Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng đầu
dò tần số cao (10MHz) để khảo sát đám rối thần kinh
cánh tay từ rễ thần kinh chui ra từ lỗ liên hợp đốt
sống cổ (ngang mức C6) cho đến phân ngành của
đám rối ở hố thượng đòn do đám rối ở vùng này nằm
nông. Riêng ở vùng dưới đòn, do đám rối nằm sâu
dưới lớp cơ thành ngực nên phải sử dụng đầu dò
tần số 7MHz mới khảo sát được. Tuy nhiên đến 80%
trường hợp không ghi nhận được hình ảnh rõ ràng.
Hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay ở khe liên
cơ bậc thang tương ứng mức thân đám rối, là chuỗi
các nốt giảm âm tách biệt nhau giới hạn rõ với cấu
trúc xung quanh nhờ bao thần kinh và mô liên kết
tăng âm, kích thước mỗi thân khoảng 2,5 mm lớn
hơn ở hố thượng đòn và dưới đòn nên khảo sát đám
rối ở vị trí này là tốt nhất. Thêm vào đó, khoảng cách
từ da đến đám rối ngang mức khe liên cơ bậc thang
và hố thượng đòn gần bằng nhau và nhỏ hơn ngang
mức dưới đòn do đó hình ảnh đám rối ở vị trí dưới
đòn khi khảo sát bằng đầu dò tần số cao là kém nhất,
đặc biệt đối với các bệnh nhân có lớp cơ thành ngực
dày. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại vị trí dưới
đòn chỉ khảo sát được hình ảnh đám rối trong 20%
trường hợp.
Về tương quan giải phẫu với các cấu trúc xung
quanh, đám rối ngang mức hố thượng đòn và dưới
đòn ở ngay kế cận bó mạch máu. Đặc biệt ở vùng
dưới đòn các bó thần kinh nằm vây quanh động mạch
nách, khó khảo sát do có cấu trúc tăng âm không
tách biệt rõ với mô liên kết xung quanh và kích thước
nhỏ, thêm vào đó ngay sau bó mạch nách là phổi và
màng phổi nên rất dễ bị tai biến tổn thương mạch
máu và tràn khí màng phổi, tràn khí thành ngực khi
tiến hành chọc kim gây tê đám rối ở vị trí này. Trong
khi đó, ngang mức khe liên cơ bậc thang, đám rối
được bọc xung quanh bởi hai cơ bậc thang trước và
giữa nên tương đối an toàn cho gây tê.
Như vậy, siêu âm cho phép khảo sát tương đối
rõ ràng đặc điểm giải phẫu bình thường đám rối thần
kinh cánh tay, qua đó giúp dẫn gây tê đám rối thần
kinh cánh tay vùng cổ một cách chính xác, đặc biệt là
vị trí liên cơ bậc thang nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất và an toàn nhất
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu nghiên cứu đặc điểm giải phẫu siêu âm đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 153
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
* Bệnh viện Trung Ương
Huế
BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM
GIẢI PHẪU SIÊU ÂM ĐÁM RỐI THẦN KINH
CÁNH TAY VÙNG CỔ
initial study of anatomical ultrasound imaging of neck
region brachial plexus
TS. Nguyễn Phước Bảo Quân*, BS. Lê Thị Thùy Trang*
Objective: To describe the sonographic appearance of the
normal brachial plexus and to suggest the suitable region for
brachial plexus blockade under the guidance of ultrasound.
Subjects and methods: 15 patients whose age varies from 32
to 83, hospitalized at ultrasonography department in Hue central
Hospital from 3/2012 to 4/2012. The subjects had beenultrasound
scanned to locate the brachial plexuses. Their sonographic
appearances and relationship with surrounding structures then
were described and cross- sectional description were studied.
Results: Of all 15 subjects, brachial plexus appearances
were well vizualized at interscalene and supraclavicular region. At
infraclavicular region however, the same result occured in only 3
subjects, equaling to 20%. The brachial plexus was visualized as a
chain of hypoechoic nodules representing the trunks at interscalene
region, a cluster of hypoechoic nodules representing the divisions
at the supraclavicular and hyperechoic nodules representing the
cords of which diameters decrease from roots to nervous fiber.
Brachial plexus’s location is nearer from skin at its roots and deeper
towards the fiber end. Antomically, brachial plexus relates to
stenocleidomastoid muscle, anterior scalene muscle, interscalene,
subclavian artery at superior thoracic aperture and lung membrane
at subclavian region. The brachial plexus that locates at interscalene
region is the most suitable for brachial plexus desensitilization with
ultrasound guide method for better efficiency and safety.
Conclusion: Initial studies of anatomical ultrasound
imaging of the brachial plexus in the neck region result in two
conclusions. Firstly, high resolution ultrasound (7-10 MHz probe)
allows clear description of brachial plexus from roots to divisions,
and clear description of cords in about 20% of cases. Lastly, the
interscalene region is the best place for neck region brachial plexus
desensitilization with ultrasound guide method for its highest
possibility of success and least complication.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012154
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của phương pháp gây tê vùng, gây tê đám rối thần
kinh được áp dụng phổ biến trong các phẫu thuật chi
trên và nhằm mục đích giảm đau sau phẫu thuật. So
với gây mê toàn thân, phương pháp này mang lại hiệu
quả giảm đau tốt, ít tác dụng phụ, rút ngắn thời gian
hồi phục của bệnh nhân Để tiệm cận dây thần kinh
nhằm mục đích đưa thuốc tê đến dây thần kinh người
ta sử dụng hai phương pháp: gây tê “mù” dựa vào
dấu dị cảm và kích thích thần kinh cơ. Tuy nhiên, hiệu
quả của các phương pháp này lại phụ thuộc nhiều
vào khả năng của người thực hiện gây tê và một tỉ lệ
xảy ra các tai biến.
Siêu âm được biết đến từ lâu và áp dụng ngày
càng phổ biến trong đánh giá các cơ quan trong
cơ thể, mạch máu và phần mềm như gân cơ, dây
chằng Sự phát triển các máy siêu âm với đầu dò có
độ phân giải cao cho phép khảo sát các cấu trúc phức
tạp hơn như dây thần kinh. Siêu âm đám rối thần kinh
cánh tay giúp xác định chính xác vị trí gây tê trong
các phẫu thuật chi trên nhằm mang lại hiệu quả cao
và an toàn nhất. Có nhiều vị trí tiếp cận trong gây tê
đám rối thần kinh vùng cổ, bao gồm vị trí liên cơ bậc
thang, trên đòn và dưới đòn Mỗi vị trí đều có những
đặc điểm giải phẫu riêng nên việc lựa chọn vị trí gây
tê rất quan trọng nhằm giảm đến mức tối thiểu tỉ lệ tai
biến. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm giải phẫu đám rối thần kinh
cánh tay vùng cổ.
2. Đề xuất vị trí thích hợp cho gây tê đám rối thần
kinh cánh tay dưới hướng dẫn siêu âm.
ii. đối tƯỢng và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
Với 15 bệnh nhân đến khám, thực hiện tại khoa
Thăm dò chức năng Bệnh viện Trung Ương Huế từ
tháng 3/2012 đến 4/2012.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
2.2. Công cụ thu thập số liệu
Máy siêu âm hiệu ACUSON Antares của Nhật
Bản, đầu dò thẳng VF10-5, tần số 7- 10Mhz.
2.3. Kĩ thuật siêu âm
Chuẩn bị bệnh nhân và cách tiến hành: bệnh
nhân nằm ngửa, đầu quay về bên đối diện 45 độ,
cánh tay duỗi thẳng và xoay ngoài (để bộc lộ rõ đám
rối ở vị trí dưới đòn).
+ Xác định các rễ thần kinh từ C5 đến T1, lấy mỏm
ngang C6 ngang mức sụn nhẫn làm mốc đặt đầu dò
theo mặt phẳng vành chếch 45 độ, các rễ thần kinh chui
ra từ lỗ liên hợp đốt sống chạy hướng xuống dưới [1].
+ Xác định đám rối thần kinh cánh tay ở các vị trí:
khe liên cơ bậc thang, hố thượng đòn và dưới đòn [3].
hình 1. Đám rối thần kinh cánh tay trên mặt cắt dọc. Hình bên trái là hình vẽ minh họa vị trí đặt đầu dò, hình bên
phải là hình ảnh siêu âm các rễ thần kinh C5-C7 trên mặt cắt dọc chui ra từ lỗ liên hợp đốt sống cổ [1].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 155
nghiên CỨU KHoa HỌC
hình 2. Đám rối thần kinh cánh tay vị trí khe liên cơ bậc thang. Hình bên trái minh họa vị trí đặt đầu dò, hình bên
phải là hình ảnh siêu âm đám rối thần kinh cánh tay trên mặt cắt ngang chếch (mũi tên) [2].
hình 4. Đám rối thần kinh cánh tay vị trí dưới đòn. Hình bên trái minh họa vị trí đặt đầu dò, hình bên phải là hình
ảnh siêu âm đám rối thần kinh cánh tay trên mặt cắt dọc (mũi tên) [2].
hình 3. Đám rối thần kinh cánh tay vị trí hố thượng đòn. Hình bên trái minh họa vị trí đặt đầu dò, hình bên phải là
hình ảnh siêu âm đám rối thần kinh cánh tay trên mặt cắt vành chếch (mũi tên) [2].
Ngang mức khe liên cơ bậc thang, lấy tuyến giáp làm mốc đặt đầu dò theo mặt phẳng ngang, chếch 45
độ, thân đám rối là cấu trúc nằm giữa hai cơ bậc thang trước và giữa.
Ngang mức hố thượng đòn, lấy động mạch dưới đòn làm mốc đặt đầu dò theo mặt phẳng vành chếch 45
độ, ngành (hoặc thân) đám rối là cấu trúc nằm ngay trên ngoài động mạch cảnh chung.
Ngang mức dưới đòn, lấy động và tĩnh mạch nách làm mốc đặt đầu dò theo mặt phẳng dọc bên, các bó
của đám rối là cấu trúc nằm quây quanh động mạch nách.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012156
nghiên CỨU KHoa HỌC
+ Hai kĩ thuật được khuyến cáo trong khảo sát
hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay vùng liên cơ bậc
thang và hố thượng đòn [4].
Tiếp cận từ gần ra xa, đặt đầu dò ngang bắt đầu
ở mức sụn nhẫn (C6) di chuyển đầu dò từ vị trí trước
giữa ra sau bên về phía rãnh liên cơ bậc thang đến
hố thượng đòn, quét đầu dò ra xa hay vào trong để
thu nhận được hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay.
Tiếp cận từ xa vào gần: từ thượng đòn di chuyển
đầu dò về phía rãnh liên cơ bậc thang.
+ Kĩ thuật khảo sát đám rối cánh tay ở vùng dưới
đòn: khảo sát bằng mặt cắt dọc ở hai vị trí mỏm quạ
và trung điểm của mỏm cùng vai và hõm ức bằng cách
tịnh tiến dần đầu dò từ ngoài vào trong hay ngược lại.
2.4. Thiết lập các biến số nghiên cứu
Tương ứng với các mốc giải phẫu ngang mức
sụn nhẫn, ngang mức khe liên cơ bậc thang, ngang
mức hố thượng đòn, khảo sát các đặc điểm:
Số lượng các rễ/thân thần kinh: một, hai, ba hay
nhiều hơn.
Đường kính rễ/thân thần kinh (mm).
Diện tích đám rối ngang mức khe liên cơ bậc
thang/ hố thượng đòn.
Hình dạng:
+ Đám rối: tổ ong, chùm nho
+ Rễ/ thân: hình tròn, bầu dục
Độ hồi âm: tăng âm, đồng âm, giảm âm.
Dạng hồi âm: đồng nhất, không đồng nhất (lấm
tấm hồi âm bên trong).
Thành phần hợp lưu của đám rối ở vùng cổ: rễ, thân.
Khoảng cách từ da đến đám rối.
Đường đi và tương quan giải phẫu với khe liên
đốt, cơ bậc thang, bó mạch máu, xương...
2.5. Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm
MedCalc.
iii. KẾt QUẢ
Nhóm bệnh trong nghiên cứu bao gồm 5 nữ và
10 nam, từ 32-83 tuổi.
Hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay vùng liên cơ
bậc thang và hố thượng đòn khảo sát được tốt trong
tất cả các trường hợp, riêng vùng dưới đòn chỉ khảo
sát được ở 3 trong số 15 trường hợp chiếm 20%.
Hình ảnh siêu âm đám rối thần kinh cánh tay:
Ngang mức đốt sống cổ C6: trên mặt cắt vành
chếch, các rễ thần kinh chui ra từ lỗ liên hợp chạy
chếch xuống dưới. Lỗ liên hợp được xác định là
khoảng trống giảm âm giữa hai cấu trúc tăng âm có
bóng lưng tương ứng mỏm ngang đốt sống cổ, rễ
thần kinh được xác định trên trục dọc là cấu trúc hình
ống, giảm âm đồng nhất, khẩu kính 3 mm (± 0,9 mm)
tại vị trí ngoài lỗ liên hợp, trên trục ngang là cấu trúc
hình tròn hay bầu dục rỗng âm.
Ngang mức khe liên cơ bậc thang: trên mặt cắt
ngang chếch, đám rối thường là một chuỗi các nốt
giảm âm đồng nhất tách biệt nhau (số lượng khác
nhau tùy vị trí cắt nhưng thường là ba), hình tròn hay
bầu dục tương ứng với thân của đám rối, đường kính
mỗi thân là 2,5mm (±0,5 mm), khoảng cách từ da
đến đám rối là 4,5mm (±1,5 mm), diện tích đám rối
là 0,28cm2 (±0,9 cm2). Tại vị trí này, cơ ức đòn chũm
là cấu trúc nằm nông nhất và có hình dạng như một
tam giác với đỉnh hướng ra bên ngoài, nằm sâu dưới
cơ này là đám rối nằm giữa hai cơ bậc thang trước
và giữa. Nằm sâu hơn nữa là động và tĩnh mạch đốt
sống, phía bên ngoài là động mạch cảnh chung và
tĩnh mạch cảnh trong.
Ngang mức hố thượng đòn: trên mặt cắt vành
chếch, đám rối gồm nhiều nốt giảm âm không đồng
nhất bên trong có hồi âm (nhiều hơn ba) hình tròn hay
bầu dục kích thước khác nhau có dạng như tổ ong
hay chùm nho tương ứng với phân ngành của đám
rối, khoảng cách từ da đến đám rối là 3,9 mm (±0,8
mm), diện tích đám rối là 0,42 cm2 (±0,11 cm2). Tại vị
trí này, đám rối nằm phía trên ngoài động mạch dưới
đòn, là cấu trúc giảm âm hình tròn có mạch đập và
được khẳng định bằng Doppler màu. Ngay dưới động
mạch dưới đòn là xương sườn I có hình ảnh là cấu
trúc tăng âm có bóng lưng và phổi màng phổi có hình
ảnh là cấu trúc tăng âm, chuyển động theo nhịp thở.
Ngang mức dưới đòn: trên mặt cắt dọc bên
ngang mức trung điểm của mỏm cùng vai và hõm ức,
đám rối là đám gồm các nốt giảm âm hình tròn hay
bầu dục kích thước nhỏ nằm ở trên ngoài động mạch
dưới đòn, ngay dưới các cấu trúc này là màng phổi.
Trên mặt cắt dọc bên ngang mức mỏm quạ xương
vai, đám rối gồm ba nốt nhỏ tăng âm, hình tròn tương
ứng với các bó của đám rối, khoảng cách từ da đến
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 157
nghiên CỨU KHoa HỌC
đám rối là 15 mm (±5,5 mm). Tại vị trí này, các bó của
đám rối quây quanh động mạch nách, cụ thể bó ngoài,
bó trong và bó sau lần lượt nằm ngoài, trong và sau
động mạch nách, tĩnh mạch nách nằm trong so với bó
trong. Ngay trước các cấu trúc này là cơ ngực bé và
cơ ngực lớn. Phân biệt động và tĩnh mạch nách dựa
vào tính chất bị xẹp khi đè ép của tĩnh mạch.
Trong các vị trí đã nêu trên, vị trí đám rối ngang
mức khe liên cơ bậc thang thích hợp nhất cho gây
tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của
siêu âm, nhằm mục đích mang lại hiệu quả cao và
an toàn nhất.
iv. Bàn LUận
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng đầu
dò tần số cao (10MHz) để khảo sát đám rối thần kinh
cánh tay từ rễ thần kinh chui ra từ lỗ liên hợp đốt
sống cổ (ngang mức C6) cho đến phân ngành của
đám rối ở hố thượng đòn do đám rối ở vùng này nằm
nông. Riêng ở vùng dưới đòn, do đám rối nằm sâu
dưới lớp cơ thành ngực nên phải sử dụng đầu dò
tần số 7MHz mới khảo sát được. Tuy nhiên đến 80%
trường hợp không ghi nhận được hình ảnh rõ ràng.
Hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay ở khe liên
cơ bậc thang tương ứng mức thân đám rối, là chuỗi
các nốt giảm âm tách biệt nhau giới hạn rõ với cấu
trúc xung quanh nhờ bao thần kinh và mô liên kết
tăng âm, kích thước mỗi thân khoảng 2,5 mm lớn
hơn ở hố thượng đòn và dưới đòn nên khảo sát đám
rối ở vị trí này là tốt nhất. Thêm vào đó, khoảng cách
từ da đến đám rối ngang mức khe liên cơ bậc thang
và hố thượng đòn gần bằng nhau và nhỏ hơn ngang
mức dưới đòn do đó hình ảnh đám rối ở vị trí dưới
đòn khi khảo sát bằng đầu dò tần số cao là kém nhất,
đặc biệt đối với các bệnh nhân có lớp cơ thành ngực
dày. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại vị trí dưới
đòn chỉ khảo sát được hình ảnh đám rối trong 20%
trường hợp.
Về tương quan giải phẫu với các cấu trúc xung
quanh, đám rối ngang mức hố thượng đòn và dưới
đòn ở ngay kế cận bó mạch máu. Đặc biệt ở vùng
dưới đòn các bó thần kinh nằm vây quanh động mạch
nách, khó khảo sát do có cấu trúc tăng âm không
tách biệt rõ với mô liên kết xung quanh và kích thước
nhỏ, thêm vào đó ngay sau bó mạch nách là phổi và
màng phổi nên rất dễ bị tai biến tổn thương mạch
máu và tràn khí màng phổi, tràn khí thành ngực khi
tiến hành chọc kim gây tê đám rối ở vị trí này. Trong
khi đó, ngang mức khe liên cơ bậc thang, đám rối
được bọc xung quanh bởi hai cơ bậc thang trước và
giữa nên tương đối an toàn cho gây tê.
Như vậy, siêu âm cho phép khảo sát tương đối
rõ ràng đặc điểm giải phẫu bình thường đám rối thần
kinh cánh tay, qua đó giúp dẫn gây tê đám rối thần
kinh cánh tay vùng cổ một cách chính xác, đặc biệt là
vị trí liên cơ bậc thang nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất và an toàn nhất.
v. KẾt LUận
Qua nghiên cứu bước đầu về đặc điểm giải phẫu
siêu âm đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ, chúng
tôi thấy:
Siêu âm với độ phân giải cao (đầu dò tần số 7-10
MHz) cho phép khảo sát tốt đám rối thần kinh cánh
tay từ rễ cho đến phân ngành, chỉ khảo sát được các
bó thần kinh trong 20% trường hợp.
Vị trí khe liên cơ bậc thang là sự lựa chọn tốt
nhất cho gây tê đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ
dưới hướng dẫn của siêu âm nhằm tăng tỉ lệ thành
công và giảm tai biến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hans Peter Haber, Nektarios Sinis, Max Haerle,
Hans-eberhand Schaller. Sonography of Brachial
Plexus Traction Injuries. AJR, June 2006, 186: 1786-
1791.
2. Anahi Perlas MD, FRcPc; Vincent chan MD,
FRCPC. Ultrasound-Assisted Nerve.
nysora.com/peripheral_nerve_blocks/ultrasound-
guided_techniques/3063-ultrasound_assisted_
nerve_blocks.html.
3. Perlas, Anahi M.D; chan, Vincent W. S. M. D;
Simons, Martin M.D. Brachial Plexus examination
and Localization Using Ultrasound and Electrical
Stimulation: A Volunteer Study. Anesthesiology,
August 2003- Volume 99- Issue 2- pp 429-435.
4. Ban C.H. Tsui, Dip Eng, B.Sc; B. Pharm, MD, MSc,
FRcPc. Atlas of Ultrasound and Nerve Stimulation-
Guided Regional Anesthesia. 2007, 67-68.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012158
nghiên CỨU KHoa HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm giải phẫu siêu âm đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ, qua đó đề xuất vị trí thích
hợp cho gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn siêu âm.
Đối tượng và phương pháp: Với 15 bệnh nhân đến khám, tuổi từ 32 đến 83 tại khoa Thăm dò chức
năng Bệnh viện Trung Ương Huế từ 3/2012 đến 4/2012. Bệnh nhân được tiến hành siêu âm xác định đám rối
thần kinh cánh tay, mô tả đặc điểm và mối liên quan đám rối với các cấu trúc lân cận. Nghiên cứu mô tả cắt
ngang.
Kết quả: Hình ảnh đám rối thần kinh cánh tay vùng liên cơ bậc thang và hố thượng đòn khảo sát được tốt
trong tất cả các trường hợp, riêng vùng dưới đòn chỉ khảo sát được ở 3 trong số 15 trường hợp chiếm 20%.
Hình ảnh siêu âm đám rối thần kinh cánh tay thay đổi từ các nốt giảm âm tạo thành chuỗi tương ứng với thân
đám rối ở khe liên cơ bậc thang và hình chùm nho hay tổ ong tương ứng với phân ngành đám rối ở hố thượng
đòn cho đến các nốt tăng âm ở vùng dưới đòn tương ứng với các bó thần kinh. Khẩu kính dây thần kinh giảm
dần từ rễ đến bó sợi, đám rối nằm nông từ rễ đến phân ngành và sâu dần khi tách ra các bó. Về tương quan
giải phẫu với các cấu trúc xung quanh, đám rối liên quan với các cơ ức đòn chũm, cơ bậc thang trước và giữa
ở khe liên cơ bậc thang, liên quan với động mạch dưới đòn ở hố thượng đòn và liên quan với bó mạch nách,
phổi và màng phổi ở vùng dưới đòn. Vị trí đám rối ngang mức khe liên cơ bậc thang là thích hợp nhất cho gây
tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm, nhằm mục đích mang lại hiệu quả cao và an toàn
nhất.
Kết luận: Qua nghiên cứu bước đầu về đặc điểm giải phẫu siêu âm đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ,
chúng tôi thấy siêu âm với độ phân giải cao (đầu dò tần số 7- 10 MHz) cho phép khảo sát tốt ĐRTKCT từ rễ
cho đến phân ngành, chỉ khảo sát được các bó thần kinh trong 20% trường hợp. Vị trí khe liên cơ bậc thang là
sự lựa chọn tốt nhất cho gây tê đám rối thần kinh cánh tay vùng cổ dưới hướng dẫn của siêu âm nhằm tăng tỉ
lệ thành công và giảm tai biến.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_nghien_cuu_dac_diem_giai_phau_sieu_am_dam_roi_than.pdf