Cơ chế tác động
Khác với hóa trị ngăn chặn sự phát triển của
tế bào ung thư bằng cách tác động không đặc
hiệu chủ yếu vào quá trình phân chia tế bào, các
liệu pháp nhắm trúng đích thường lựa chọn một
số đích đặc hiệu mà hầu hết liên quan đến các
men tyrosine kynase. Các men tyrosine kinase
chuyển phosphat từ ATP tới các gốc tyrosine
trong các polypeptide. Có trên 90 gen mã hóa
tyrosine kynase giúp thực hiện những chức năng
điều hòa quan trọng của tế bào như tăng trưởng,
sống còn, biệt hóa, thực hiện chức năng và di
chuyển. Các tyrosine kynase được họat hóa bởi
các thụ thể bề mặt tế bào. Một trong những
nhóm thụ thể bề mặt tế bào kiểm sóat quá trình
tăng trưởng, chết được lập trình, tân tạo mạch
máu, dính và di chuyển là những thụ thể yếu tố
tăng trưởng biểu mô 1 (EGFR epidermal growth
factor receptor còn được gọi là HER-1) và những
thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô 2 (EGFR-2
còn được gọi là HER-2). Có sự họat hóa bất
thường các tyrosine kynase trong ung thư theo
nhiều cơ chế khác nhau như tự động phosphoryl
hóa do tyrosine kynase bị hòa lẫn vào một
protein đối tác (bạch cầu mãn dòng tủy), mất
điều hòa tyrosin kynase do đột biến thụ thê của
tyrosine kynase (bạch cầu cấp dòng tủy) hoặc
thụ thể EGFR, quá biểu hiện thụ thể HER-2 (ung
thư vú). Chính vì vậy, việc ức chế các thụ thể
này, ngăn chận họat hóa bất thường các tyrosine
kinase ở các tế bào bướu là cơ sở cho liệu pháp
điều trị mới này.
Giới hạn của nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ thể hiện kinh nghiện điều trị
bước đầu với số lượng bệnh nhân còn hạn chế.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu sử dụng điều trị nhắm trúng đích cho ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại khoa phổi bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BƯỚC ĐẦU SỬ DỤNG ĐIỀU TRỊ NHẮM TRÚNG ĐÍCH
CHO UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN TIẾN XA
TẠI KHOA PHỔI BV CHỢ RẪY
Lê Thượng Vũ*
TÓM TẮT
Cơ sở: Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa là một bệnh lý có tiên lượng xấu nhưng từ khi có
hóa trị thời gian sống còn đã được kéo dài đáng kể. Các liệu pháp nhắm trúng đích sử dụng bevacizumab và
erlotinib giúp kéo dài hơn nữa thời gian sống thêm và vì vậy mới đây đươc công nhận trong điều trị các bệnh
nhân giai đọan này.
Mục tiêu: Nghiên cứu tính khả thi, hiệu quả và an tòan của bevacizumab và erlotinib trên các bệnh nhân
ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa
Phương pháp và đối tượng: Tại một khoa Phổi, BV đa khoa tuyến cuối; 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ
giai đoạn tiến xa đã được điều trị bước đầu bằng bevacizumab + carboplatin + paciltaxel; 5 bệnh nhân ung thư
phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa từng hóa trị từ 1 đến 2 dòng được điều trị bước 2 hoặc 3 bằng erlotinib.
Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng tốt hơn hoặc tương đương với y văn ở cả hai nhóm bệnh nhân. 3 trường hợp đáp
ứng khá ngoạn mục được báo cáo. Không tác dụng phụ nghiêm trọng. Tài chính là nhân tố quan trọng trong khởi
đầu và tiếp tục điều trị.
Kết luận: Liệu pháp nhắm trúng đích khả thi, khả hiệu quả và tương đối an toàn. Liệu pháp này có thể mở
ra một viễn cảnh tươi sáng hơn cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đọan tiến xa.
ABSTRACT
PRELIMINARY RESULTS OF TREATING ADVANCED-STAGE NON SMALL CELL
LUNG CANCER BY TARGETED THERAPY
AT THE PULMONARY MEDICINE DEPARTMENT, CHO RAY HOSPITAL
Le Thuong Vu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 98 - 107
Background: Non small cell lung cancer is a poor prognosis disease that survival was increased
significantly by chemotherapy. But this was further increased markedly by targeted therapy which is recently
approved for this type of patients.
Objective: To study the feasibility, the safety and the effect of targeted therapy in Vietnamese advanced-stage
non small cell lung cancer patients.
Material and Method: At a Pulmonary Department of a tertiary multi-specialty hospital, 1 advanced stage
small cell lung cancer patients were treated first line by chemotherapy with bevacizumab+ carboplatin +
paclitaxel; 5 others were treated second line or third line by erlotinib.
Results: Overall response was either better or comparable to literature data in both groups. 3 cases of partial
response were reported. No severe adverse reaction noted. Financial problems was an important factor in the start
and continuation of this kind of treatment.
Conclusion: Targeted therapy is feasible, rather safe and of good efficacy. It might provide a better
perspective for patients with advanced stage non small cell lung cancer.
* Bộ môn Nội ĐHYD, Khoa Hô Hấp BV Chợ Rẫy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là nguyên nhân tử vong do
ung thư hàng đầu ở nam và nữ trên thế giới
gây ra khỏang 1,2 triệu ca tử vong hàng năm(9).
Ở Việt nam, bệnh có suất độ chuẩn theo tuổi
cao nhất tại Hà nội, nhưng lại đứng hàng thứ
hai sau ung thư gan tại TP Hồ Chí Minh(14,23). Tử
vong cao do ung thư phổi một phần do bệnh
nhân thường đến trễ: có đến khỏang 80% bệnh
nhân ung thư phổi được phát hiện bệnh ở giai
đoạn tiến xa (IIIB và IV)(1,13). Trong hai thập kỷ
80-90, hóa trị là phương tiện trị liệu chính duy
nhất giúp xoa dịu cho những bệnh nhân ở giai
đoạn trễ như vậy 24. Hóa trị giúp kéo dài thời
gian sống thêm từ khỏang 6 tháng lên đến 8
tháng và tăng tỷ lệ bệnh nhân sống sau một
năm lên gần gấp 2 lần so không điều trị ở nhóm
bệnh nhân này. Mặc dầu đã có nhiều nỗ lực tìm
kiếm các hóa trị mới nhưng trong hơn 20 năm
qua không có sự cải thiện kết quả điều trị
ngọan mục nào được ghi nhận(12,16). Chỉ mới vài
năm gần đây, các liệu pháp ngắm trúng đích đã
mang lại làn gió mới trong việc trị liệu ung thư
phổi không tế bào nhỏ(16).
Lần đầu tiên sau hơn 20 năm người ta mới
phát hiện được một phương tiện trị liệu làm gia
tăng có ý nghĩa thời gian sống thêm của bệnh
nhân ung thư phổi giai đoạn tiến xa từ 8 tháng
lên đến 10 tháng là bevacizumab(19).
Bevacizumab là kháng thể đơn dòng gắn vào
VEGF (vascular endothelial growth factor: yếu tố
tăng trưởng nội mạc mạch máu) ngăn cản sự
họat hóa các thụ thể tyrosine kinase thông qua
VEGF thiết yếu cho quá trình tân tạo mạch
máu(8). Tuy chỉ có một hoạt tính hạn chế khi sử
dụng đơn trị liệu, nhưng phối hợp với hóa trị
thuốc đem lại hiệu quả lâm sàng quan trọng(2).
Cơ sở của thành tựu này là sự quá thể hiện yếu
tố tăng trưởng nội mạc mách máu (VEGF) và các
thụ thể của nó VEGFR1 và 2 trong ung thư phổi
không tế bào nhỏ. Bên cạnh đó, một đích khác
mà việc ứng dụng đã được chứng minh có hiệu
quả lâm sàng là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu
mô (EGFR: epidermal growth factor receptor)(2).
Trong một số bướu đặc như ở phổi, EGFR cũng
có thể quá thể hiện và/hoặc đột biến(6). Erlotinib,
một tiểu phần tử ức chế thụ thể EGFR gây ức chế
cạnh tranh gắn kết với ATP giúp kéo dài thời
gian sống thêm khỏang 2 tháng ở những bệnh
nhân đã thất bại hóa trị. Chủng tộc Á châu (gồm
cả Việt Nam) lại nhiều khả năng đáp ứng thuốc
hơn so với các chủng tộc khác(7). Bevacizumab
(biệt dược Avastin) và erlotinib (thuốc kháng thụ
thể tăng trưởng biểu mô biệt dược Tarceva) chỉ
vừa mới hiện diện ở Việt Nam.
Tại hội thảo Ung thư châu Á Thái bình
dương 2008 tại Tp Hồ Chí Minh, Vũ Văn Vũ
đã trình bày một trường hợp sử dụng
bevacizumab với kết quả bệnh ổn định. Chưa
có báo cáo viết nào tại Việt Nam về các
phương tiện mới này. Chúng tôi báo cáo kinh
nghiệm bước đầu sử dụng thành công trị liệu
nhắm trúng đích tại khoa Phổi lầu 8B1P Bv
Chợ Rẫy nhằm đánh giá về tính khả thi, tính
an tòan, hiệu quả của phương pháp điều trị
vừa mới được áp dụng tại khoa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Can thiệp, tiền cứu, mở thực hiện trên các
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai
đoạn tiến xa (IIIB và IV) được điều trị bằng
bevacizumab hoặc erlotinib tại khoa Phổi Bv
Chợ rẫy từ 12/2007 đến 9/2008.
Tất cả bệnh nhân trên 18 tuổi và dưới 75 tuổi
tự nguyện tham gia nghiên cứu, được chẩn đoán
xác định với kết quả giải phẫu bệnh ung thư
phổi không tế bào nhỏ; giai đọan IIIB hoặc IV
theo phân loại TNM của WHO 1997 (đánh giá
mức độ lan rộng u bằng X quang ngực, CT scan
ngực, nội soi phế quản, siêu âm bụng, CT scan
sọ và xạ hình xương) không có suy gan, suy thận
nặng, suy hô hấp tiến triển, nhiễm trùng chưa
kiểm sóat, có thai(17).
Riêng với bevacizumab chúng tôi không lựa
chọn các bệnh nhân có GPB là carcinôm tế bào
gai, có ho ra máu (>2,5ml máu), chỉ số họat động
cơ thể WHO từ 2 trở lên, đang dùng kháng đông
hoặc aspirin, mới vừa phẫu thuật, thời gian sống
thêm dự trù < 3 tháng, đã từng hóa xạ trị,
neutrophil < 1500/mm3, Hb < 9 g/dL, tiểu cầu <
100,000/mm3, bilirubin> 2.0 mg/dL, AST hoặc
ALT >5 lần so với giới hạn trên của bình thường
ở người có di căn gan và 2,5 lần so với giới hạn
trên của bình thường ở người không di căn;
creatinine huyết thanh >1.8 mg/dL, vết thương
chưa lành, phẫu thuật lớn trong vòng 4 tuần,
sinh thiết dưới 1 tuần, tiền sử chấn thương, dự
trù sắp phẫu thuật, lóet DDTT, gãy xương, bệnh
tim mạch nặng (tăng huyết áp không kiểm sóat,
nhồi máu cơ tim trong vòng 6 tháng, đau thắt
ngực không ổn định, suy tim NYHA > 2, lọan
nhịp tim nặng) bệnh mạch máu ngọai biên nặng,
di căn não, có kèm ung thư khác.
Phác đồ sử dụng(11): Bệnh nhân được dùng 6
chu kỳ carboplatin/paclitaxel. Paclitaxel (175
mg/m) được truyền trong 3 giờ mỗi 3 tuần.
Carboplatin tính theo AUC5 với công thức của
Calvert. Độ lọc cầu thận (GFR) ước tính bằng
công thức của Crockoft. Giảm liều nếu giảm
neutrophil kèm sốt hoặc neutrophil < 1000/mm3
trong 5 ngày, chảy máu nghiêm trọng > độ 2,
nôn và buồn nôn độ 3 không kiểm sóat được
bằng chống nôn, bằng chứng của độc tính trên
gan (AST> 5 giới hạn trên của bình thường
(GHTBT), hoặc bilirubin> 3 GHTBT), tim mạch
(lọan nhịp có triệu chứng, đau thắt ngực, tụt
huyết áp <90/60mmHg hoặc phải bù dịch), thần
kinh độ 2 trở lên hoặc các độc tính độ 3 hoặc 4
khác. Bevacizumab được truyền đầu tiên là 90
phút, nếu dung nạp tốt những lần sau có thể
truyền 30 đến 60 phút. Bệnh nhân không tiến
triển sẽ được dùng bevacizumab tiếp cho đến
chu kỳ 18.
Hóa trị được thực hiện nội trú, trong một
khu cách ly riêng. Giữa các lần vô thuốc trong
cùng một đợt hóa trị, các bệnh nhân có thể được
điều trị ngoại trú. Trong quá trình điều trị, các
bệnh nhân được khám và đánh giá trước mỗi lần
hoá trị bao gồm: tổng trạng chung, tình trạng
nhiễm trùng, tình trạng các biến chứng nếu có,
công thức máu, chức năng gan thận (tính
clearance creatinine theo Crockoft), X quang
phổi. Hoá trị sẽ được ngưng lại nếu có bằng
chứng bệnh tiến triển rõ ràng. Lượng giá kết quả
điều trị được thực hiện sau mỗi 3 chu kỳ với CT
scan lồng ngực và/hoặc CT sọ, siêu âm bụng.
Các thay đổi sau hoá trị được lượng giá theo
WHO: đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần,
bệnh không đổi/ổn định và tiến triển. Sau mỗi
lần lượng giá, bệnh nhân sẽ được xem xét lại
hiệu quả điều trị và quyết định hoá trị tiếp hay
thay đổi phương thức điều trị phụ thuộc vào
bệnh cảnh cụ thể. Sau mỗi lần hoá trị, bệnh nhân
được theo dõi sát công thức máu N 10 và N 15.
Kết quả được báo cho bác sĩ điều trị và tùy kết
quả mà bệnh nhân được chỉ định theo dõi sát
nhiệt độ tại nhà hay nhập viện trong trường hợp
có tiệt lạp bạch cầu kèm sốt hay giảm tiểu cầu
nghiêm trọng (dưới 20 000/mm3 hay giảm TC có
kèm xuất huyết). Các trường hợp tiệt lạp bạch
cầu được điều trị kháng sinh toàn thân, phối
hợp, phổ rộng, tĩnh mạch liều cao bằng
imipenem/cilastatin (TIENAM) 0,5g 1 lọ x 4 TM;
ciprofloxacine 0,2g 100ml 2 lọ x 3 TTM.
Riêng với erlotinib chúng tôi có thể lựa chọn
các bệnh nhân có chỉ số họat động cơ thể WHO
0-3, đã hóa trị 1-2 dòng và nghỉ hóa trị ít nhất 21
ngày, không có di căn não chưa kiểm sóat,
không có ung thư khác, không bệnh tim mạch
nặng trong vòng 1 năm qua, không lọan nhịp
nặng đang phải dùng thuốc, không bệnh đường
tiêu hóa hoặc mắt nghiêm trọng. Thuốc dùng
đường uống, cách xa bữa ăn, viên
150mg/ngày(21). Các bệnh nhân được theo dõi
ngoai trú. Thuốc được sử dụng đến khi có bằng
chứng bệnh tiến triển trên lâm sàng.
Các bệnh nhân được điều trị nâng đỡ theo
chuẩn thông thường như truyền máu, tiểu cầu,
chống ói. Chúng tôi không sử dụng thuốc GM-
CSF thường quy cho các trường hợp giảm bạch
cầu sau hoá trị không kèm sốt mà thông
thường có khả năng tự hồi phục. Theo dõi và
phân độ nặng các tác dụng phụ theo CTCAE
v3.0 (common terminology criteria for adverse
event V.3.0).
KẾT QUẢ
Bevacizumab phối hợp với carboplatin và
paclitaxel trong hóa trị bước một
Bệnh nhân Nguyễn văn L. Nam 74 tuổi. Đã
ngưng hút thuốc. Karnofsky PS 90. Bệnh cảnh
lâm sàng ho, không kèm ho máu. X quang phổi
U đỉnh phổi trái (T3). Nội soi có khối sùi thùy
trên phế quản T, kết quả sinh thiết phát hiện
carcinôm phế quản tế bào tuyến. CT scan hạch
rốn phổi đối bên (N3). Nốt phổi phải nghĩ do di
căn thùy giữa phổi P và xạ hình xương nghi di
căn xương sườn 1 cung trước P (M1). Không di
căn não. Khởi đầu điều trị tháng 4/2008 đến
9/2008 gồm đủ 6 chu kỳ. Đánh giá sau hóa trị 3
tháng bằng CT scan ngực, bụng và sọ não; xạ
hình xương, nội soi phế quản sinh thiết: đáp ứng
một phần. Đánh giá sau hóa trị 6 tháng bằng CT
scan ngực, bụng và sọ não; xạ hình xương, nội
soi phế quản sinh thiết: đáp ứng một phần (mất
thương tổn xương sườn, kích thước u phổi trên
CT scan giảm > 50% đường kính). Bệnh nhân
đang tiếp tục điều trị theo phác đồ với
bevacizumab mỗi 3 tuần. Tác dụng phụ: chảy
máu mũi (độ 2), giảm bạch cầu (độ 3), buồn nôn
nhẹ (độ 1), tiểu nhiều (độ 1), rụng tóc (độ 1).
Bệnh nhân có sốt 1 lần liên quan nhiễm trùng
tiểu trên trên cơ địa sỏi thận, không kèm giảm
bạch cầu.
Hình 1: Bướu nguyên phát khi chưa điều trị, sau 3
tháng và sau 6 tháng.
Hình 2: Nốt nhỏ di căn thùy giữa P chưa điều trị và
sau 3 tháng.
Erlotinib đơn trị liệu dòng 2 hoặc 3 trong
điều trị bệnh nhân ung thư phổi giai đọan
tiến xa.
Bảng1: Đặc điểm lâm sàng các bệnh nhân sử dụng
erlotinib
Họ và
tên Tuổi Giới
Hút
thuốc T N M GPB KPS
NTH 54 Nữ Không T3 N3 Gan, xương Carcinôm tuyến 50
VVN 53 Nam Từng T2 N2 Phổi đối bên, xương
Carcinôm
tb gai 90
CXC 66 Nam Nhiều T3 N2 Phổi đối bên, xương
Carcinôm
tuyến 80
TTD 52 Nam Từng T4 N2 Xương Carcinôm tb gai 80
PVB 68 Nam Nhiều T2 N2 Phổi đối bên, xương
Carcinôm
tb gai 90
Có 5 bệnh nhân phù hợp chuẩn được chọn
lọc (ít nhất đã 1 lần hóa trị) vào nghiên cứu
(bảng 1 và 2). Các dữ liệu cơ bản được trình bày
trong bảng 1 và các điều trị bệnh nhân đã từng
trải qua trong bảng 2.
Hình 3: Bệnh nhân PVB với đáp ứng một phần
Bệnh nhân NTH khi chẩn đóan ở giai đọan
IIIB, hoá trị 3 chu kỳ carboplatin + vinorelbine
bệnh tiến triển với di căn xương. Bệnh nhân
được điều trị tiếp bằng erlotinib trong 3 tháng,
ghi nhận bệnh tiến triển. Bệnh nhân được ngưng
thuốc điều trị triệu chứng và tử vong sau 5 tháng
theo dõi.
Bệnh nhân VVN đã phẫu thuật, xạ trị kèm
hóa trị hậu phẫu. Bệnh tái phát di căn xương sau
ngưng hóa trị 3 tháng. Điều trị dòng 2 bằng
docetaxel bệnh ổn định nhưng bệnh nhân bị tác
dụng phụ dị ứng thuốc nặng phải ngưng phác
đồ điều trị. Bệnh nhân tiến hành điều trị dòng 3
với erlotinib với tổn thương di căn phổi 2 bên và
di căn xương. Qua 8 tháng điều trị erlotinib,
bệnh giảm ho, mất hòan tòan thương tổn chủ
mô phổi hai bên, tổn thương di căn xương
(unmeasurable lesion) ổn định được phân lọai
bệnh đáp ứng một phần.
Bệnh nhân PVB chẩn đóan ban đầu carcinôm
tế bào gai giai đoạn IV di căn phổi đối bên, hóa
trị 6 chu kỳ bệnh không đổi (no change or stable
disease). Sau 3 tháng, bệnh tiến triển trở lại, bệnh
nhân được điều trị 3 chu kỳ docetaxel dòng 2,
bệnh được lượng giá là tiến triển với di căn não
mới xuất hiện. Xạ trị tòan bộ não giúp kiểm sóat
thương tổn di căn. Bệnh nhân dùng erlotinib
được 4 tháng. Sau 1 tháng mất tòan bộ di căn
phổi, giảm > 50% tích các đường kính của u
nguyên phát. Kết quả đáp ứng một phần được
xác nhận ở tháng thứ 2. Ở tháng thứ 3, xạ hình
xương phát hiện sự rõ hóa các thương tổn di căn
xương.
Bệnh nhân TTD đã phẫu thuật và hóa trị hậu
phẫu 2 lần (cơ sở khác). Bệnh tái phát sau 1 năm
điều trị, bệnh nhân dùng erlotinib được 2 tháng
thì lâm sàng cảm thấy ho máu có tần số nhiều
hơn trước tuy vẫn lượng ít, giảm tốc độ sụt cân,
bớt nhẹ ho và khó thở. Mắc dầu trên hình ảnh
học bệnh không đổi (no change or stable disease)
nhưng do ho máu làm bệnh nhân lo lắng nhiều,
bệnh nhân lại cảm thấy mệt mỏi (fatigue) và tài
chính không cho phép bệnh nhân xin dừng
thuốc, rút lui khỏi nghiên cứu. Các trường hợp
bệnh nghi ngờ tiến triển trên lâm sàng nhưng
hình ảnh học bệnh ổn định thường đòi hỏi kiểm
tra hình ảnh học nhiều lần sau đó để xác nhận sự
tiến triển nếu có trên lâm sàng. Bệnh nhân này
hiện đã được chuyển sang một bước điều trị
khác nên không đánh giá được.
Bệnh nhân CXC ở giai đoạn IV đã hóa trị 6
chu kỳ, bệnh đáp ứng một phần sau 3 chu kỳ
nhưng chỉ đạt ổn định ở cuối đợt điều trị. Bệnh
tiến triển sau 6 tháng, bệnh nhân được sử dụng
erlotinib 2, 5 tháng thì hình ảnh học bệnh không
đổi (no change or stable disease) nhưng do tác
dụng phụ ăn kém, nổi mẫn da và niêm mạc
miệng đau rát làm bệnh nhân lo lắng nhiều và
tài chính không cho phép bệnh nhân xin dừng
thuốc, rút lui khỏi nghiên cứu.
Bảng 2: Điều trị và kết quả điều trị các bệnh nhân sử dụng erlotinib
Họ và
tên
Thờigian từ lúc chẩn đóan
đến khởi đầu erlotinib Hóa trị bước 1 Hóa trị bước 2
Thời gian dùng
Erlotinib Kết quả
NTH 4 tháng Carboplatin + Vinorelbine 3ckỳ 3 tháng Bệnh tiến triển, tử
vong.
VVN 18 tháng Carboplatin + Paclitaxel 5ckỳ Docetaxel 3ckỳ 8 tháng Bệnh đáp ứng
một phần
CXC 12 tháng Carboplatin + Gemcitabin 6 ckỳ 2,5 tháng Bệnh ổn định
TTD 24 tháng Carboplatin + Paclitaxel 4ckỳ Carboplatin + Paclitaxel 4cky 2 tháng Bệnh tiến triển
PVB 12 tháng Carboplatin + Gemcitabin 6ckỳ Docetaxel 3ckỳ 4 tháng Bệnh đáp ứng
một phần
Tóm lại về đáp ứng, có 2 bệnh nhân đáp
ứng khá ngọan mục với việc mất tòan bộ hình
ảnh di căn phổi dạng nốt đầy 2 phổi và VVN
và PVB, đáp ứng chung (ovrall response) được
tính là 2/5 trường hợp. Cả hai trường hợp này
đều là tế bào gai. Về kết quả sống thêm, hiện
tai trung bình thời gian sống thêm là 5,4 tháng.
Chỉ mới 1 bệnh nhân tử vong nên chưa tính
được trung vị.
Về tác dụng phụ của thuốc, nổi ban da gặp
trên tất cả bệnh nhân, chỉ có bệnh nhân CXC là
nổi ban da (rash, acne) độ 2, còn tất cả bệnh
nhân khác độ 1. Bệnh nhân CXC mô tả viêm
niêm mạc miệng (mucositis/stomatitis) độ I
(khám lâm sàng) với hồng ban miệng nhưng về
chức năng độ 2 do có ảnh hưởng ăn uống. Bệnh
nhân này có thể được giảm liều và tiếp tục điều
trị nhưng như trên đã trình bày do vấn đề tài
chính bệnh nhân quyết định ngưng trị.
Có 2 bệnh nhân mô tả phì đại/sừng hóa tại
khóe móng, mạn tính, không gây tác động
nghiêm trọng đến sức khỏe, không biến chứng
nhiễm trùng nhưng là một vấn đề phiền toái
nếu bệnh nhân cào gỡ, có thể gây loét rỉ dịch
(phân lọai dermatology/other) độ 1 (nhẹ). Săn
sóc tại chỗ lóet này bằng thuốc sát khuẩn tại
chỗ kiểm sóat tốt vấn đề. Không bệnh nhân
nào có phản ứng tăng men gan được kể là
viêm gan quan trọng. Bệnh nhân VVN có tăng
AST, ALT đáng kể (độ 2) nhưng không kèm
tăng các men khác như GGT, phosphates kiềm,
bilirubine; qua quá trình theo dõi do bệnh
nhân đáp ứng ngọan mục nên có sự gia tăng
phóng thích men do hủy mô bướu. Tiêu chảy
gặp trên 1 bệnh nhâc mức độ nhẹ, độ I (PVB)
đáp ứng với loperamide. Có 2 bệnh nhân mô
tả mệt mỏi (fatigue) một độ 1 (CXC) và một độ
2 (TTD). Một bệnh nhân mô tả chán ăn
(anorexia) độ 2 (CXC).
BÀN LUẬN
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân Nguyễn văn L. là một bệnh nhân
thích ứng hầu hết những tiêu chí lựa chọn khắc
khe để dùng bevacizumab. Mặc dầu là một
phương tiện trị liệu thật sự có hiệu quả, nhưng
thuốc cũng có không ít tác dụng phụ gây tử
vong khiến phải chọn lựa bệnh nhân kỹ càng
mới đảm bảo bảo tồn được hiệu quả điều trị.
Bệnh nhân chúng tôi có tuổi 74, là một chống chỉ
định tương đối. Trong những phân tích dưới
nhóm lớn tuổi, thậm chí người ta còn thấy rằng
bevacizumab không mang lại nhiều lợi ích cho
nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Tuy vậy bệnh nhân
chúng tôi cho tới nay, đáp ứng tốt, tác dụng phụ
chấp nhận được, một phần do thể trạng tốt, KPS
cao tương tự những người dưới 70 tuổi.
Tất thảy bệnh nhân sử dụng erlotinib trong
nghiên cứu này là người Việt, chủng tộc Á châu.
Vì vậy ít nhất các bệnh nhân có 1 yếu tố tiên
lượng tốt khi sử dụng erlotinib (1 yếu tố tiên
lượng trên 3 bn, 2 trên 1 bệnh nhân và 3 trên 1
bn). Những yếu tố tiên lượng đáp ứng tốt khác
được nhắc đến trong y văn là nữ, hòan tòan
không hút thuốc lá, carcinôm tuyến. Chúng tôi
không có điều kiện xác định tình trạng thụ thể
EGFR trên các bệnh nhân nghiên cứu. Tuổi
trung bình của 5 bệnh nhân 54,8; nam 80%. Thời
gian từ lúc chẩn đóan đến khởi đầu điều trị
erlotinib là 14 tháng. 100% bệnh nhân từng sử
dụng nhóm platin. 40% từng phẫu thuật, 40%
từng xạ trị, 60% đã hóa trị 2 bước.
Tính khả thi
Cũng như một nghiên cứu báo cáo tình hình
điều trị ung thư phổi của chúng tôi cách đây vài
năm, tỷ lệ bệnh nhân được điều trị hóa trị trên
tổng số bệnh nhân có giải phẫu bệnh ung thư có
tăng chiếm khỏang 50% (so với trước đó là 38%).
Các bệnh nhân không điều trị hóa trị là vì bệnh
quá tiến triển, không có bảo hiểm y tế hoặc lý do
tài chính khác, không tin tưởng hóa trị, sợ tác
dụng phụ hóa trị, muốn điều trị thuốc Nam, chỉ
mong muốn điều trị nâng đỡ
Trong cùng khỏang thời gian nghiên cứu 9
tháng, chúng tôi có 20 bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ giai đọan tiến xa tiến hành
điều trị bước 1. Số lượng bệnh nhân chống chỉ
định sử dụng bevacizumab vì bệnh thuyên tắc
huyết khối là 2, nhồi máu cơ tim phải dùng
clopidrogel và aspirin liên tục là 1, di căn não là
2, ho ra máu là 1, giải phẫu bệnh tế bào gai là 2.
Phần lớn (12/20) các bệnh nhân không tham gia
điều trị bước 1 với bevacizumab là vì lý do tài
chính hơn là lý do y tế. Mới đây chúng tôi có
một bệnh nhân nữ tham gia điều trị
bevacizumab với phác đồ bevacizumab
7,5mg/kg + cisplatine + gemcitabin mới được 2
chu kỳ. Chúng tôi xin phép được cập nhập kết
quả trong các báo cáo sắp tới. Ở các nghiên cứu
ngòai nước chỉ khoảng 20% bệnh nhân ung thư
phổi không tế bào nhỏ có thể điều trị bằng
bevacizumab.
Gánh nặng tài chính cũng là nguyên nhân
góp phần dẫn đến ngưng trị erlotinib ở 2 bệnh
nhân trong nghiên cứu. Do thuốc có thể chỉ định
cả ở những bệnh nhân có PS của WHO từ 0 đến
3, các bệnh nhân bệnh tiến triển sau hóa trị
không tham gia điều trị erlotinib (7/12) đều vì lý
do tài chính. Một số lựa chọn docetaxel bước 2
(2/12 bn), một số chỉ điều trị nâng đỡ.
Có thể nói mặc dầu giúp kéo dài thời gian
sống thêm, các thuốc liệu pháp nhắm trúng đích
quá đắt không thể chi trả bởi đa số bệnh nhân và
vì vậy ít khả thi.
Tính hiệu quả
Về đáp ứng khách quan, bệnh nhân Nguyễn
văn L có đáp ứng một phần. Kết quả này hết
sức khích lệ ở bệnh nhân đầu tiên của chúng
tôi. Tỷ lệ đáp ứng chung (overall survival) trên
các bệnh nhân điều trị bevacizumab +
carboplatin + paclitaxel là 35%. Đáp ứng chủ
quan rất tốt với bệnh nhân Nguyển văn L. với
không còn ho, đau ngực hoặc khó thở. Trong
ECOG 4599, thời gian sống thêm trung vị của
nhóm sử dụng bevacixumab + carboplatin +
paclitaxel là 12,3 tháng so với nhóm
carboplatin + paclitaxel là 10,3 tháng. Chúng
tôi sẽ cố gắng báo cáo kết quả này trong những
nghiên cứu sắp tới. Các kết quả này tuy tốt
nhưng còn sơ khởi và rất khó so sánh với những
nghiên cứu trong và ngòai nước trước đây. Hiện
nhìn chung có rất ít bệnh nhân được sử dụng
bevacizumab tại Tp HCM (1 ở Phạm Ngọc
Thạch, 2 ở Chợ rẫy và ít nhất 1 tại Ung Bướu).
Về đáp ứng khách quan, tỷ lệ đáp ứng chung
trên nhóm erlotinib chúng tôi là 40%. Tỷ lệ đáp
ứng trên các nghiên cứu cỡ mẫu lớn khác là 9-
12%. Chưa có nghiên cứu nào thực hiện chỉ trên
nhóm bệnh nhân châu Á. Tỷ lệ đáp ứng ở dưới
nhóm châu Á được báo cáo là 18,9-27%. Như
vậy tỷ lệ đáp ứng chúng tôi hơi tốt hơn các tác
giả khác có lẽ do tuổi thấp hơn, thời gian từ chẩn
đóan đến lúc điều trị erlotinib sớm hơn. Đáp ứng
chủ quan rất tốt ở nhóm erlotinib (2/5 bn) với sự
giảm ho (1/5), giảm khó thở (1/5), giảm đau (1/5).
Các bệnh nhân khác mô tả sự ổn định triệu
chứng và trên 1/5 bệnh nhân (NTH) tiến triển
xấu của triệu chứng chủ quan. Thời gian sống
thêm trung vị ở nhóm có điều trị erlotinib là 6,7
tháng so với 4,7 tháng ở nhóm không điều trị
(BR21). Chúng tôi chưa có kết quả trung vị thời
gian sống thêm ở nhóm erlotinib. Cho tới này,
thời gian sống thêm trung bình là 5,4 tháng, với
1 bệnh nhân tử vong. Một điểm khá thú vị là hai
bệnh nhân đáp ứng một phần của chúng tôi đều
là tế bào gai và đã hóa trị với docetaxel. Một
bệnh nhân có bệnh tiến triển với docetaxel, một
bệnh nhân bệnh ổn định với docetaxel sau đó
tiến triển lại.
Docetaxel từng được coi là điều trị bước 2
chuẩn, duy nhất cho các bệnh nhân hóa trị bước
1 thất bại đặc biệt khi đã dùng các dẫn chất
platin(4). Docetaxel là thuốc đầu tiên so sánh với
điều trị nâng đỡ tối ưu kéo dài được thời gian
sống thêm (từ 4,6 thành 7 tháng), nhưng lại
không chứng minh đươc hiệu quả này khi so với
vinorelbine hoặc ifosfamide(20). Pemetrexed là
thuốc thứ hai chính thức chứng minh được hiệu
quả kéo dài sống thêm khi điều trị bước 2 và có
tính an tòan tốt hơn docetaxel nhưng chưa có ở
Việt Nam(12). Gefitinib trước đây từng được coi là
một chọn lựa, nhưng cuối cùng đã bị loại khỏi
danh sách những thuốc được chấp thuận điều trị
bước 2. Erlotinib hiện là thuốc mới nhất mang lại
hiệu quả sống thêm trên nhóm bệnh nhân này.
Đối với các nghiên cứu đa chủng tộc, hiệu quả
đặc biệt của erlotinib trên các bệnh nhân chưa
từng hút thuốc, chủng tộc Á châu, nữ, carcinôm
tuyến là cơ sở giúp lựa chọn bệnh nhân sử dụng
erlotinib(15). Khi áp dụng trên các bệnh nhân Việt
Nam, đa số chỉ có 1 yếu tố tiên lượng tốt là
chủng tộc châu Á, chúng tôi vẫn có những kết
quả ngọan mục. Điều này khuyến khích việc mở
rộng nghiên cứu này trên những bệnh nhân Việt
nam nói riêng và châu Á nói chung(22). Những
kết quả khả quan khi sử dụng bevacizumab phối
hợp với 1 trong 3 tác nhân được chấp thuận kể
trên đem lại nhiều hy vọng cho bệnh nhân ung
thư phổi không tế bào nhỏ giai đọan lan tràn.
Tính an tòan
Đa số các tác dụng phụ đều dung nạp
được. Chỉ một bệnh nhân phải ngưng trị do
tác dụng phụ của thuốc. Tuy nhiên như trên
đã trình bày, không có tác dụng phụ mức 3-4
nào được ghi nhận. Tác dụng phụ cộng thêm
yếu tố tài chính mới là nguyên nhân ngưng
thuốc của bệnh nhân này.
Bệnh nhân điều trị bevacizumab của chúng
tôi như trên đã mô tả thể hiện biến chứng xuất
huyết (ở đường hô hấp trên) kinh điển của
nhómthuốc tác động trên thụ thể VEGF. Xuất
huyết tiêu hóa, ho máu là chống chỉ định tuyệt
đối cho việc tiếp tục thuốc. Bệnh nhân đang
được điều trị bằng thuốc huyết áp và không có
tác dụng phụ tăng huyết áp thêm được ghi
nhận. Các tác dụng phụ khác đều chấp nhận
được. Tỷ lệ các biến chứng độ 3-4 hoặc hơn được
mô tả trong y văn là giảm bạch cầu trung tính
25%, giảm bạch cầu kèm sốt 5,2%, xuất huyết
não 0,7%, chảy máu mũi 0,7%, ho máu 1,9%, ói
máu 0,5%, tiêu phân đen 0,9%, giảm tiểu cầu
1,6%, tăng huyết áp 5,6%, đạm niệu 4,2%, mệt
mỏi 5,1%, khó thở 5,6%. Tử vong do giảm bạch
cầu kèm sốt 1,2%, do ho máu 1,2% và ói máu
0,5%. Mặc dầu các biến chứng trong nhóm
nghiên cứu ECOG 4599 thường gặp nhất trong 3
chu kỳ đầu nhưng ở bệnh nhân chúng tôi, xuất
huyết mũi xảy ra sau chu kỳ thứ 6(18).
So với y văn, tác dụng phụ trên nhóm bệnh
nhân sử dụng erlotinib chúng tôi là tương tự.
Nổi ban da 76%, chán ăn 69%, buồn nôn 40%, ói
25%, viêm miệng 19%, tiêu chảy 55%, mất nước
7%, mắt 28%, mệt mỏi 79%, nhiễm trùng 3%, xơ
phổi 3%, viêm phổi 3%. Do số lượng bệnh nhân
và thời gian theo dõi còn ít không có bệnh nhân
nào có viêm phổi (pneumonitis) hoặc độc tính
phổi được báo cáo như các nghiên cứu ngòai
nước. Các tác dụng trên phổi này thường được
phát hiện trên các bệnh nhân Nhật. Tác dụng
phụ của erlotinib vì vậy là khác biệt với các hóa
trị khác chỉ định điều trị ở dòng 2, đặc biệt
không ảnh hưởng huyết học ví dụ giảm bạch
cầu. Đây là một trong những cơ sở lựa chọn
erlotinib để điều trị dòng 2.
Cơ chế tác động
Khác với hóa trị ngăn chặn sự phát triển của
tế bào ung thư bằng cách tác động không đặc
hiệu chủ yếu vào quá trình phân chia tế bào, các
liệu pháp nhắm trúng đích thường lựa chọn một
số đích đặc hiệu mà hầu hết liên quan đến các
men tyrosine kynase. Các men tyrosine kinase
chuyển phosphat từ ATP tới các gốc tyrosine
trong các polypeptide. Có trên 90 gen mã hóa
tyrosine kynase giúp thực hiện những chức năng
điều hòa quan trọng của tế bào như tăng trưởng,
sống còn, biệt hóa, thực hiện chức năng và di
chuyển. Các tyrosine kynase được họat hóa bởi
các thụ thể bề mặt tế bào. Một trong những
nhóm thụ thể bề mặt tế bào kiểm sóat quá trình
tăng trưởng, chết được lập trình, tân tạo mạch
máu, dính và di chuyển là những thụ thể yếu tố
tăng trưởng biểu mô 1 (EGFR epidermal growth
factor receptor còn được gọi là HER-1) và những
thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô 2 (EGFR-2
còn được gọi là HER-2). Có sự họat hóa bất
thường các tyrosine kynase trong ung thư theo
nhiều cơ chế khác nhau như tự động phosphoryl
hóa do tyrosine kynase bị hòa lẫn vào một
protein đối tác (bạch cầu mãn dòng tủy), mất
điều hòa tyrosin kynase do đột biến thụ thê của
tyrosine kynase (bạch cầu cấp dòng tủy) hoặc
thụ thể EGFR, quá biểu hiện thụ thể HER-2 (ung
thư vú). Chính vì vậy, việc ức chế các thụ thể
này, ngăn chận họat hóa bất thường các tyrosine
kinase ở các tế bào bướu là cơ sở cho liệu pháp
điều trị mới này.
Giới hạn của nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ thể hiện kinh nghiện điều trị
bước đầu với số lượng bệnh nhân còn hạn chế.
KẾT LUẬN
Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn
tiến xa là một bệnh lý có tiên lượng xấu nhưng
từ khi có hóa trị thời gian sống còn đã được kéo
dài đáng kể. Việc ứng dụng liệu pháp nhắm
trúng đích đã mang lại những thay đổi lớn trong
điều trị: kéo dài hơn nữa thờigian sống thêm với
mức tác dụng phụ chấp nhận được. Kết quả này
chỉ đạt được với việc chọn lựa bệnh nhân thật kỹ
càng vì thuốc cũng có thể gây những tác dụng
phụ nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong ví dụ
như khi sử dụng bevacizumab. Tác dụng phụ ít
và kiểu tác dụng phụ khác biệt với các hóa trị
giúp erlotinib có thể mở rộng chỉ định điều trị
cho ngay cả những bệnh nhân có chỉ số họat
động thấp (WHO 0-3). Vấn đề tài chính vẫn là
rào cản rất lớn cho quá trình điều trị bất kể đã có
hỗ trợ từ phía bảo hiểm y tế. Chính vì vậy, có thể
nói liệu pháp nhắm trúng đích đã mở ra một
viễn cảnh tươi sáng hơn cho bệnh nhân ung thư
phổi không tế bào nhỏ giai đọan tiến xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Âu Nguyệt Diệu, Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Sào Trung,
Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Quốc Dũng,
Hòang thị Thanh Phương, Lê Văn Xuận. Đặc điểm giãi phẫu
bệnh – lâm sàng của ung thư phổi nguyên phát. Y học TP Hồ
Chí Minh, phụ bản cuyên đề ung bướu học, tập 2 số 3. 1999.
2. Cohen MH., Gootenberg J, Keegan P and Pazdur R. FDA
Drug Approval Summary: Bevacizumab (Avastin®) Plus
Carboplatin and Paclitaxel as First-Line Treatment of
Advanced/Metastatic Recurrent Nonsquamous Non-Small
Cell Lung Cancer Oncologist 2007;12;713-718
3. de Filippo M, Grossi F. Clinical Evidence for Second- and
Third-Line Treatment Options in Advanced Non-Small
Cell Lung Cancer. The Oncologist 2008;13(suppl 1):14–20
4. Fortunato C, and Tortora G, EGFR Antagonists in Cancer
Treatment. N Engl J Med 2008;358:1160-74
5. Fossella FV., DeVore R, Kerr RN., Crawford J, Natale RR.,
Dunphy F, Kalman L, Miller V, Lee JS, Moore M, Gandara D,
Karp D, Vokes E, Kris M, Kim Y, Gamza F, Hammershaimb
L, and the TAX 320 Non–Small-Cell Lung Cancer Study
Group. Randomized Phase III Trial of Docetaxel Versus
Vinorelbine or Ifosfamide in Patients With Advanced Non–
Small-Cell Lung Cancer Previously Treated With Platinum-
Containing Chemotherapy Regimens. J Clin Oncol 18:2354-
2362
6. Gatzemeier U, Pluzanska A, Szczesna A, Kaukel E, Roubec J,
De Rosa F, Milanowski A, Karnicka-Mlodkowski H, Pesek M,
Serwatowski P, Ramlau R, Janaskova T, Vansteenkiste J,
Strausz J, Manikhas GM, and Von Pawel J. Phase III Study of
Erlotinib in Combination With Cisplatin and Gemcitabine in
Advanced Non–Small-Cell Lung Cancer: The Tarceva Lung
Cancer Investigation Trial. J Clin Oncol 25:1545-1552
7. Giuseppe G, MG Ruiz, Le Chevalier T, Thatcher N, Smit E,
Rodriguez JA, PasiJanne, D Oulid-Aissa, Soria JC. Erlotinib for
Frontline Treatment of Advanced Non Small Cell Lung
Cancer: a Phase II Study. Clin Cancer Res 2006; 12(20) 6049
8. Giuseppe G. The Potential of AntiangiogenicTherapy in Non
Small Cell Lung Cancer. Clin Cancer Res2007;13(7) 1961
9. Gridelli C, Bareschino MA, Schettino C, Rossi A, Maione P,
Ciardiello F. Erlotinib in Non-Small Cell Lung Cancer
Treatment: Current Status and Future Development.The
Oncologist 2007;12:840–849.
10. Housset B. Cancer pulmonaire. In Abre’ge’ de Pneumologie,
Housset B (ed) , Paris, Masson 1999.
11. Johnson DH., Fehrenbacher L, Novotny WF., Herbst RS.,
Nemunaitis JJ., Jablons DM., Langer CJ., DeVore RF. III,
Gaudreault J, Damico LA., Holmgren E, and Kabbinavar F.
Randomized Phase II Trial Comparing Bevacizumab Plus
Carboplatin and Paclitaxel With Carboplatin and Paclitaxel
Alone in Previously Untreated Locally Advanced or
Metastatic Non–Small-Cell Lung Cancer. J Clin Oncol 2004
22:2184-2191
12. Lê Thượng Vũ, Nguyễn Xuân Bích Huyên, Trần văn Ngọc,
Nguyễn thị Tân Xuân, Đặng Vũ Thông, Đặng thị Kiều Trinh.
Kết quả điều trị ung thư phổi bằng hóa chất tại khoa Phổi lầu
8B1P Bv Chợ Rẫy trong hai năm rưỡi (6/2002-11/2004). Y học
Tp hồ chí minh 2006 tập 10 Phụ bản của số 1 trang 55
13. Milleron B. Cancer bronchique. Paris, Laboratoires Sandoz,
1995.
14. Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Mạnh Quốc, Phó Đức Mẫn,
Nguyễn Quốc Trực. Kết quả ghi nhận ung thư quần thể tại TP
Hồ Chí Minh năm 1997. Y học TP Hồ Chí Minh. Phụ bản
chuyên đề ung bườu học tập 2 số 3 1998.
15. Prez-Soler R, Chachoua A, Hammond LA., Rowinsky EK.,
Huberman M, Karp D, Rigas J, Clark GM., Santabarbara P,
and Bonomi P. Determinants of Tumor Response and
Survival With Erlotinib in Patients With Non–Small-Cell
Lung Cancer. J Clin Oncol 22:3238-3247
16. Pfister DG., Johnson DH., Azzoli CG., Sause W, Smith TJ.,
Baker S Jr, Olak J, Stover D, Strawn JR., Turrisi AT., and
Somerfield MR.. American Society of Clinical Oncology
Treatment of Unresectable Non–Small-Cell Lung Cancer
Guideline: Update 2003. J Clin Oncol 22:330-353
17. Rubins J, Unger M and Colice GL. Follow-up and Surveillance
of the Lung Cancer Patient Following Curative Intent
Therapy: ACCP Evidence-Based Clinical Practice Guideline
(2nd Edition) Chest 2007;132;355-367
18. Sandler A, Gray R, Perry MC., Brahmer J, Schiller JH., Dowlati
A, Lilenbaum R, and Johnson DH., Paclitaxel–Carboplatin
Alone or with Bevacizumab for Non–Small-Cell Lung Cancer.
N Engl J Med 2006;355:2542-50
19. Sandler A. Bevacizumab in Non Small Cell Lung Cancer. Clin
Cancer Res 2007;13(15 Suppl) 4613s
20. Shepherd FA, Dancey J, Ramlau R, Mattson K, Gralla R,
O’Rourke M, Levitan N, Gressot L, Vincent M, Burkes R,
Coughlin S, Kim Y, and Berille J. Prospective Randomized
Trial of Docetaxel Versus Best Supportive Care in Patients
With Non–Small-Cell Lung Cancer Previously Treated With
Platinum-Based Chemotherapy. J Clin Oncol 18:2095-2103
21. Shepherd FA., Pereira JR, Ciuleanu T, Tan EH, Hirsh V,
Thongprasert S, Campos D, Maoleekoonpiroj S, Smylie M,
Martins R, van Kooten M, Dediu M, Findlay B, Dongsheng
Tu, Johnston D, Bezjak A, Clark G, Santabrbara P, and
Seymour L, for the National Cancer Institute of Canada
Clinical Trials Group: Erlotinib in Previously Treated Non–
Small-Cell Lung Cancer. N Engl J Med 2005;353:123-32
22. Stinchcombe TE., Socinski MA.. Considerations for Second-
Line Therapy of Non-Small Cell Lung Cancer. The Oncologist
2008;13(suppl 1):28–36
23. Võ Tuấn. Ung thư phổi nguyên phát: dịch tế học, chẩn đoán
và điều trị. Y học TP HCM 2000 Tập 4 phụ bản của số 4
trang 261
24. Vũ văn Vũ, Đặng Thanh Hồng, Nguyễn Minh Khang, Trần
thị Ngọc Mai, Trần Quang Thuận, Nguyễn Mạnh Quốc,
Nguyễn Tuần Khôi, Lê thị Nhiều, Võ thị Ngọc Diệp. Hoá trị
ung thư phổi nguyên phát tại Trung tâm Ung bướu TP Hồ
Chí Minh. Y học TP HCM 2001 Tập 5 phụ bản của số 4 trang
249.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buoc_dau_su_dung_dieu_tri_nham_trung_dich_cho_ung_thu_phoi_k.pdf