Ung thư hạch bạch huyết là một trong
những bướu trung thất phổ biến nhất,
thường gặp ở trung thất giữa và/hoặc trung
thất trước. Trong trung thất sau, bướu nguồn
gốc thần kinh và bướu quái trung thất chiếm tỷ
lệ lớn nhất. Ung thư hạch bạch huyết nguyên
phát ở trung thất sau cực kỳ hiếm gặp(6). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, có 3 trường hợp ung
thư hạch bạch huyết nguyên phát ở trung thất
sau. Tất cả đều là bệnh nhân nam. Một bệnh
nhân bị ung thư hạch bạch huyết nguyên phát
loại tế bào T lớn, 27 tuổi, nhập viện vì triệu
chứng sốt và đau ngực, đường kính bướu 7 cm,
bờ ngoài bướu không đều lởm chởm hình tia,
mật độ bướu đồng nhất, không có vôi hóa, mẫu
mô sinh thiết qua soi phế quản nghi ung thư
hạch bạch huyết. Một bệnh nhân bị ung thư
hạch bạch huyết nguyên phát loại tế bào T ngoại
biên, 67 tuổi, nhập viện vì triệu chứng ho và đau
ngực, đường kính bướu 6 cm, bờ ngoài bướu
không đều lởm chởm hình tia, mật độ bướu
đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi phế
quản bình thường. Một bệnh nhân bị ung thư
hạch bạch huyết nguyên phát loại tế bào B, 50
tuổi, nhập viện vì triệu chứng ho ra máu, đường
kính bướu 4 cm, bờ ngoài bướu đa cung, mật độ
bướu đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi
phế quản bình thường.
Bướu biểu mô tuyến ức là một nhóm bệnh
hiếm gặp bao gồm bướu tuyến ức và ung thư
biểu mô tuyến ức(7). Phần lớn bướu tuyến ức
được tìm thấy trong trung thất trước. Chỉ có vài
bướu tuyến ức phát sinh từ ngoài trung thất trước
được mô tả trong y văn thế giới. Người ta đã mô
tả một vài trường hợp bướu tuyến ức có vị trí
nguyên phát ở vùng cổ, rốn phổi, trung thất sau,
trung thất giữa. Bướu tuyến ức dường như có
tiềm năng ác tính, và tổng tỷ lệ tổng thể của
bướu tuyến ức tái phát khoảng 20% (1). Ung thư
biểu mô tuyến ức cực kỳ hiếm gặp, chỉ chiếm
khoảng 15% - 20% bướu biểu mô tuyến ức (7). Ung
thư biểu mô tuyến ức cực kỳ hiếm gặp ở trung
thất sau (3). Trong nghiên cứu của chúng tôi có
hai bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến ức nguyên
phát ở trung thất sau. Tất cả đều là bệnh nhân
nam. Một bệnh nhân 54 tuổi, nhập viện vì triệu
chứng ho và đau ngực, đường kính bướu 10 cm,
bờ ngoài bướu đa cung, bướu có vôi hóa, hình
ảnh soi phế quản bình thường. Một bệnh nhân
50 tuổi, nhập viện vì đau ngực, đường kính
bướu 5 cm, bờ ngoài bướu đa cung, mật độ bướu
đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi phế
quản bình thường.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 38 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bướu trung thất sau: Nghiên cứu loạt ca lâm sàng 56 bệnh nhân tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 319
BƯỚU TRUNG THẤT SAU: NGHIÊN CỨU LOẠT CA LÂM SÀNG
56 BỆNH NHÂN TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
Nguyễn Thị Bích Yến*, Lê Tự Phương Thảo**, Nguyễn Huy Dũng*, Nguyễn Sơn Lam*,
Nguyễn Hữu Lân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trung thất sau là khoang ảo nằm dọc 2 bên cột sống và phần gần của các xương sườn liền kề.
Các số liệu về nhân khẩu học, đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học X quang, loại mô bệnh học của bệnh nhân bướu
trung thất sau vẫn chưa được mô tả đầy đủ ở Việt Nam.
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là mô tả các đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm lâm sàng, hình ảnh
học X quang, loại mô bệnh học của bệnh nhân bướu trung thất sau.
Chất liệu & phương pháp: Từ năm 2005 đến 2014 có 56 bệnh nhân bướu trung thất sau được thu dung
vào nghiên cứu. Chụp cắt lớp điện toán lồng ngực và phẫu thuật trung thất được thực hiện cho tất cả bệnh nhân.
Các số liệu về nhân khẩu học, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng đã được phân tích.
Kết quả: Có 27 nữ (48,2%) và 29 nam (51,8%), tuổi trung bình là 42 ± 14 tuổi (từ 17 đến 68 tuổi). Bướu
nguồn gốc thần kinh chiếm 82,1%, bướu lành là 82,1%. 92,9% bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Đau ngực
(73,2%) và ho (58,9%) là những triệu chứng thường gặp nhất, các triệu chứng khác là sốt (5,4%), khó thở
(3,6%), ho ra máu (3,6%), sụt cân (3,6%) và khàn tiếng (1,8%).
Kết luận: Bướu nguồn gốc thần kinh thường gặp nhất, chiếm 82,1% các trường hợp bướu trung thất sau.
Bướu nguồn gốc lành tính trong 89,1% các trường hợp. Có 17,9% bướu trung thất sau là nhóm không thuần
nhất gồm những bướu hiếm gặp như nang trung thất, ung thư hạch bạch huyết, ung thư biểu mô tuyến ức, nang
tuyến ức, u quái chưa trưởng thành.
Từ khóa: Bướu trung thất sau, bướu trung thất, bướu thần kinh.
ABSTRACT
POSTERIOR MEDIASTINAL TUMORS: A CASE SERIES OF 56 PATIENTS
AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL.
Nguyen Thi Bich Yen, Le Tu Phuong Thao, Nguyen Huy Dung, Nguyen Son Lam, Nguyen Huu Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 319 - 324
Background: The posterior mediastinum is the potential space along each side of the vertebral column and
adjacent proximal portion of the ribs. The demographic data, clinical characteristics, radiological findings,
histopathologic types of posterior mediastinal tumors patients has not been well described in Vietnam.
Objective: The aim of this study was to describe the demographic data of the patients, clinical characteristics,
radiological findings, histopathologic types of posterior mediastinum patients.
Materials and Methods: Between 2005 and 2014, 56 pateints with posterior mediastinal tumors were
included. CT scan of the chest and mediastinal surgery were done for all patients. Demographic data, clinical
and laboratory characteristics were analyzed.
Results: There were 27 females (48.2%) and 29 males (51.8%), with a mean age ± standard deviation of 42 ±
14 years (range: 17 - 68). Neurogenic tumors constituted 82.1% of cases, being benign tumor in 82.1%. Patients
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Quận 6, TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ts. Bs. Nguyễn Hữu Lân ĐT: 0913185885 Email: nguyenhuulan1965@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Phẫu Thuật Lồng Ngực 320
usually were symptomatic (92.9%). Chest pain and cough was most common symptom (73.2% and 58.9%,
respectively), others were fever (5.4%), dyspnea (3.6%), hemoptysis (3.6%), lose weight (3.6%) and hoarseness
(1.8%).
Conclusions: Neurogenic tumors are the commonest posterior mediastinal tumors accounting for 82.1% of
posterior mediastinal tumors. Neurogenic tumors are benign in 89.1% of patients. The remaining 17.9% of
posterior mediastinal tumors are a heterogenous group of rare tumors including mediastinal cysts, lymphoma,
thymic carcinoma, thymic cyst, immature teratoma.
Key words: mediastinal lesions, posterior mediastinal lesions, neurogenic tumors.
ĐẶT VẤN DỀ
Trung thất là một khu vực giải phẫu nằm ở
trung tâm của lồng ngực, được chia thành trung
thất trước, trung thất giữa, trung thất sau. Trung
thất sau nằm sau tim và màng ngoài tim, là một
ống dài và hẹp, nằm dọc theo mỗi bên của cột
sống và phần gần kề của các xương sườn, chứa
nhiều thành phần quan trọng nối liền 3 phần cổ,
ngực và bụng như thực quản, động mạch chủ
ngực, hệ thống tĩnh mạch đơn (tĩnh mạch đơn,
tĩnh mạch bán đơn, tĩnh mạch bán đơn phụ, thân
tĩnh mạch gian sườn phải trên), ống ngực, các
dây thần kinh lang thang, các thân giao cảm
ngực, hệ thống bạch huyết gồm cách hạch trung
thất sau. Theo quy ước, không gian cạnh cột
sống bao gồm trong trung thất sau. Bướu trung
thất sau có thể phát sinh từ các bệnh lý của
những cấu trúc này(5,2). Các nghiên cứu hiện nay
trên thế giới báo cáo tỷ lệ mắc bướu trung thất
sau so với tất cả các bướu trung thất thay đổi từ
23% đến 30%, tỷ lệ bướu nguồn gốc thần kinh
của trung thất sau thay đổi từ 19% đến 39% của
tất cả bướu trung thất. Bướu trung thất sau lành
tính thay đổi từ 70% đến 80% bệnh nhân(5). Hiện
có ít nghiên cứu về tỷ lệ mô bệnh học, nhân khẩu
học, đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học các bướu
trung thất sau ở người Việt Nam.
BỆNH NHÂN - PHƯƠNG PHÁP:
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả loạt
lâm sàng các trường hợp bệnh nhân nhập viện
tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2005 đến
2014, có chẩn đoán xác định mô học bướu trung
thất sau dựa vào kết quả giải phẫu bệnh mô tổn
thương sinh thiết qua phẫu thuật trung thất sau.
Tất cả bệnh nhân đều được ghi nhận đặc điểm
nhân khẩu học, triệu chứng lâm sàng, hình ảnh
học chụp cắt lớp điện toán trước phẫu thuật
trung thất, mô bệnh học bướu trung thất sau.
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa và
nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm Stata
10 để xử lý. Chúng tôi sử dụng phép kiểm
Mann-Whitney để so sánh sự khác biệt giữa hai
nhóm bệnh nhân cho các biến định lượng và
phép kiểm 2 để so sánh sự khác biệt về tỷ lệ
giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến định tính.
Thực hiện phép kiểm chính xác của Fisher
(Fisher’s Exact Test) nếu có trên 20% số ô trong
bảng chéo có tần số mong đợi nhỏ hơn 5. Tất cả
các phương pháp kiểm định giả thuyết được
thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2 bên
(two-sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05
(p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết
thống kê.
KẾT QUẢ
Trong khoảng 10 năm từ 2005 đến 2014,
chúng tôi thu dung được 56 trường hợp bệnh
nhân phẫu thuật bướu trung thất sau tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch. Tuổi trung bình của 56
bệnh nhân là 42 ± 14 tuổi (từ 17 tuổi đến 68 tuổi),
bao gồm 48,2% (27/56 bệnh nhân) nữ và 51,8%
(29/56 bệnh nhân) nam. Tuổi trung bình bệnh
nhân nữ là 42 ± 15 tuổi, nam là 41 ± 13 tuổi.
Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi
theo giới của bệnh nhân tham gia nghiên cứu (p
> 0,7). Tần suất các loại u trung thất sau được mô
tả trong bảng 1. Có 42,9% (24/56 bệnh nhân) u
trung thất sau lành tính là nữ giới, 39,3% (22/56
bệnh nhân) u trung thất sau lành tính là nam
giới. 5,4% (3/56 bệnh nhân) u trung thất sau ác
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 321
tính là nữ giới, 12,5% (7/56 bệnh nhân) u trung
thất sau ác tính là nam giới. Không có khác biệt
có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bướu lành tính-ác
tính theo giới tính của bệnh nhân nghiên cứu (p
> 0,2). Tuổi trung bình của bệnh nhân bướu
trung thất lành tính là 41 ± 14 tuổi, ác tính là 44 ±
14 tuổi. Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tuổi trung bình theo bản chất mô học lành
tính-ác tính của bệnh nhân bướu trung thất sau
(p > 0,5). Đặc điểm nhân khẩu học, triệu chứng
lâm sàng của bệnh nhân u trung thất sau được
thu dung vào nghiên cứu được trình bày trong
bảng 2. Bảng 3 mô tả đặc điểm hình ảnh học
bướu trung thất giữa. Trung vị đường kính lớn
nhất của bướu trung thất sau lành tính là 6,5
cm (từ 2,5 cm đến 20 cm), ác tính là 6 cm (từ
4 cm đến 15 cm), (p > 0,5). Không có khác
biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm bờ
ngoài bướu trung thất theo bản chất mô học
lành tính-ác tính của bệnh nhân bướu trung thất
sau (p > 0,5).
Bảng 1: Tần suất các loại u trung thất sau
Các loại bướu trung thất sau
Nữ
n (%)
Nam
n (%)
Tổng
n (%)
Bướu sợi thần kinh lành tính 17 15 32
Bướu bao sợi thần kinh lành tính 5 4 9
Ung thư hạch bạch huyết 0 3 3
Bướu bao sợi thần kinh ác tính 3 0 3
Bướu sợi thần kinh ác tính 0 2 2
Ung thư biểu mô tuyến ức 0 2 2
Bướu quái chưa trưởng thành 1 0 1
Nang tuyến ức 0 1 1
Nang phế quản 1 0 1
Nang dạng ruột 0 2 2
Tổng 27 29 56
Bảng 2: Đặc điểm nhân khẩu học, triệu chứng lâm
sàng u trung thất sau
Đặc điểm nhân khẩu học.
Triệu chứng lâm sàng
Lành tính
(n =46)
Ác tính
(n =10)
Tổng
(n =56)
Nữ giới n (%) 24 3 27
Nam giới n (%) 22 7 29
Tuổi trung bình (năm) 41 ± 14 44 ± 14
Đau ngực n (%) 33 8 41
Ho n (%) 29 4 33
Ho ra máu n (%) 0 2 2
Khó thở n (%) 2 0 2
Không triệu chứng n (%) 6 0 6
Đặc điểm nhân khẩu học.
Triệu chứng lâm sàng
Lành tính
(n =46)
Ác tính
(n =10)
Tổng
(n =56)
Sốt n (%) 1 2 3
Sụt cân n (%) 2 0 2
Khàn tiếng n (%) 1 0 1
Bảng 3: Đặc điểm hình ảnh học bướu trung thất
giữa.
Đặc điểm hình ảnh học
Lành tính
(n = 46)
Ác tính
(n = 10)
Đường kính lớn nhất của bướu 6,5 cm 6 cm
Mật độ đồng nhất 37 8
Vôi hóa 9 2
Đặc tính bờ trung thất:
+ Tròn đều 12 2
+ Đa cung 32 7
+ Không đều, lởm chởm hình tia 2 1
BÀN LUẬN
Trung thất là một vị trí giải phẫu nằm ở
trung tâm lồng ngực, được chia thành ba vùng
gồm trung thất trước, trung thất giữa, trung thất
sau. Trung thất sau nằm sau tim và màng ngoài
tim, là khoang được giới hạn dọc mỗi bên của cột
sống và xương sườn liền kề. Tần suất mắc mới
của bướu trung thất sau so với các thể bướu
trung thất là 23% - 30%. Bướu thần kinh là dạng
bướu trung thất sau thường gặp nhất, chiếm
khoảng 19% - 39% tất cả các loại bướu trung thất
và chiếm 75% các bướu trung thất sau. 70% -
80% bướu thần kinh trung thất là tổn thương
lành tính, có nguồn gốc từ rễ nơ-ron thần kinh,
phát triển tới dây thần kinh ngoại biên, bao gồm
các tế bào hạch giao cảm, hạch phó giao cảm, bao
thần kinh. 25% bướu còn lại của trung thất sau là
nhóm không thuần nhất của các bướu hiếm gặp
bao gồm ung thư hạch bạch huyết, bướu quái,
sarcoma v.v...(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi,
bướu thần kinh là loại bướu thường gặp nhất ở
trung thất sau, chiếm tỷ lệ 82,1% (46/56 bệnh
nhân), 89,1% (41/46 bệnh nhân) là bướu lành
tính, gồm bướu sợi thần kinh lành tính (69,6%,
32/46 bệnh nhân), bướu bao sợi thần kinh lành
tính (19,6%, 9/46 bệnh nhân); 10,9% (5/46 bệnh
nhân) là bướu ác tính, gồm bướu bao sợi thần
kinh ác tính (6,5%, 3/46 bệnh nhân), bướu sợi
thần kinh ác tính (4,3%, 2/46 bệnh nhân). Các loại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Phẫu Thuật Lồng Ngực 322
bướu khác gặp ở trung thất sau theo tỷ lệ giảm
dần là nang trung thất (7,1%, 4/56 bệnh nhân),
ung thư hạch bạch huyết (5,4%, 3/56 bệnh nhân),
ung thư biểu mô tuyến ức (3,6%, 2/56 bệnh
nhân), bướu quái chưa trưởng thành (1,8%, 1/56
bệnh nhân). Khoảng 40% bướu trung thất sau
không có triệu chứng lâm sàng, và được phát
hiện tình cờ qua chụp thường quy X quang lồng
ngực. Các triệu chứng xuất hiện thường do chèn
ép hoặc xâm nhập trực tiếp xung quanh các cấu
trúc của trung thất hoặc do hội chứng cận ung
thư. Các triệu chứng có thể bao gồm đau ngực,
ho, khó thở hoặc bất thường về mặt thần kinh
học. Các bệnh nhân không có triệu chứng
thường có tổn thương lành tính; trong khi bệnh
nhân có triệu chứng thường có tổn thương ác
tính(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có
10,7% (6/56 bệnh nhân) không có triệu chứng
lâm sàng khi phát hiện bướu trung thất, tất cả
các bệnh nhân này đều là bướu trung thất lành
tính. Triệu chứng thường gặp nhất là đau ngực
(73,2%, 41/56 bệnh nhân), ho (58,9%, 33/56 bệnh
nhân), sau đó là sốt (5,4%, 3/56 bệnh nhân), ho ra
máu (3,6%, 2/56 bệnh nhân), khó thở (3,6%, 2/56
bệnh nhân), sụt cân (3,6%, 2/56 bệnh nhân), khàn
tiếng (1,8%, 1/56 bệnh nhân). Chụp cắt lớp điện
toán lồng ngực là lựa chọn đầu tiên để chẩn
đoán bướu trung thất sau(5). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tất cả các bệnh nhân đều được
chụp cắt lớp điện toán lồng ngực. Hình ảnh chụp
cắt lớp điện toán lồng ngực giúp xác định rõ các
đặc tính của bướu trung thất sau như vị trí, kích
thước, bờ ngoài, mật độ, vôi hóa. Chúng tôi ghi
nhận không có sự khác biệt giữa bướu trung
thất sau lành tính và ác tính về trung vị
đường kính lớn nhất của bướu (6,5 cm so với 6
cm, p > 0,5), về đặc điểm bờ ngoài, mật độ, vôi
hóa (p > 0,5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 46 bệnh
nhân bướu nguồn gốc thần kinh ở trung thất
sau có tuổi trung vị là 43 tuổi (từ 17 tuổi đến
68 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 21/25, triệu chứng lâm
sàng thường gặp nhất là đau ngực (76,1%,
35/46 bệnh nhân), ho (63%, 29/46 bệnh nhân),
khó thở (4,3%, 2/46 bệnh nhân), sụt cân (4,3%,
2/46 bệnh nhân), sốt (4,3%, 2/46 bệnh nhân),
khàn tiếng (2,2%, 1/46 bệnh nhân), (13%, 6/46
bệnh nhân) không có triệu chứng lâm sàng.
Trung vị đường kính lớn nhất của bướu trên
phim chụp cắt lớp điện toán lồng ngực là 6 cm
(từ 2,5 cm đến 20 cm). 67,4% (31/46 bệnh nhân)
có bờ ngoài bướu đa cung, 30,4% (14/46 bệnh
nhân) có bờ ngoài bướu tròn đều, 2,2% (1/46
bệnh nhân) có bờ ngoài bướu không đều lởm
chởm hình tia. 82,6% (38/46 bệnh nhân) có mật
độ bướu đồng nhất, 17,4% (8/46 bệnh nhân) có
hình ảnh vôi hóa trong bướu. Tất cả các bệnh
nhân đều phải thực hiện phẫu thuật mới có
được chẩn đoán xác định. Theo Rahman
A.R.M.A. và cộng sự, triệu chứng thường gặp
nhất của bướu nguồn gốc thần kinh trung thất
sau là các triệu chứng về hô hấp (45% - 50%),
thần kinh (6,6% - 13%) và bướu có thể sờ được
(3,3% - 5%). Độ nhạy của chụp cắt lớp điện
toán trong phát hiện di căn thành ngực là 60%
- 79% và trong phát hiện di căn phổi là 70% -
80%. Sinh thiết bướu qua da giúp chẩn đoán
xác định bản chất mô học của bướu trong 72%
- 100% trường hợp(5).
Bướu quái trung thất chiếm 4% - 10% bướu
trung thất sau. Trong đó 60% là bướu trung thất
nguồn gốc phôi bào và bướu trưởng thành gặp
trong 80% - 88% các trường hợp. Chỉ 3% - 8%
Bướu quái trung thất là ở trung thất sau(4).
Không có sự khác biệt về giới tính của bướu
quái trung thất, ngoại trừ nang thần kinh-ruột,
thường gặp hơn ở nữ giới. Bướu quái trung
thất có thể gặp tại mọi vị trí của trung thất,
mặc dù nang phế quản thường gặp ở trung
thất giữa và trung thất trên, nang màng
phổi-màng tim thường gặp ở phía trước bên
phải của góc tâm hoành, nang dạng ruột
thường gặp ở trung thất sau(8). Ở người lớn,
phát hiện bướu trung thất thường là tình cờ, khi
chụp Xquang ngực thường quy. Đó là bướu lớn,
chia thùy, ranh giới rõ, vôi hóa gặp trong 20%
các trường hợp. Chụp cắt lớp điện toán thường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 323
là kỹ thuật được lựa chọn, rất đặc hiệu để xác
định vị trí bướu. 40% các trường hợp bướu quái
trung thất tăng đậm độ, có kết hợp dịch, mỡ và
vôi hóa bên trong bướu. Nó cũng kiểm tra được
sự liên quan của bướu với ác cơ quan lân cận,
xem xét bờ bướu, có hay không có và sự xâm
nhập của bướu đến phổi và các cấu trúc trung
thất gần đó, cũng như khả năng phẫu thuật.
Phẫu thuật lồng ngực có trợ giúp video thường
bị hạn chế khi bướu quái có kích thước lớn, có
liên quan mật thiết với các cấu trúc trung thất.
Bướu quái trưởng thành lành tính ở trung thất là
các bướu nang kết hợp với một số tổ chức khác
có mức độ biệt hóa cao. Chúng có thể có da, sụn,
vôi, cơ trơn, biểu mô phế quản, hoăc hiếm hơn
nữa là mô tuyến ức, tụy hoặc mô tuyến giáp(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bướu quái
trung thất chiếm 8,9% (5/56 bệnh nhân) bướu
trung thất sau, bao gồm nang dạng ruột (3,6%,
2/56 bệnh nhân), bướu quái chưa trưởng thành
(1,9%, 1/56 bệnh nhân), nang tuyến ức (1,9%,
1/56 bệnh nhân), nang phế quản (1,9%, 1/56 bệnh
nhân). Bệnh nhân bướu quái trung thất sau có
tuổi trung vị là 27 tuổi (từ 22 tuổi đến 43 tuổi), tỷ
lệ nam/nữ là 3/2, triệu chứng lâm sàng thường
gặp nhất là đau ngực (4%, 2/5 bệnh nhân), ho
(4%, 2/5 bệnh nhân), ho ra máu (20%, 1/5 bệnh
nhân), (20%, 1/5 bệnh nhân) không có triệu
chứng lâm sàng. Trung vị đường kính lớn nhất
của bướu trên phim chụp cắt lớp điện toán lồng
ngực là 7 cm (từ 3 cm đến 18 cm). 80% (4/5 bệnh
nhân) có bờ ngoài bướu đa cung, 20% (1/5 bệnh
nhân) có bờ ngoài bướu không đều lởm chởm
hình tia. 60% (3/5 bệnh nhân) có mật độ bướu
đồng nhất, 40% (2/5 bệnh nhân) có hình ảnh vôi
hóa trong bướu. Tất cả các bệnh nhân đều phải
thực hiện phẫu thuật mới có được chẩn đoán xác
định.
Ung thư hạch bạch huyết là một trong
những bướu trung thất phổ biến nhất,
thường gặp ở trung thất giữa và/hoặc trung
thất trước. Trong trung thất sau, bướu nguồn
gốc thần kinh và bướu quái trung thất chiếm tỷ
lệ lớn nhất. Ung thư hạch bạch huyết nguyên
phát ở trung thất sau cực kỳ hiếm gặp(6). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, có 3 trường hợp ung
thư hạch bạch huyết nguyên phát ở trung thất
sau. Tất cả đều là bệnh nhân nam. Một bệnh
nhân bị ung thư hạch bạch huyết nguyên phát
loại tế bào T lớn, 27 tuổi, nhập viện vì triệu
chứng sốt và đau ngực, đường kính bướu 7 cm,
bờ ngoài bướu không đều lởm chởm hình tia,
mật độ bướu đồng nhất, không có vôi hóa, mẫu
mô sinh thiết qua soi phế quản nghi ung thư
hạch bạch huyết. Một bệnh nhân bị ung thư
hạch bạch huyết nguyên phát loại tế bào T ngoại
biên, 67 tuổi, nhập viện vì triệu chứng ho và đau
ngực, đường kính bướu 6 cm, bờ ngoài bướu
không đều lởm chởm hình tia, mật độ bướu
đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi phế
quản bình thường. Một bệnh nhân bị ung thư
hạch bạch huyết nguyên phát loại tế bào B, 50
tuổi, nhập viện vì triệu chứng ho ra máu, đường
kính bướu 4 cm, bờ ngoài bướu đa cung, mật độ
bướu đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi
phế quản bình thường.
Bướu biểu mô tuyến ức là một nhóm bệnh
hiếm gặp bao gồm bướu tuyến ức và ung thư
biểu mô tuyến ức(7). Phần lớn bướu tuyến ức
được tìm thấy trong trung thất trước. Chỉ có vài
bướu tuyến ức phát sinh từ ngoài trung thất trước
được mô tả trong y văn thế giới. Người ta đã mô
tả một vài trường hợp bướu tuyến ức có vị trí
nguyên phát ở vùng cổ, rốn phổi, trung thất sau,
trung thất giữa. Bướu tuyến ức dường như có
tiềm năng ác tính, và tổng tỷ lệ tổng thể của
bướu tuyến ức tái phát khoảng 20% (1). Ung thư
biểu mô tuyến ức cực kỳ hiếm gặp, chỉ chiếm
khoảng 15% - 20% bướu biểu mô tuyến ức (7). Ung
thư biểu mô tuyến ức cực kỳ hiếm gặp ở trung
thất sau (3). Trong nghiên cứu của chúng tôi có
hai bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến ức nguyên
phát ở trung thất sau. Tất cả đều là bệnh nhân
nam. Một bệnh nhân 54 tuổi, nhập viện vì triệu
chứng ho và đau ngực, đường kính bướu 10 cm,
bờ ngoài bướu đa cung, bướu có vôi hóa, hình
ảnh soi phế quản bình thường. Một bệnh nhân
50 tuổi, nhập viện vì đau ngực, đường kính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Phẫu Thuật Lồng Ngực 324
bướu 5 cm, bờ ngoài bướu đa cung, mật độ bướu
đồng nhất, không có vôi hóa, hình ảnh soi phế
quản bình thường.
KẾT LUẬN
Chúng tôi nhận thấy có đến 89,3% bệnh
nhân bướu trung thất sau có triệu chứng lâm
sàng. Bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng
đều là bướu trung thất sau lành tính. Triệu
chứng thường gặp nhất là đau ngực, ho. Chẩn
đoán hình ảnh là phương tiện phát hiện tổn
thương bướu trung thất sau. Đa phần trường
hợp chẩn đoán xác định bản chất mô học bướu
trung thất sau nhờ phẫu thuật trung thất. Chẩn
đoán sau phẫu thuật xác định 82,1% bướu trung
thất sau là bướu nguồn gốc thần kinh, 89,1%
bướu nguồn gốc thần kinh ở trung thất sau là
bướu lành tính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung SR, Kim IS, Kim J (2012), “Thymoma of the middle
mediastinum”, Korean J Thorac Cardiovasc Surg, 45(4), pp.267-
268.
2. Joshi A, Trivedi C, Bansal A, (2014), “Posterior Mediastinal
Mass”, J Am Osteopath Coll Radiol 2014; 3(2), pp.32-34.
3. Kadowaki T, Hamada H, Yokoyama A, et al. (2005), “Thymic
carcinoma originating from the mid-posterior mediastinum”,
Respirology, 10(5), pp.689–691.
4. Rabiou S, Ghalimi J, Lakranbi M, et al. (2014), “Posterior
Mediastinal Mature Teratoma: A Case Report and Literature
Review”, Case Reports in Clinical Medicine, 3, pp.122-124
5. Rahman ARMA, Sedera MA, Mourad IA, et al. (2005),
“Posterior Mediastinal Tumors: Outcome of Surgery”, Journal of
the Egyptian Nat. Cancer Inst., 17(1), pp. 1-8.
6. Takamizawa A, Tomonobu K, Keisaku F (2004), “Primary
Malignant Lymphoma in the Posterior Mediastinum”,
Respiration,71, pp.417-420.
7. Weissferdt A, Moran CA (2012), “Thymic Carcinoma. Part 1. A
Clinicopathologic and Immunohistochemical Study of 65
Cases”, Am J Clin Pathol, 138,pp.103-114.
8. Zambudio AR, Lanzas JT, Calvo MJR, et al. (2002), “Non-
neoplastic mediastinal cysts”, European Journal of Cardio-
thoracic Surgery, 22, pp.712-716
Ngày nhận bài báo: 07/11/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buou_trung_that_sau_nghien_cuu_loat_ca_lam_sang_56_benh_nhan.pdf