành công ở cả 11 mẫu. Sau
khi có nồng độ DNA, mỗi mẫu được pha loãng về
5 ng để chạy multiplex PCR. DNA từ 11 mẫu cùng
với hai mẫu đối chứng được khuếch đại thành
công với phản ứng multiplex PCR và lượng DNA
thư viện thu được sau tinh sạch đủ dùng để giải
trình tự.
3.3 Thông số giải trình tự
Mười một mẫu được chạy giải trình tự trên
chip 318 kèm hai mẫu đối chứng (somatic,
germline). Vì số lượng mẫu lớn hơn tám trong khi
một chip chỉ chạy được tối đa tám mẫu theo
khuyến cáo của hãng nên chúng tôi chia làm hai
lần chạy. Chip 1 gồm các mẫu: HGOC-2, HGOC-3,
HGOC-5, HGOC-13, HGOC-14 và HGOC-16; và
chip 2 gồm: HGOC-7, HGOC-23, HGOC-24,
HGOC-25 và HGOC-26. Trong đó đối với chip 1,
phần trăm đưa mẫu lên chip là 82% (ISP loading),
tức có 31.096.094 giếng chứa hạt ISP. Số lượng read
có thể được sử dụng cho phân tích là 17.047.970
read và kích thước trung bình (mean) của read là
101 bp, trung vị (median) là 97 bp và yếu vị (mode)
là 91 bp – yếu vị là những read với kích thước 91
bp có số lượng nhiều nhất trong bộ dữ liệu thu
được (Hình 1). Đối với chip 2, phần trăm đưa mẫu
lên chip là 43%, gồm 4.858.168 giếng chứa hạt ISP,
số lượng read có thể sử dụng cho phân tích
3.110.404 và kích thước trung bình (mean) là 108
bp, trung vị (median) là 104 bp và yếu vị (mode) là
91 bp (Hình 2).
Hình 1. Tóm tắt thông số lần chạy trên chip1
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 55
Hình 2. Tóm tắt thông số lần chạy trên chip 2
Ở chip 1, mẫu HGOC-2, HGOC-3, HGOC-5,
HGOC-13, HGOC-14, HGOC-16, mẫu đối chứng
dòng mầm và mẫu đối chứng dòng sinh dưỡng
đều được gắn với barcode với tên lần lượt tương
ứng với IonXpress-002, IonXpress-003, IonXpress-
005, IonXpress-006, IonXpress-007, IonXpress-009,
IonXpress-011 và IonXpress-012. Trên chip 2,
HGOC-7, HGOC-23, HGOC-24, HGOC-25,
HGOC-26 và đối chứng dòng sinh dưỡng được gắn
barcode với tên IonXpress-004, IonXpress-008,
IonXpress-009, IonXpress-010, IonXpress-011 và
IonXpress-012 tương ứng. Các mẫu đều có độ phủ
20× đạt 100% (không có trong hình) và độ sâu trung
bình (mean depth) mỗi mẫu đều từ 1000× trở lên ở
cả hai chip. Các mẫu có phần trăm sắp gióng cột
trúng mục tiêu (on target) đều trên 85%, phù hợp
theo khuyến cáo của hãng đưa ra. Tuy nhiên, mẫu
HGOC-3 có độ đồng nhất (uniformity) thấp với chỉ
68,05% và mẫu HGOC-7 (264.130), HGOC 16
(349.509) và HGOC-24 (263.994) có số lượng read
được sắp gióng cột đến trình tự tham khảo
(mapped read) thấp trong khi theo khuyến cáo là
trên 500.000 read. Hai mẫu đối chứng có chất lượng
tốt với độ phủ trúng mục tiêu và độ đồng nhất đều
lớn hơn 98% (Hình 3 và Hình 4).
Trong số các biến thể thu được như trong
phụ lục 1 (chip 1) và phụ lục 2 (chip 2), mẫu
HGOC-26 có một biến thể gây bệnh, nonsense,
được phát hiện nằm trên gen BRCA1. Biến thể này
theo Clinvar được xem là biến thể có hại,
c.5314C>T; p.Arg1772Ter, là đột biến điểm đưa
codon stop vào vị trí axit amin 1772 cắt ngắn
protein (Genbank: NM_007300.3, exon 20). Độ phủ
(coverage) tại vị trí này là 1773× và tần suất xuất
hiện của biến thể này là 62,89%.
Hình 3. Thông số kết quả cho mỗi mẫu có trên chip 1
Ngô Đại Phú và CS.
56
Hình 4. Thông số kết quả cho mỗi mẫu có trên chip 2
Để tăng độ tin cậy cho quy trình, hai mẫu
đối chứng được tiến hành chạy cùng bắt đầu từ
bước khuếch đại đa mồi với Oncomine BRCA
Research Assay. Hai mẫu đối chứng này chứa
những biến thể đã được xác định trước với tần suất
xuất hiện nhất định như hãng cung cấp. Mẫu đối
chứng đại diện cho dòng sinh dưỡng gồm 13 biến
thể đã biết với những tần suất khác nhau, gồm 7,5;
10; 15; 32,5; 40 và 100%; và 13 biến thể đại diện cho
dòng mầm với tần suất là 0, 50 và 100% (Bảng 1&2).
Kết quả giải trình tự cho thấy tất cả các biến thể
trong mẫu chứng đều được xác định ở tần suất
quan sát thực nghiệm. Trong mẫu chứng dòng
mầm, năm biến thể trên gen BRCA1 và bốn biến
thể trên gen BRCA2 đều được phát hiện trong khi
bốn biến thể với tần suất 0% không được phát hiện
như trong Bảng 1. Tương tự, ở mẫu chứng dòng
sinh dưỡng, 13 biến thể với sáu biến thể trên gen
BRCA1 và bảy biến thể trên gen BRCA2 tất cả đều
được phát hiện ở tần suất thực nghiệm như trong
Bảng 2.
Bảng 1. Mẫu chứng đại diện cho dòng mầm
Nhiễm sắc thể Tọa độ trên bộ gen Gen Biến thể
Tần suất alen
theo hãng, %
Tần suất quan sát
thực nghiệm, %
17 41223094 BRCA1 S1613G 50 56,48
17 41244000 BRCA1 K1183R 50 53,96
17 41245090 BRCA1 K820E 50 50,8
17 41234451 BRCA1 R1443STOP 0 0
17 41246245 BRCA1 D435Y 50 45,35
17 41244936 BRCA1 P871L 100 100
13 32906480 BRCA2 N289H 50 61,29
13 32929387 BRCA2 V2466A 100 100
13 32911463 BRCA2 N991D 50 41,18
13 32913558 BRCA2 K1691fs 0 0
13 32913836 BRCA2 N1784fs 50 52
13 32912750 BRCA2 D1420Y 0 0
13 32937354 BRCA2 I2675fs 0 0
Chú thích: Cột “nhiễm sắc thể – NST” chỉ ra NST 17 là nơi tồn tại của gen BRCA1 và NST 13 là của gen BRCA2. Cột
“Tọa độ trên bộ gen” chỉ vị trí biến thể trên bộ gen tham chiếu; cột “Gen” là tên gen mục tiêu. Cột “Biến thể” liệt kê các
biến thể khác nhau có trong mẫu chứng, với phương thức mã hóa ‘axit amin tham chiếu – vị trí của axit amin – axit
amin biến đổi thành’. “Tần suất alen theo hãng” là tần suất biến thể về mặt lý thuyết do hãng cung cấp. Cuối cùng,
“Tần suất quan sát thực nghiệm” là tần suất mà chúng tôi quan sát được cho mỗi biến thể sau khi giải trình tự.
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 57
Bảng 2. Mẫu chứng đại diện cho sinh dưỡng
Nhiễm sắc thể Tọa độ trên bộ gen Gen Biến thể
Tần suất alen
theo hãng, %
Tần suất quan sát
thực nghiệm, %
17 41223094 BRCA1 S1613G 7,5 5,4
17 41244000 BRCA1 K1183R 7,5 7,1
17 41245090 BRCA1 K820E 7,5 5
17 41234451 BRCA1 R1443STOP 32,5 23,5
17 41246245 BRCA1 D435Y 7,5 6,4
17 41244936 BRCA1 P871L 15 13,6
13 32906480 BRCA2 N289H 7,5 6,4
13 32929387 BRCA2 V2466A 100 100
13 32911463 BRCA2 N991D 7,5 4,7
13 32913558 BRCA2 K1691fs 32,5 28,7
13 32913836 BRCA2 N1784fs 40 33,8
13 32912750 BRCA2 D1420Y 32,5 27,9
13 32937354 BRCA2 I2675fs 10 8,6
Chú thích: Cột “nhiễm sắc thể – NST” chỉ ra NST 17 là nơi tồn tại của gen BRCA1 và NST 13 là của gen BRCA2. Cột
“Tọa độ trên bộ gen” chỉ vị trí biến thể trên bộ gen tham chiếu; cột “Gen” là tên gen mục tiêu. Cột “Biến thể” liệt kê các
biến thể khác nhau có trong mẫu chứng, với phương thức mã hóa ‘axit amin tham chiếu – vị trí của axit amin – axit
amin biến đổi thành’. “Tần suất alen theo hãng” là tần suất biến thể về mặt lý thuyết do hãng cung cấp. Cuối cùng,
“Tần suất quan sát thực nghiệm” là tần suất mà chúng tôi quan sát được cho mỗi biến thể sau khi giải trình tự.
3.4 Xác nhận kết quả bằng giải trình tự
Sanger
Biến thể c.5314C>T; p.Arg1772Ter đã được
xác minh lại bằng giải trình tự Sanger (Hình 5).
Hình 5. Kết quả đột biến c.5314C>T; p.Arg1772Ter được xác nhận lại bằng giải trình tự Sanger. Đột biến này làm thay
đổi axit amin arginine thành codon stop, như được đóng khung, tại vị trí axit amin 1772.
Ngô Đại Phú và CS.
58
4 Thảo luận
BRCA1/2 là hai gen ức chế khối u, đóng vai
trò quan trọng trong con đường sửa chữa đứt gãy
mạch đôi DNA. Người mang đột biến một trong
hai gen này ở trạng thái dị hợp tử thường có nguy
cơ cao mắc ung thư buồng trứng cùng các loại ung
thư khác do dễ phát sinh đột biến mất chức năng
trên gen còn lại. Một điều đáng lưu ý là bệnh nhân
ung thư biểu mô buồng trứng với đột biến
BRCA1/2 có lợi khi điều trị với thuốc PARPi. Bên
cạnh tình trạng hiện chưa có cơ sở dữ liệu nào đáng
tin cậy để hướng dẫn cho điều trị với thuốc PARPi,
nhiều nền tảng công nghệ giải trình tự gần đây liên
tục được đưa ra thị trường với nhiều tính năng ưu
việt về tốc độ, độ chính xác, giá thành, thông lượng
giải trình tự, cũng như độ phân giải đến từng base
làm cho nó ngày càng trở nên phù hợp hơn với
những ứng dụng cho chẩn đoán và điều trị. Ngoài
ý nghĩa về mặt điều trị, việc phát hiện đột biến
dòng mầm ở người bệnh còn có ý nghĩa về mặt
phòng ngừa đối với các thân nhân của họ. Xuất
phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành khảo sát tỉ
lệ đột biến BRCA1/2 trong quần thể ung thư biểu
mô buồng trứng ở người Việt Nam. Dữ liệu chúng
tôi xác nhận quy trình giải trình tự dựa vào
Oncomine BRCA Research Assay kết hợp với nền
tảng giải trình tự Ion Torrent PGM có hiệu quả cao
cho phát hiện đột biến ở hai gen BRCA1/2 sử dụng
DNA có nguồn gốc từ mẫu mô vùi nến trong thực
hành lâm sàng thường quy.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thử
nghiệm panel giải trình tự thương mại sẵn trên một
lượng DNA nhỏ được tinh sạch từ mẫu mô vùi nến
FFPE để đánh giá công nghệ này trong các ứng
dụng lâm sàng. Phân tích được tiến hành trên 11
mẫu mô vùi nến và đã xác định được một đột biến
gây bệnh (1/11 bệnh nhân, 9,1%), c.5314C>T;
p.Arg1772Ter, xảy ra trên gen BRCA1 ở mẫu
HGOC-26. Đột biến này còn được biết đến với cái
tên BRCA1:c.5251C>T (p.Arg1751Ter) (Genbank:
NM_007294.3), là đột biến điểm thay thế arginine
thành codon stop (CGA>TGA) và được cho là gây
mất chức năng protein thông qua cơ chế cắt ngắn
protein hoặc thông qua thoái hóa mRNA do đột
biến vô nghĩa (nonsense-mediated mRNA decay).
Nó đã được xác định ở hơn 50 bệnh nhân (Breast
Cancer Information Core – BIC) mắc các loại ung
thư khác nhau như ung thư buồng trứng, ung thư
vú (PMID: 9361038, 21324516, 24010542, 21232165,
25428789) và ung thư tuyến tiền liệt (PMID:
27433846) [11]. Tần suất của đột biến này trong
quần thể chung là khá thấp, ở mức 0,00001
(3/251492, GnomAD_exome) [12]. Đối với các mẫu
HGOC-3, HGOC-7, HGOC-16, HGOC-24, mặc dù
các thông số kết quả không đạt tiêu chí như đã đề
ra, nhưng chúng tôi xem xét độ phủ 100× ở mỗi
mẫu (lớn hơn 90% cho bốn mẫu (không có trong
hình)) và tạm chấp thuận kết quả với độ phủ thấp
cho các phân tích biến thể sau đó.
Để đánh giá độ tin cậy của quy trình, chúng
tôi dựa trên khả năng phát hiện các biến thể dòng
mầm và dòng sinh dưỡng có trong hai mẫu chứng
được giải trình tự kèm theo mỗi chip. Kết quả là tất
cả các biến thể đều được phát hiện (Bảng 1 và 2).
Hơn nữa, các biến thể âm tính thuộc hai mẫu
chứng (không được liệt kê trong bảng) cũng hoàn
toàn không được phát hiện như hãng Horizon đã
khai báo.
Phạm Duy Hiển và cs. đã phát hiện ra ba
biến thể trên gen BRCA1 trong quần thể ung thư
vú gồm: NG_005905:g.160920C>G, NG_005905:
g.93957T>C và 5382insC (NM_007294:c.5266dupC)
và không biến thể nào được phát hiện trên gen
BRCA2 [9]. Trong một nghiên cứu khác khảo sát
trên 259 bệnh nhân mắc ung thư vú người Việt
Nam, Ginsburg và cs. đã tìm thấy hai biến thể gây
bệnh BRCA1:185insA (NM_007294.3:c.66dupA) và
BRCA2:4706delAAAG (NM_000059.3:c.4474_4477
AAAG) [13]. Tất cả những biến thể này đều không
giống với biến thể chúng tôi phát hiện, do đó
chúng tôi có thể kết luận hiện nay chưa công bố nào
tại Việt Nam về đột biến này, BRCA1:c.5251C>T
(p.Arg1751Ter), trong quần thể người Việt Nam
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên
Tập 129, Số 1A, 49–60, 2020
pISSN 1859-1388
eISSN 2615-9678
DOI: 10.26459/hueuni-jns.v129i1A.5471 59
nói chung và trong quần thể bệnh nhân ung thư
buồng trứng nói riêng.
Với bộ kit Oncomine BRCA Research Assay,
quy trình phân tích bao phủ 100% trình tự mã hóa
cho các exome của hai gen BRCA1/2 cộng thêm
trung bình 63 bp intron tại vị trí giáp biên giữa
exome-intron. Assay này mang lại hiệu suất cao,
cho kết quả nhất quán, đáng tin cậy và nhanh
chóng với chất lượng cao từ mỗi mẫu. Quy trình
giải trình tự của chúng tôi đạt hiệu quả cao đối với
những biến thể SNV, indels và MNP [14]. Đối với
những biến thể homopolymer nằm trong khu vực
mã hóa cho protein, biến thể 8-mer không được
phát hiện và khả năng phát hiện biến thể 6-mer
thấp, trong khi đó khả năng phát hiện biến thể 7-
mer lại cao [14]. Để phát hiện những biến thể CNV,
một thuật toán tin sinh học mới, phiên bản w3.0,
được dùng để phát hiện mất đoạn hoặc lặp đoạn
lớn xảy ra trong vùng của hai gen BRCA (large
intragenic rearrangement) – độ nhạy cho phiên bản
này là 94% theo như khảo sát [14]. Để có thể phát
hiện đột biến mất đoạn và lặp đoạn lớn một cách
toàn vẹn hơn, phương pháp khuếch đại đầu dò nối
đa mồi hiện nay là tiêu chuẩn vàng cho mục đích
này, nhưng trong giới hạn của nghiên cứu chúng
tôi không sử dụng phương pháp này.
Dữ liệu hiện tại của chúng tôi vẫn còn ít để
có thể khẳng định quy trình của chúng tôi có đủ độ
chuyên biệt và độ đặc hiệu và nó phù hợp cho
những ứng dụng trong lâm sàng. Chúng tôi kiến
nghị gia tăng số lượng mẫu, xác nhận lại kết quả
bằng ngoại kiểm và khảo sát thêm về độ tái lặp kết
quả thí nghiệm. Ngoài ra, việc giải trình tự mẫu
máu từ các bệnh nhân là cần thiết để xác minh liệu
biến thể có nguồn gốc dòng mầm hay dòng sinh
dưỡng.
5 Kết luận
Chúng tôi đã ứng dụng thành công phương
pháp giải trình tự gen Ion Torrent trong xác định
và khảo sát tỷ lệ đột biến BRCA1/2 trên một nhóm
nhỏ bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng. Quy
trình của chúng tôi, với bộ kit Oncomine BRCA
Research Assay và xử lý DNA mẫu bằng Uracil
DNA glycosylase, có thể vượt qua những mặt hạn
chế gặp phải trong phân tích mẫu mô vùi nến.
Phương thức này thì hiệu quả về mặt thời gian
cũng như chi phí cho sàng lọc toàn bộ những biến
thể di truyền trên hai gen BRCA, nhưng cần xác
minh thêm về độ nhạy, độ đặc hiệu và độ tái lặp
trước khi có thể đưa vào lâm sàng. Chúng tôi cũng
đề xuất gia tăng số lượng mẫu cũng như xác nhận
thêm nhằm tăng cường độ tin cậy cho bộ dữ liệu
trước khi có thể áp dụng quy trình này cho chẩn
đoán và điều trị bệnh.
Thông tin tài trợ: Kinh phí thực hiện nghiên
cứu này được tài trợ bởi Sở Khoa học và Công nghệ
Tp. HCM, Việt Nam theo hợp đồng số 223/2017/
HĐ-SKHCN
Tài liệu tham khảo
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL, Torre
LA, Jemal A. Global cancer statistics 2018:
GLOBOCAN estimates of incidence and mortality
worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA: A
Cancer Journal for Clinicians. 2018;68(6):394-424.
2. Nguyễn Chấn Hùng, Lê Hoàng Minh, Phạm Xuân
Dũng, Đặng Huy Quốc Thịnh. Giải Quyết Gánh
Nặng Ung Thư Cho Thành Phố Hồ Chí Minh. Y Học
Tp Hồ Chí Minh. 2008:12.
3. Brett MR, Jennifer BP, Thomas AS. Epidemiology of
ovarian cancer: a review. Cancer Biology &
Medicine. 2017;14(1):9-32.
4. Bell D, Berchuck A, Birrer M, Chien J, Cramer DW,
Dao F, et al. Integrated genomic analyses of ovarian
carcinoma. Nature. 2011;474(7353):609-15.
5. Moschetta M, George A, Kaye S, Banerjee S. BRCA
somatic mutations and epigenetic BRCA
modifications in serous ovarian cancer. Annals of
Oncology. 2016;27(8):1449-1455..
6. Ledermann J, Harter P, Gourley C, Friedlander M,
Vergote I, Rustin G, et al. Olaparib Maintenance
Therapy in Platinum-Sensitive Relapsed Ovarian
Cancer. New England Journal of Medicine.
2012;366(15):1382-1392.
Ngô Đại Phú và CS.
60
7. Lee J, Hays JL, Annunziata CM, Noonan AM,
Minasian L, Zujewski JA, et al. Phase I/Ib Study of
Olaparib and Carboplatin in BRCA1 or BRCA2
Mutation-Associated Breast or Ovarian Cancer With
Biomarker Analyses. JNCI: Journal of the National
Cancer Institute. 2014;106(6).
8. Balasubramaniam S, Beaver JA, Horton S, Fernandes
LL, Tang S, Horne HN, et al. FDA Approval Summary:
Rucaparib for the Treatment of Patients with
DeleteriousBRCAMutation–Associated Advanced Ovarian
Cancer. Clinical Cancer Research. 2017;23(23): 7165-7170.
9. Hiển PD, Tờ TV, Định NV/Việt Nam. Nghiên cứu
xác định đột biến gen BRCA1 và BRCA2 trong ung
thư vú ở phụ nữ việt nam. Hà Nội: Bộ Khoa học
Công nghệ, Bệnh viện K; 2010.
10. Chính LTM, Ban ĐD, Châu HMC. Kết quả nghiên
cứu đột biến gen BRCA1/BRCA2 ở 24 bệnh nhân
ung thư vú. Trường Đại học Dược Hà Nội; 2004.
11. National Center for Biotechnology Information.
ClinVar [internet]; [VCV000055480.4]; 2016 [cited
2019 Sept 12]. Available from: https://www.ncbi.
nlm.nih.gov/clinvar/variation/VCV000055480.4
12. National Center for Biotechnology Information.
sbSNP [internet]; [rs80357123]. [cited 2019 Sep 12].
Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/snp/
rs80357123#seq_hash
13. Ginsburg O, Dinh N, To T, Quang L, Linh N, Duong
B, Royer R, Llacuachaqui M, Tulman A, Vichodez G,
Li S, Love R, Narod S. Family history, BRCA
mutations and breast cancer in Vietnamese women.
Clinical Genetics. 2010;80(1):89-92.
14. Oncomine BRCA Research Assay. Evaluation of the
Oncomine BRCA Research Assay for variant
detection by next-generation sequencing [internet].
[cited 2019 Sep 12]. Available from: https://assets.
thermofisher.com/TFS-Assets/CSD/Reference-
Materials/brca-assay-variant-detection-white-
paper.pdf
15. Do H, Dobrovic A. Sequence artifacts in DNA from
formalin-fixed tissues: Causes and strategies for
minimization. Clinical Chemistry. 2015;61(1):64-71.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_khao_sat_dot_bien_gen_brca1_va_brca2_trong_quan_the.pdf