Chi Canna
Bên cạnh chi Panax L., chi Canna, chi duy
nhất của họ Dong riềng Cannaceae, cũng đang
được đẩy mạnh nghiên cứu các tác dụng dược lý.
Khoảng 20 loài thuộc chi Canna phân bố trên thế
giới, trong đó 6 loài đã được phát hiện ở Việt
Nam, bao gồm: Canna edulis Ker., C. generalis
Bail., C. glauca L., C. indica L., C. sylvestris
Rosc và C. warszewiczii A. Dietr. Những nghiên
cứu đầu tiên về cây Dong riềng đỏ Canna edulis
Ker. được thực hiện bởi bác sĩ Hoàng Sầm, Đại
học Y Dược Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu
trên lâm sàng sử dụng dịch chiết C. edulis Ker.
để hỗ trợ điều trị các bệnh nhân bệnh cơ tim thiếu
máu cục bộ trong 10 năm (2007 – 2015) cho thấy
tình trạng bệnh được cải thiện rõ rệt [22]. Trong
đó, C. warszewiczii A. Dietr mới được phát hiện
và nghiên cứu khá kỹ về tác dụng chống đông
máu, chống NTTC. C. warszewiczii là một loài
cây chịu bóng râm, thường mọc dưới tán cây, nơi
ẩm ướt. Cây cao khoảng 1,5 mét. Lá nhỏ và thô,
gân ở giữ to, gân phụ song song. Hoa xếp thành
cụm ở ngọn cây, màu đỏ thẫm. Thân mảnh
nhưng chắc, màu tím đỏ. Thân rễ to thành củ.
Cây phát triển mạnh mẽ và xanh tốt quanh năm
[19, 23]. Ở Việt Nam, C. warszewiczii phân bố
tự nhiên ở một số vùng miền núi như Mộc Châu
(Sơn La), Võ Nhai (Thái Nguyên) và Bắc Sơn
(Lạng Sơn) [22, 23]. C. warszewiczii đã được sử
dụng như một loại thuốc cổ truyền để điều trị các
bệnh tim mạch như bệnh động mạch vành, thiếu
máu cơ tim. Ngoài ra, người Dao ở bản Piềng
Sàng (Sơn La) còn trồng và sử dụng loài cây này
làm thuốc chữa đau dạ dày, đau nhức xương và
tức ngực [22, 23]. Nhiều nghiên cứu về tác dụng
chống đông máu, ức chế NTTC đã được công bố.
Năm 2018, Nguyễn Thị Vân Anh và cộng sự lần
đầu tiên cho thấy phân đoạn dịch chiết EA của
phần thân rễ và của phần trên mặt đất của C.
warszewiczii đều kéo dài thời gian PT (thăm dò
con đường đông máu ngoại sinh) và APTT (thăm
dò con đường đông máu nội sinh), từ 1,5 đến 2,5
lần giá trị bình thường. Phân đoạn EA của cả hai
phần đều cho tác dụng chống đông máu ở nồng
độ 8 mg/mL. Ở nồng độ 16 mg/mL, dịch chiết
của phần trên mặt đất cho kết quả hai chỉ số PT
và APTT đều rất cao, có thể phản ánh nguy cơ
chảy máu cao. Kết quả nghiên cứu ban đầu này
cho thấy C. warszewiczii có tác dụng chống đông
máu, tác động đến cả hai con đường đông máu
nội sinh và ngoại sinh [23]. Một loạt phân đoạn
dịch chiết của C. warszewiczii bao gồm EA,
dicloromethane (DCM), nH của phần thân và
phần trên mặt đất có tiềm năng chống NTTC khi
thử với ba chất kích tập khác nhau là ADP,
collagen, ristocetin. Kết quả cho thấy phân đoạn
EA của phần trên mặt đất và phân đoạn DCM
của phần thân rễ ở nồng độ 1,5 mg/mL có tác
dụng mạnh nhất trong ức chế NTTC hoạt hóa bởi
ADP và collagen.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu nghiên cứu tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu của một số dược liệu Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-10
1
Review Article
Platelet Aggregation Activities of Vietnamese Medicinal
Plants: Anti-Thrombolytic Potentials?
Luong Phu Hung1, Nguyen Thi Van Anh2, Do Tien Dung3, Vu Thi Thom1,*
1VNU School of Medicine and Pharmacy, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2Univeristy of Science and Technology Hanoi, Vietnam Academy of Science and Technology,
18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Ha Noi, Vietnam
3Department of Hematology, Bachmai Hospital, 78 Giai Phong, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam
Received 28 May 2020
Revised 02 June 2020; Accepted 20 June 2020
Abstract: Blood coagulant, an important physiological process, underlines pathology of various
diseases. Thrombosis caused by activated platelets in blood stream can lead to narrowing or blocking
the blood flow, which results in stroke or ischemic conditions. The number of human deaths caused
by coronary disease or stroke has been increasing rapidly over the last few years in Vietnam. Many
anti-thrombosis and anti-platelet aggregation drugs have been discovered and applied in treatment.
However, these drugs have many side effects such as bleeding, stomach lesion, etc. Vietnam is a
tropical country with plenty of medicinal plants, from which a potential drug for anti-thrombolytic
activities can be prepared. Therefore, an overview of Vietnamese medicinal plants with anti-platelet
aggregation activities, such as Panax L., Canna, is highly needed for improving the quality of
exploiting Vietnamese medicinal resources.
Keywords: Anti-thrombosis, Canna, Panax L., platelet aggregation, Vietnamese medicinal plants.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: thomtbk5@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4252
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
2
Bước đầu nghiên cứu tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu của
một số dược liệu Việt Nam
Lương Phú Hưng1, Nguyễn Thị Vân Anh2, Đỗ Tiến Dũng3, Vũ Thị Thơm1,*
1Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
3Khoa Huyết học, Bệnh viện Bạch Mai, 78 Giải Phóng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 28 tháng 5 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 02 tháng 6 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2020
Tóm tắt: Đông máu là quá trình sinh lý vô cùng quan trọng của cơ thể, ảnh hưởng đến sự sống còn
của mỗi người. Rối loạn đông máu dẫn đến các bệnh lý liên quan đến huyết khối đang ngày càng
trở nên phổ biến và nguy hiểm hơn. Để điều trị và kiểm soát vấn đề trên, nhiều thuốc chống huyết
khối đã được nghiên cứu và ra đời. Tuy nhiên, ngoài lợi ích mang lại trong điều trị, các thuốc này
cũng tiềm ẩn nhiều tác dụng không mong muốn như tăng nguy cơ chảy máu hay loét dạ dày. Trước
thực trạng đó, xu hướng nghiên cứu các hợp chất có nguồn gốc thiên nhiên đang được đẩy mạnh.
Bài viết này nhằm giới thiệu tổng quan về tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu của một số chi dược
liệu Việt Nam như Panax L., Canna. và tiềm năng của chúng trong phát triển các thuốc mới.
Từ khóa: Ngưng tập tiểu cầu, thụ thể purinergic, dược liệu Việt Nam, bệnh lý huyết khối.
1. Tổng quan về ngưng tập tiểu cầu và các
thuốc chống huyết khối*
1.1. Cơ chế ngưng tập tiểu cầu và hình thành
huyết khối
Đông máu là một cơ chế quan trọng để hạn
chế hoặc ngăn cản sự mất máu, bao gồm 4 giai
đoạn: co mạch tại chỗ, tạo nút tiểu cầu, tạo cục
máu đông và tan cục máu đông [1]. Nhìn chung,
cục máu đông chính là nút tiểu cầu, được tạo
thành do sự ngưng tập của các tiểu cầu với nhau,
được củng cố bởi mạng lưới fibrin, là sản phẩm
cuối cùng của hai con đường đông máu. Bởi vậy,
ngưng tập tiểu cầu (NTTC) đóng vai trò trung
tâm trong hình thành huyết khối.
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thomtbk5@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4252
Để có thể ngưng tập được với nhau, các tiểu
cầu phải được hoạt hóa. Quá trình này bắt đầu
khi các chất kích tập tương tác với các thụ thể
của chúng. Dựa trên đặc điểm của các thụ thể
trên, hoạt hóa tiểu cầu có thể được khởi động
thông qua hai con đường chính: thông qua thụ
thể bắt cặp protein G (GPCR) và thông qua thụ
thể glycoprotein (GP) [2]. Hiện tượng đầu tiên
xảy ra trong quá trình NTTC là sự thay đổi hình
dạng của tiểu cầu. Từ hình đĩa, tiểu cầu phồng
lên thành hình cầu, sau đó co lại, đồng thời hình
thành những chân giả (filopodia) và vùng mở
rộng (lamellipodia). Hiện tượng này được điều
khiển bởi một loạt các protein cắt, ghép được
hoạt hóa bởi sự gia tăng nồng độ Ca++ nội bào.
Lý do tại sao tiểu cầu phải thay đổi hình dạng
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
3
trước khi ngưng tập có thể là do hình dạng mới
làm giảm lực đẩy tĩnh điện giữa hai tiểu cầu [3].
Các tín hiệu sinh ra do tương tác của các chất
kích tập với thụ thể của chúng tiếp tục hoạt hóa
GPIIb/IIIa từ trạng thái có ái lực thấp thành trạng
thái có ái lực cao và bộc lộ trên màng tiểu cầu.
Thụ thể GPIIb/IIIa giúp tiểu cầu ngưng tập với
nhau thông qua cầu fibrinogen. Sự ngưng tập này
gọi là ngưng tập nguyên phát. Tuy nhiên, ngưng
tập nguyên phát có thể bị phân rã nếu phản ứng
giải phóng chất từ các hạt tiểu cầu không xảy ra.
Đây là hiện tượng các hạt tiểu cầu bài tiết ra môi
trường các chất như ADP, ATP, serotonin, Ca++
từ hạt đặc; các enzyme phân giải từ túi lysosome;
các protein dính và yếu tố đông máu từ hạt α [4].
Một lượng lớn ADP được giải phóng giúp hoạt
hóa các tiểu cầu khác, củng cố và làm bền đám
ngưng tập. Những chất kích tập mạnh như
collagen, thrombin, TXA2 gây ra phản ứng giải
phóng đồng thời với ngưng tập nguyên phát. Đối
với các chất kích tập yếu như ADP, epinephrine,
ngưng tập thứ phát chỉ bắt đầu sau khi phản ứng
giải phóng xảy ra.
Song song với quá trình hoạt hóa tiểu cầu,
các con đường đông máu cũng diễn ra. Đây là
một chuỗi các phản ứng hoạt hóa enzyme hay
còn gọi là các yếu tố đông máu. Khi mạch máu
bị tổn thương, hai con đường đông máu có thể
được kích hoạt đồng thời. Con đường đông máu
ngoại sinh xảy ra khi máu tiếp xúc với mô tổn
thương, con đường đông máu nội sinh xảy ra khi
yếu tố XII tự động hoạt hóa trên bề mặt tích điện
âm, ví dụ như màng tiểu cầu được hoạt hóa [5].
Kết quả cuối cùng của cả hai con đường này đều
là sự hình thành fibrin từ fibrinogen. Các sợi
fibrin liên kết lại thành một mạng lưới, giam giữ
các tế bào máu, củng cố độ bền của nút tiểu cầu
và tạo cục máu đông [1].
Sau khi được tạo thành, cục máu đông co lại,
giúp lưu thông trong mạch máu được bình
thường. Đồng thời, một số chất tPA, kallikrein
từ các mô tổn thương xúc tác biến đổi
plasminogen thành plasmin. Plasmin có khả
năng phân hủy fibrin, fibrinogen và một số yếu
tố đông máu. Bởi vậy, ngưng tập tiểu cầu bị phân
rã bị phân rã, mạng lưới fibrin bị phá vỡ dẫn, dẫn
đến làm tan cục máu đông [1,6].
Hình 1. Quá trình ngưng tập tiểu cầu hoạt hóa bởi
ADP 5 M.
(Nguồn:https://practicalhaemostasis.com/Platelets/pl
atelet_function_testing_lta.html)
Dựa vào cơ chế của quá trình đông máu,
thuốc chống huyết khối được chia thành 3 nhóm
dựa trên giai đoạn của quá trình đông máu mà
chúng tác động vào, gồm: các thuốc ức chế tổng
hợp fibrin, các thuốc chống NTTC và các thuốc
tiêu sợi huyết [7]
1.2. Các thuốc ức chế tổng hợp fibrin
1.2.1. Nhóm ức chế thrombin
Thrombin cắt fibrinogen thành các sợi fibrin
đơn phân. Các sợi này sau đó trùng hợp, hình
thành mạng lưới fibrin không tan. Ngoài ra,
thrombin cũng hoạt hóa yếu tố XIII, làm bền
mạng lưới fibrin và ổn định cục máu đông. Ngoài
ra, nó cũng gây NTTC, kích thích tăng sinh tế
bào và điều chỉnh sự co cơ trơn [1,6].
Nhóm ức chế thrombin được chia làm hai
phân nhóm nhỏ là các thuốc ức chế trực tiếp và
các thuốc ức chế gián tiếp. Các thuốc ức chế trực
tiếp gắn trực tiếp lên thrombin, ngăn cản các tác
dụng của thrombin. Hirudin và bivalirudin là
những phân tử lớn gắn vào vị trí xúc tác cũng
như là vị trí nhận biết cơ chất của thrombin.
Argatroban và megalatran là những phân tử nhỏ,
chỉ gắn vào vị trí hoạt động của thrombin. Trong
khi đó, các thuốc ức chế thrombin gián tiếp gồm
heparin phân tử lượng cao, heparin phân tử
lượng thấp (enoxaparin, dalteparin, tinzaparin)
và fondaparinux. Bản thân heparin không có tác
dụng chống đông nhưng khi liên kết với
antithrombin III thông qua một chuỗi
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
4
pentasaccharide đặc hiệu, làm tăng ái lực của
antithrombin III với các serine protease
(thrombin, yếu tố IX, X, XI, XII), dẫn đến ức chế
hoạt động của chúng [1,6,8].
1.2.2.Nhóm ức chế yếu tố X hoạt hóa
Con đường đông máu nội sinh và ngoại sinh
đều dẫn tới hoạt hóa yếu tố X. Do đó, ức chế yếu
tố X hoạt hóa cũng ngăn chặn hình thành cục
máu đông. Rivaroxaban, apixaban và edoxaban
được sử dụng đường uống, khởi phát tác dụng
nhanh hơn và nửa đời thuốc ngắn hơn warfarin [8].
1.2.3. Nhóm kháng vitamin K
Vitamin K rất cần thiết trong hình thành các
yếu tố đông máu II, VII, IX, X trong sự có mặt
của enzym xúc tác VKORC1. Do đó, thiếu hụt
vitamin K có thể dẫn đến rối loạn đông máu.
Coumarin và các dẫn chất của nó cạnh tranh với
vitamin K ở vị trí hoạt động của VKORC1, ngăn
cản sự tổng hợp các yếu tố đông máu trên [1,6,8].
Warfarin và acenocumarol là hai thuốc
chống đông máu kháng vitamin K được sử dụng
phổ biến tại Việt Nam. Nghiên cứu trên một
nhóm bệnh nhân thay van tim ở Việt Nam đánh
giá tương quan giữa đa hình của gen mã hóa
CYP2C9 (enzym chuyển hóa thuốc) và VKORC1
(đích tác dụng của thuốc) với liều dùng
acenocoumarol. Kết quả cho thấy kiểu gen
CYP2C9*3 không ảnh hưởng đến liều dùng
thuốc. Trong khi đó, những bệnh nhân mang một
trong hai kiểu gen đồng hợp tử VKORC1-1173
C>T và -1639 G>A có liều dùng thấp hơn đáng
kể so với kiểu gen dị hợp tử. Sự kết hợp của hai
kiểu gen VKORC1-1173 C>T và -1639 G>A
kiểm soát đáp ứng liều của bệnh nhân và có vẻ như
VKORC1-1173 C>T đóng vai trò lớn hơn [9].
1.3. Các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu
Nhìn chung, hoạt động của tiểu cầu được vận
hành bởi ba nhóm chất. Nhóm thứ nhất gồm các
chất được tổng hợp bên ngoài tiểu cầu và tương
tác với các thụ thể trên màng tiểu cầu: collagen,
thrombin. Nhóm thứ hai gồm các chất được tổng
hợp bên trong tiểu cầu và tương tác với các thụ
thể trên màng: ADP, serotonin, prostaglandin
D2. Nhóm thứ ba gồm các chất được tổng hợp
và hoạt động bên trong tiểu cầu: cAMP, cGMP
[8]. Dựa vào cách phân loại trên, thuốc chống
NTTC có thể ức chế hoạt hóa tiểu cầu hay ngăn
chặn các tiểu cầu liên kết với nhau qua cầu
fibrinogen. Từ đó, nút tiểu cầu không được
hình thành.
1.3.1. Nhóm ức chế Cyclogenase 1 (COX-1)
Aspirin được tổng hợp vào cuối thế kỷ 19,
ban đầu được sử dụng để giảm đau, hạ sốt, chống
viêm. Đến những năm 1970, tác dụng kháng tiểu
cầu của aspirin mới được phát hiện và làm rõ cơ
chế. Cho đến nay, aspirin vẫn là thuốc hàng đầu
trong điều trị hội chứng mạch vành cấp, giảm
23% nguy cơ tử vong sau 5 tuần sử dụng [10].
Aspirin ức chế không hồi phục COX-1 bằng cách
acetyl hóa enzyme này, ngăn cản sự tổng hợp
TXA2, một chất kích tập mạnh. Sự ức chế rất
mạnh và kéo dài suốt đời sống của tiểu cầu
[8,11]. Liều 75 – 100 mg/ngày là đủ để ức chế
hoàn toàn sự tổng hợp TXA2 ở tiểu cầu [12].
Ngoài ra, aspirin còn ức chế tổng hợp
prostaglandin I2, có tác dụng chống đông, do ức
chế prostacyclin synthetase. Tuy nhiên, sự ức
chế này không mạnh bằng tác dụng ức chế COX-
1 và cũng không kéo dài [11].
Các thuốc khác thuộc nhóm chống viêm
không steroid (NSAID) như mobic, apo –
piroxicam cũng có tác dụng chống NTTC với cơ
chế tương tự aspirin nhưng tác dụng không dài
bởi chúng không acetyl hóa được COX-1 [8, 11].
1.3.2. Nhóm ức chế thụ thể P2Y12
Thụ thể P2Y12 có vai trò quan trọng trong
NTTC hoạt hóa bởi ADP, giúp khuếch đại và
củng cố ngưng tập. Những bệnh nhân thiếu hụt
thụ thể này đều gặp vấn đề về rối loạn đông máu.
Các chất ức chế thụ thể được chia làm hai nhóm:
nhóm thienopyridin (gồm clopidogrel, prasugrel
và ticlopidin) và nhóm dẫn chất nucleotide
(cangrelor và ticagrelor) [10].
Nhóm thienopyridin đều là các tiền thuốc,
dùng đường uống, được chuyển hóa thành các
chất có hoạt tính bởi các esterase trong huyết
tương hoặc hệ thống cytochrome P450
(CYP450), ức chế không hồi phục P2Y12 [10].
Ticlodipin là thuốc đầu tiên của nhóm này. Tuy
nhiên, do gây nhiều tác dụng không mong muốn
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
5
như giảm tiểu cầu, bạch cầu nên nay ticlodipin ít
được sử dụng [6]. Clopidogrel và prasugrel là
các thuốc thế hệ sau, trong đó clopidogrel được
sử dụng phổ biến nhất. Tác dụng chống NTTC
của clopidogrel phụ thuộc vào liều dùng và đa
hình di truyền gen CYP2C19 – enzyme chuyển
hóa thuốc này. FDA khuyến cáo nên xác định
kiểu gen CYP2C19 để phát hiện những bệnh
nhân chuyển hóa thuốc kém và cân nhắc thay thế
liệu pháp điều trị [8]. Một nghiên cứu trên 54
bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định tại Viện
Tim mạch Việt Nam cho thấy alen CYP2C19*2
làm giảm chuyển hóa clopidogrel thể hiện ở sự
tăng độ NTTC. Bởi vậy, nghiên cứu củng cố tầm
quan trọng của yếu tố di truyền trong đáp ứng
thuốc [13]. Ngược lại với clopidogrel, ảnh hưởng
của kiểu gen CYP450 không quan trọng đối với
tác dụng dược lý của prasugrel [7].
Khác với nhóm thienopyridin, nhóm dẫn
chất nucleotide gồm các chất tác dụng trực tiếp
vào thụ thể P2Y12 mà không cần phải chuyển
hóa. Ticagrelor dùng đường uống, gắn vào vị trí
dị lập thể của P2Y12, không cạnh tranh vị trí gắn
của ADP, ức chế chọn lọc có hồi phục P2Y12.
Sản phẩm chuyển hóa của ticagrelor cũng có
hoạt tính tương đương [14, 15]. Cangrelor dùng
đường tiêm tĩnh mạch, có nửa đời thuốc rất ngắn
(3 – 6 phút), thời gian bắt đầu cho tác dụng nhanh
(2 phút) và duy trì tác dụng trong khoảng 1 – 2
giờ [13]. Vì các đặc tính đặc biệt, cangrelor được
sử dụng cho những tình huống khẩn cấp, cho
bệnh nhân đang chờ phẫu thuật hay không thể sử
dụng thuốc đường uống [10, 11].
1.3.3. Nhóm ức chế thụ thể của thrombin
Thrombin là một serine protease, hoạt hóa
tiểu cầu chủ yếu thông qua hai thụ thể bắt cặp
protein G, PAR1 và PAR4, trong đó PAR1 có ái
lực với thrombin mạnh nhất. Hiện nay, nhóm này
mới chỉ có vorapaxar đang được sử dụng.
Vorapaxar ức chế chọn lọc có hồi phục PAR1,
dẫn đến ức chế sự hoạt hóa tiểu cầu bởi thrombin
nhưng không ảnh hưởng đến cầm máu ban đầu.
Vorapaxar được chuyển hóa bởi CYP3A4 và
CYP2J2 thành một chất có hoạt tính tương
đương chất ban đầu. Do lo ngại về độ an toàn,
việc sử dụng vorapaxar trên lâm sàng còn hạn
chế [10, 16].
1.3.4. Nhóm ức chế thụ thể GPIIb/IIIa
Phức hợp GPIIb/IIIa có chức năng như một
thụ thể chủ yếu cho fibrinogen và vitronectin.
Hoạt hóa thụ thể này là cần thiết để tiểu cầu
ngưng tập với nhau. Phối tử của GPIIb/IIIa chứa
trình tự Arg-Gly-Asp (RGD) để có thể liên kết
được với thụ thể. Mỗi tiểu cầu có khoảng 50 000
phức hợp này. Thiếu hụt GPIIb/IIIa dẫn đến tình
trạng rối loạn chảy máu gọi là bệnh suy giảm
huyết khối Glanzmann [8].
Nhóm thuốc ức chế phức hợp GPIIb/IIIa là
những phân tử bắt chước phối tử của GPIIb/IIIa,
ngăn fibrinogen gắn với các tiểu cầu hoạt hóa, do
đó ức chế sự ngưng tập của tiểu cầu. Các thuốc
ức chế thụ thể GPIIb/IIIa được sử dụng trong hội
chứng mạch vành cấp tính. Ba thuốc hiện đang
được sử dụng: abciximab, một kháng thể đơn
dòng; eptifibatid, một heptapeptid vòng có
nguồn gốc từ nọc độc rắn chuông chứa chuỗi
Arg-Gly-Asp giống với trình tự của fibrinogen
liên kết với GPIIb/IIIa và tirofiban, một phân tử
nhỏ cũng chứa chuỗi RGD. Do có nửa đời thuốc
ngắn, các thuốc này phải được tiêm truyền liên
tục [10, 12].
1.3.5. Nhóm ức chế phosphodiesterase
Dipyridamol là thuốc ức chế
phosphodiesterase, do đó làm tăng nồng độ
cAMP dẫn đến làm ức chế tổng hợp TXA2 và
gián tiếp tăng nồng độ adenosin. Ngoài ra,
dipyridamol còn có tác dụng giãn mạch vành
[12]. Nếu chỉ sử dụng một mình dipyridamol thì
hầu như không có tác dụng nên dipyridamol
thường được sử dụng phối hợp với aspirin hoặc
warfarin [8].
Cilostazol là một thuốc ức chế
phosphodiesterase mới, có tác dụng giãn mạch
và ức chế NTTC. Cilostazol được sử dụng để
điều trị đau cách hồi ở chân [8].
1.4. Các thuốc tiêu sợi huyết
Khi các con đường đông máu được khởi
động, hệ thống tiêu sợi huyết cũng được kích
hoạt thông qua một số yếu tố hoạt hóa
plasminogen như tPA, kallikrein. Các chất này
xúc tác chuyển plasminogen thành plasmin.
Giống như trypsin, plasmin là enzyme tiêu
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
6
protein, có tác dụng phân hủy fibrin, fibrinogen
cũng như các yếu tố II, V, VIII. Do được tạo
thành bên trong cục máu đông nên plasmin chỉ
có tác dụng tại chỗ và dễ dàng bị bất hoạt bởi các
chất ức chế khi di chuyển trong hệ thống tuần
hoàn [1, 6].
Các thuốc tiêu sợi huyết nhanh chóng phân
rã cục máu đông bằng cách xúc tác phản ứng
tổng hợp plasmin từ plasminogen. Streptokinase
là một protein được tổng hợp bởi streptococci,
liên kết với tiền chất hoạt hóa plasminogen để
tạo thành phức hợp xúc tác phản ứng biến đổi
trên. Urokinase được thận sản sinh ra, xúc tác
trực tiếp chuyển plasminogen thành plasmin.
Alteplase và duteplase lần lượt là tPA tái tổ hợp
chuỗi đơn và chuỗi đôi, xúc tác plasminogen ở
cục máu đông nhiều hơn plasminogen trong
huyết tương [6, 8].
2. Tiềm năng của một số loài dược liệu Việt
Nam với tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu
Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió
mùa, địa hình đa dạng với thảm thực vật phong
phú. Hơn nữa, kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm
thuốc chữa bệnh của người dân cũng rất dồi dào.
Điều này giúp cho Việt Nam có một nguồn tài
nguyên cây thuốc quý giá [17]. Theo đó, nhiều
nghiên cứu về tác dụng dược lý của các loài dược
liệu lên quá trình đông máu đã được tiến hành và
công bố, nổi bật là các loài thực vật thuộc chi
Panax L. và chi Canna. Chính vì vậy, phần dưới
đây sẽ đề cập chủ yếu tới các dược liệu thuộc hai
chi này trong khuôn khổ bài tổng quan này.
2.1. Chi Panax L.
Một trong những chi dược liệu quý của Việt
Nam là chi Sâm – Panax L. thuộc họ Ngũ gia bì
– Araliaceae. Chi Panax L. gồm các loài cây
thảo sống lâu năm, có phần thân rễ mập, lá kép
chân vịt. Hoa mọc thành cụm đơn ở đỉnh cành.
Quả hạch, hình cầu, hạt dẹt một bên, số lượng
hạt bằng số lượng noãn. Việt Nam ghi nhận 6
loài và 3 thứ thuộc chi Panax L. gồm: 1a. Panax
japonicus (Nees) Meyer var. japonicas (Sâm
Nhật Bản), 1b. P. japonicus (Nees) Meyer var.
bipinnatifidus (Seem.) Wu & Feng (Sâm vũ
diệp), 2. P. stipuleanatus Tsai & Feng (Tam thất
hoang), 3. P. notoginseng (Burk.) Chow &
Huang, 4. P. pseudo-ginseng Wall. (Tam thất),
5a. P. vietnamensis Ha & Grushv. var.
vietnamensis (Sâm Ngọc Linh), 5b. P.
vietnamensis Ha & Grushv. var. fussidiscus K.
Komatsu, S. Zhu & S. Q. Cai (Sâm Lai Châu),
5c. P. vietnamensis Ha & Grushv. var.
langbianensis N. V. Duy et al. (Sâm Langbian),
6. P. zingiberensis Wu & Feng [18]. Sâm có vị
đắng, được coi là vị thuốc đứng đầu các vị thuốc
bổ trong Đông y, theo thứ tự sâm, nhung, quế,
phụ [19]. Từ xưa đến nay, các loài sâm được sử
dụng làm thuốc với công dụng chính của chúng
là tăng cường sinh lực, nâng cao thể trạng. Ngoài
ra, chúng còn nhiều tác dụng khác nên thường
được ví như “thần dược”. Gần đây, nhiều nghiên
cứu được tiến hành nhằm đánh giá khả năng tác
dụng của Sâm vũ diệp (SVD) (P. bipinnatifidus
Seem.) và Tam thất hoang (TTH) (P.
stipuleanatus H.Tsai et K.M.Feng) ở Việt Nam
lên quá trình đông máu và NTTC in vitro. SVD
thể hiện tác dụng chống đông máu, phản ánh qua
kéo dài thời gian thromboplastin từng phần hoạt
hóa (APTT) và thời gian prothrombin (PT) ở
phân đoạn ethyl acetate (EA) (1 – 2 – 5 mg/mL),
n-butanol (nB) (2 – 5 mg/mL) và ether (5
mg/mL). Đánh giá tác dụng chống NTTC, tất cả
các phân đoạn dịch chiết của SVD đều làm giảm
phần trăm ngưng tập tối đa [20]. Trong khi đó,
TTH thể hiện khả năng ức chế ngưng tập ở phân
đoạn tổng với mức liều 1 – 2 – 5 mg/mL, phân
đoạn nB 5 mg/mL và phân đoạn n-hexan (nH)
0,5 – 1 – 2 – 5 mg/mL [21]. Cao giàu saponin
của cả SVD và TTH cũng có tác dụng chống
NTTC ở mức liều 0,8 mg/mL và 1,6 mg/mL thể
hiện ở sự giảm các chỉ số phần trăm ngưng tập
tối đa, mức độ NTTC hay phần trăm NTTC điểm
cuối [21]. Các nghiên cứu này cho thấy tiềm
năng rất lớn của chi Panax trong phát triển các
thuốc chống NTTC.
2.2. Chi Canna
Bên cạnh chi Panax L., chi Canna, chi duy
nhất của họ Dong riềng Cannaceae, cũng đang
được đẩy mạnh nghiên cứu các tác dụng dược lý.
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
7
Khoảng 20 loài thuộc chi Canna phân bố trên thế
giới, trong đó 6 loài đã được phát hiện ở Việt
Nam, bao gồm: Canna edulis Ker., C. generalis
Bail., C. glauca L., C. indica L., C. sylvestris
Rosc và C. warszewiczii A. Dietr. Những nghiên
cứu đầu tiên về cây Dong riềng đỏ Canna edulis
Ker. được thực hiện bởi bác sĩ Hoàng Sầm, Đại
học Y Dược Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu
trên lâm sàng sử dụng dịch chiết C. edulis Ker.
để hỗ trợ điều trị các bệnh nhân bệnh cơ tim thiếu
máu cục bộ trong 10 năm (2007 – 2015) cho thấy
tình trạng bệnh được cải thiện rõ rệt [22]. Trong
đó, C. warszewiczii A. Dietr mới được phát hiện
và nghiên cứu khá kỹ về tác dụng chống đông
máu, chống NTTC. C. warszewiczii là một loài
cây chịu bóng râm, thường mọc dưới tán cây, nơi
ẩm ướt. Cây cao khoảng 1,5 mét. Lá nhỏ và thô,
gân ở giữ to, gân phụ song song. Hoa xếp thành
cụm ở ngọn cây, màu đỏ thẫm. Thân mảnh
nhưng chắc, màu tím đỏ. Thân rễ to thành củ.
Cây phát triển mạnh mẽ và xanh tốt quanh năm
[19, 23]. Ở Việt Nam, C. warszewiczii phân bố
tự nhiên ở một số vùng miền núi như Mộc Châu
(Sơn La), Võ Nhai (Thái Nguyên) và Bắc Sơn
(Lạng Sơn) [22, 23]. C. warszewiczii đã được sử
dụng như một loại thuốc cổ truyền để điều trị các
bệnh tim mạch như bệnh động mạch vành, thiếu
máu cơ tim. Ngoài ra, người Dao ở bản Piềng
Sàng (Sơn La) còn trồng và sử dụng loài cây này
làm thuốc chữa đau dạ dày, đau nhức xương và
tức ngực [22, 23]. Nhiều nghiên cứu về tác dụng
chống đông máu, ức chế NTTC đã được công bố.
Năm 2018, Nguyễn Thị Vân Anh và cộng sự lần
đầu tiên cho thấy phân đoạn dịch chiết EA của
phần thân rễ và của phần trên mặt đất của C.
warszewiczii đều kéo dài thời gian PT (thăm dò
con đường đông máu ngoại sinh) và APTT (thăm
dò con đường đông máu nội sinh), từ 1,5 đến 2,5
lần giá trị bình thường. Phân đoạn EA của cả hai
phần đều cho tác dụng chống đông máu ở nồng
độ 8 mg/mL. Ở nồng độ 16 mg/mL, dịch chiết
của phần trên mặt đất cho kết quả hai chỉ số PT
và APTT đều rất cao, có thể phản ánh nguy cơ
chảy máu cao. Kết quả nghiên cứu ban đầu này
cho thấy C. warszewiczii có tác dụng chống đông
máu, tác động đến cả hai con đường đông máu
nội sinh và ngoại sinh [23]. Một loạt phân đoạn
dịch chiết của C. warszewiczii bao gồm EA,
dicloromethane (DCM), nH của phần thân và
phần trên mặt đất có tiềm năng chống NTTC khi
thử với ba chất kích tập khác nhau là ADP,
collagen, ristocetin. Kết quả cho thấy phân đoạn
EA của phần trên mặt đất và phân đoạn DCM
của phần thân rễ ở nồng độ 1,5 mg/mL có tác
dụng mạnh nhất trong ức chế NTTC hoạt hóa bởi
ADP và collagen. Trong khi đó, phân đoạn nH
của phần thẩn rễ có tác dụng ức chế mạnh nhất
ngưng tập hoạt hóa bởi ristocetin [7]. Nghiên cứu
của Lê Hồng Luyến và cộng sự đánh giá tác dụng
ức chế NTTC, chống oxy hóa và thành phần hóa
học chính trong phần thân rễ và phần trên mặt
đất của C. warszewiczii. Kết quả cho thấy phân
đoạn dịch chiết (DCM, nH, EA) của cả phần thân
rễ và phần trên mặt đất có tác dụng ức chế ngưng
tập tiểu cầu và chống oxy hóa phụ thuộc nồng độ
mẫu thử. Nhiều hợp chất sinh học cũng đã được
phát hiện trong các phân đoạn như flavonoid,
polyphenol, glycosid, glycosid tim, coumarin,
steroid, emodol, tannin và cholesterol [7].
Những nghiên cứu về cơ chế chống NTTC của
phân đoạn dịch chiết C. warszewiczii đang được
tiến hành. Kết quả bước đầu cho thấy các phân
đoạn EA và DCM của phần trên mặt đất của C.
warszewiczii ức chế ngưng tập hoạt hóa bởi ADP
có thể theo nhiều cơ chế khác nhau.
3. Kết luận
Tổng quan này cung cấp thông tin về các
thuốc chống huyết khối đang sử dụng hiện nay.
Các thuốc này được chia thành 3 nhóm chính
tương ứng với giai đoạn của quá trình đông máu
mà nhóm thuốc tác động vào. Bên cạnh đó, bài
viết cũng tóm tắt các nghiên cứu về các loài
thuộc chi Panax L. và Canna liên quan đến tác
dụng chống đông máu và chống ngưng tập tiểu
cầu. Các kết quả cho thấy tiềm năng rất lớn của
dược liệu Việt Nam trong phát triển các thuốc
mới để điều trị và kiểm soát huyết khối.
Lời cảm ơn
Trân trọng cảm ơn sự tài trợ của quỹ
Nafosted đề tài mã số 106.02-2018.334.
L.P. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-8
8
Tài liệu tham khảo
[1] P.T.M. Duc, Physiology, Vietnamese Medical
Publisher, 2006 (in Vietnamese).
[2] S. H. Yun, E.H. Sim, R.Y. Goh, J.I. Park, J.Y. Han,
Platelet Activation: The Mechanisms and Potential
Biomarkers, Biomed Res Int, 2016.
https://doi.org/10.1155/2016/9060143.
[3] E.K. Shin, H. Park, J.Y. Noh, K.M. Lim, J.H.
Chung, Platelet Shape Changes and Cytoskeleton
Dynamics as Novel Therapeutic Targets for Anti-
Thrombotic Drugs, Biomol Ther (Seoul) 25 (2017)
223–230.
https://doi.org/10.4062/biomolther.2016.138.
[4] R. Flaumenhaft, A. Sharda, 19 - Platelet Secretion,
in: A.D. Michelson (Ed.), Platelets (Fourth
Edition), Academic Press, 2019, pp. 349–370.
https://doi.org/10.1016/B978-0-12-813456-
6.00019-9.
[5] S.A. Smith, J.H. Morrissey, 21 - Interactions
Between Platelets and the Coagulation System, in:
A.D. Michelson (Ed.), Platelets (Fourth Edition),
Academic Press, 2019, pp. 393–400.
https://doi.org/10.1016/B978-0-12-813456-6.00021-7.
[6] H.P. Rang, M.M. Dale, J.M. Ritter, R. Flower, G.
Henderson, Rang & Dale’s Pharmacology, 7th
Edition, Churchill Livingstone, 2011.
[7] L. Luyen, V. Thom, L.T. Huong, D.L. Huong, N.V.
Anh, Inhibitory effect on human platelet
aggregation, antioxidant activity, and
phytochemicals of Canna warszewiczii (A. Dietr)
Nb. tanaka, Phcog Res. 12 (2020) 47.
https://doi.org/10.4103/pr.pr_72_19.
[8] B.G. Katzung, A.J. Trevor, Basic & Clinical
Pharmacology, 13th ed., Lange, 2015.
[9] T. Pham, N. Pham, T.V. Ta, K. Pham, T. Vu, L.
Dinh, VKORC1 and CYP2C9*3 Polymorphisms
and Their Impacts to Acenocoumarol Dosage in
Vietnamese Heart Valve Replacement Patients
†1, 2018.
[10] J.D. McFadyen, M. Schaff, K. Peter, Current and
future antiplatelet therapies: emphasis on preserving
haemostasis, Nat Rev Cardiol. 15 (2018) 181–191.
https://doi.org/10.1038/nrcardio.2017.206.
[11] N.A. Trí, Clinical Coagulation, Vietnam Medical
Publisher, 2008 (in Vietnamese).
[12] C. Gachet, Antiplatelet drugs: which targets for
which treatments?, Journal of Thrombosis and
Haemostasis. 13 (2015) S313–S322.
https://doi.org/10.1111/jth.12947.
[13] V.T Thom, V.P. Thao, V.N. Trung, N.T.T. Mau,
The relationship between platelet aggregation and
CYP2C19*2, CYP2C19*3 genotypes with other
factors in patients with unstable angina, VNU
Journal of Science: Medical and Pharmaceutical
Sciences 34 (2018) 74–81.
[14] C. Patrono, J. Morais, C. Baigent, J.-P. Collet, D.
Fitzgerald, S. Halvorsen, B. Rocca, A. Siegbahn,
R.F. Storey, G. Vilahur, Antiplatelet Agents for the
Treatment and Prevention of Coronary
Atherothrombosis, J Am Coll Cardiol 70 (2017)
1760–1776.
https://doi.org/10.1016/j.jacc.2017.08.037.
[15] R. Teng, Ticagrelor: Pharmacokinetic,
Pharmacodynamic and Pharmacogenetic Profile:
An Update, Clin Pharmacokinet 54 (2015) 1125–
1138. https://doi.org/10.1007/s40262-015-0290-2.
[16] R.J. Gryka, L.F. Buckley, S.M. Anderson,
Vorapaxar: The Current Role and Future
Directions of a Novel Protease-Activated Receptor
Antagonist for Risk Reduction in Atherosclerotic
Disease, Drugs R D. 17 (2017) 65–72.
https://doi.org/10.1007/s40268-016-0158-4.
[17] V.D. Loi, T.T. Vung, L.T.T. Huong, Medicial
Plants, VNU publisher, 2016.
[18] N.V. Đạt, T.T.P. Anh, V.T. Chinh, P.K. Long,
H.L.T. Anh, Panax L (Araliaceae) in Vietnam
2017, pp. 106–111 (in Vietnamese).
[19] D.T, Lợi, Vietnamese medicinal plants and
traditional medicine, Vietnam Medical Publisher,
2004 (in Vietnamese).
[20] N.T.T. Trinh., L.T. Tam, V.T. Thom, Đ.Đ Long,
D.T.L. Huong, Influence of various fractions
extracted from Panax bipinnatifidus (Seem.) on the
blood coagulation and platelet aggregation in vitro,
Vietnam Pharmaceutical Journal 58 (2018) 06-11–11.
[21] L.T.T. Hoa, N.T. Giang, D.T.L. Huong, V.T. Thom
Study on the effects of saponin-enriched extracts of
Panax bipinnatifidus Seem. and Panax
stipuleanatus H.Tsai et K.M.Feng on anti-
aggregation activities of platelet in vitro, Journal of
Research in Traditional Medicine and Pharmacy
57(2018) 49-60.
[22] N.Đ. Phuong, N.D. Nhu, N.D. Thuan, New
medicinal plants in Vietnam - Canna warszewiczii
A.Dietr, Vietnam Pharmaceutical Journal 476
(2015) 20–23 (in Vietnamese).
[23] T.V.A. Nguyen, H.D.T. Ly, T.T. Vu, T.T. Nguyen,
H.L. Le, Novel finding on anticoagulant activity of
Canna warszewiczii extracts, Asian Journal of
Pharmacognosy 2(2) (2018) 30-34.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_nghien_cuu_tac_dung_chong_ngung_tap_tieu_cau_cua_mo.pdf