Cá basa và thủy sản Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang trở thành tất yếu. Các doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong phạm vi quốc gia mà là khu vực và thế giới. Do đó, tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam còng không nằm ngoài qui luật này. Trong thời gian vừa qua, thủy sản Việt Nam đã thể hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế tổng thể của đất nước. Tuy nhiên, bước đầu đã gặp phải những vấn đề khó khăn trong quá trình hội nhập. Để có cái nhìn tổng quát về ngành thủy sản Việt Nam, nhóm I dùa trên những kiến thức cơ bản về môn chiến lược kinh doanh đã đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành thủy sản và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế của ngành thủy sản nhằm củng cố và giữ vững vai trò ngành kinh tế mòi nhọn của nền kinh tế Việt Nam.

doc27 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2311 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cá basa và thủy sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang trở thành tất yếu. Các doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong phạm vi quốc gia mà là khu vực và thế giới. Do đó, tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam còng không nằm ngoài qui luật này. Trong thời gian vừa qua, thủy sản Việt Nam đã thể hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế tổng thể của đất nước. Tuy nhiên, bước đầu đã gặp phải những vấn đề khó khăn trong quá trình hội nhập. Để có cái nhìn tổng quát về ngành thủy sản Việt Nam, nhóm I dùa trên những kiến thức cơ bản về môn chiến lược kinh doanh đã đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành thủy sản và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế của ngành thủy sản nhằm củng cố và giữ vững vai trò ngành kinh tế mòi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. I. Vai trò và lịch sử phát triển ngành thủy sản Ngành thủy sản nước ta được tách khỏi nông nghiệp để trở thành một ngành kinh tế độc lập. Từ năm 1960, sau khi có quyết định thành lập Tổng cục thủy sản trực thuộc chính phủ được Nhà nước giao quản lý để phát triển một cách có hiệu quả nhất việc khai thác các tiềm năng của các nguồn lợi thủy sinh có trong các mặt nước để đảm bảo góp phần cung cấp thực phẩm cho nhân dân, tạo thêm việc làm, gia tăng giá trị các sản phẩm thủy sản cho tiêu dùng trong nước đồng thời tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ. Bên cạnh đó ngành thủy sản còn có nhiệm vụ tổ chức tốt việc dịch vụ cho những người sản xuất thủy sản và tổ chức lưu thông đưa sản phẩm thủy sản đến tay người tiêu dùng. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, tuy thủy sản là một loại thức ăn phố biến của người Việt, là thực phẩm hàng ngày của người dân từ vùng miền biển tới các vùng núi, từ dân téc Kinh tới các tới các dân téc thiểu số, từ Nam ra Bắc nhưng phần lớn những sản phẩm thủy sản Êy lại có được do kiếm lượm đơm bắt hết sức thô sơ mà ta quen gọi là khai thác tự nhiên. Sự khai thác các sản phẩm thủy sản trong các mặt nước từ xa xưa Ýt gây ra những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn nào khác với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác trong một nước mà nền kinh tế là nông nghiệp. Chính vì vậy mà quy hoạch để làm sao có thể vừa phát triển ngành thủy sản nói riêng và các ngành khác trong nền kinh tế hội nhập hiện nay là một vấn đề rất cấp thiết. Bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ngành thủy sản có bước chuyển biến mới, lấy xuất khẩu làm động lực phát triển để cân bằng cán cân thanh toán và bù đắp những chi phí đầu tư cũng như sản xuất. Sự chuyển biến này lập tức đã làm thay đổi cục diện và tính chất phát triển của ngành. Tốc độ khai thác các tiềm năng tăng lên nhanh cóng. Nghề nuôi cũng được chú trọng p tthành một ngành sản xuất hàng hóa. Nếu như trước đây những quốc doanh đánh cá và các hợp tác xã đánh cá được trang bị bởi những phương tiện lớn khai thác chạy theo sản lượng theo yêu cầu của kế hoạch Nhà nước nên tập trung vào khai thác các loại thủy sản rẻ tiền nhưng cho sản lượng lớn như các loại cá nổi nhỏ, cá đáy tạp, tiêu thụ theo chế độ phân phối tem phiếu. Nó đã rất phù hợp với một thời chiến tranh cái gì cũng thiếu thốn, thì giờ đây không còn phù hợp nữa. Mỗi gia đình ngư dân tìm cách tách ra khỏi các hợp tác xã để sắm các phương tiện nhỏ nhưng khai thác có chọn lọc chỉ tập trung vào các loài hải sản có giá trị kinh tế cao có thể xuất khẩu. Quy mô tổ chức ở mỗi gia đình nhưng do số lượng ngư dân tăng lên nhanh chóng cùng với sự cải tiến công cụ và phương tiện khai thác, sự trang bị ồ ạt thuyền cơ giới nhỏ nhờ các nguồn động cơ nhập khẩu rẻ tiền … nghề khai thác thủy sản ở các vùng nước gần bờ và ven bờ ở khắp cả nước đã trở nên quá tải. Năng suất khai thác tính trên một đơn vị cường lực càng ngày có dấu hiệu giảm sút, các nguồn lợi giá trị cao ngày càng trở nên khó kiếm, kích cỡ nhỏ hơn, sự khai thác cá con ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nguồn lợi thủy sản vùng gần bờ đã có dấu hiẹu đạt đến ngưỡng của giới hạn cho phép. Bên cạnh nghề khai thác hải sản ở ngoài biển, nghề khai thác các nguồn lợi tự nhiên quý hiếm ở các vùng nước lợ, đặc biệt là nguồn lợi tôm tự nhiên cũng ráo riết được tận dụng, đặc biệt là ở tỉnh Minh Hải cũ, nay là 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, nơi được mệnh danh là mỏ tôm của Việt Nam. Sù khai thác ráo riết tất yếu dẫn đến sự cạn kiệt và hiện tượng phá rừng ngập mặn ven biển thành các ao nuôi tôm. Quang cảnh đã diễn ra ở mọi nơi. Những năm gần đây, nhờ nhận thức vai trò của rừng ngập mặn với sự quản lý tốt ơn và còng nhờ chuyển đổi các hình thức và công nghệ nuôi nên việc phá rừng ngập mặn đã bị chặn lại nhưng còn phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc mới hy vọng khôi phục được nguyên trạng. Trước nguy cơ cạn kiệt và phá hủy các nguồn lợi bởi sự phát triển tự phát, thiếu quản lý. Nhà nước đã quan tâm đến việc phát triển thủy sản một cách có quy hoạch được quản lý, thể hiện bằng nghị định số 95-HĐBT ngày 6/9/1983 cho phép thành lập Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy Sản thuộc Bộ thủy sản. Từ đó nhiệm vụ quy hoạch phát triển ngành thủy sản mới được quy về một đầu mối và được triển khai một cách bài bản. Mở đầu là công trình “phân bố lực lượng sản xuất thủy sản”( Đề tài cấp Nhà nước mã số 70-01) đã kiểm kê và tổng hợp đầy đủ các đánh giá về nguồn lợi và các tiềm năng thủy sản cho đến thời điểm đó, làm cơ sở để xây dựng các chiến lược phát triển và quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất cho các thời kỳ tiếp theo. Từ dó công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch của Ngành thủy sản được thực hiện liên tục và toàn diện, phủ khắp mọi lĩnh vực của ngành, làm cơ sở cho việc đề ra các chủ trương, chính sách phát triển cũng như xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch trung hạn, ngắn hạn và thực hiện việc đầu tư. Bên cạnh việc xây dựng và đưa vào chỉ đạo phát triển theo định hướng lâu dài như : Chiến lược phát triển thủy sản thời kỳ 1985-2000, chiến lược phát triển thủy sản thời kỳ 1990-2005, chiến lược phát triển thủy sản thời kỳ 2000-2010, ngành thủy sản còn tổ chức xây dựng các chiến lược phát triển cho từng vùng sinh thái ở Nam Bé, Trung bộ, Tây Nguyên,Trung du miền núi. Tiếp theo việc định hướng chiến lược, các quy hoạch tổng thể toàn ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương cũng được triển khai nhằm lợc hóa hặc định vị đầu tư và phân bổ các nguồn lực. Giữa năm 1987 đầu năm 1998 Bộ trưởng Bộ thủy sản tổ chức xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội ngành thủy sản thời kỳ 1990 -2005, lần đầu tiên trong ngành thủy sản Việt Nam có một bản chiến lược được xây dựng trên cơ sở huy động nhiều nhà khoa học quản lý của toàn ngành cũng như được nhiều sự tham gia thảo luận của các nhà khoa học ngoài ngành như vậy. Từ năm 1995 đến năm 1997, với sự tài trợ của tổ chức DANIDA (Đan Mạch) và với sự tham gia của nhiều tổ chức tư vấn và chuyên gia quốc tế dự án xây dựng “ Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội ngành thủy sản” quy mô lớn đã được thực hiện. Bản quy hoạch này là một khung chính sách chiến lược và chương trình làm nền cho phát triển và quản lý một cách khoa học ngành thủy sản. Do những biến động thị trường, quy hoạch tổng thể ngành thủy sản luôn luôn được ngành tổ chức đánh giá và điều chỉnh, từng bước hoàn thiện để luôn gắn bó với thực tiễn phát triển nhưng vẫn giữ được vai trò hướng đạo cho sự phát triển và làm cơ sở cho xác định đầu tư. Cùng với việc xây dựng các chiến lược và quy hoạch tổng thể để hướng đạo phát triển ngành thủy sản còn đầu tư và trợ giúp, khuyến khích các địa phương lập các quy hoạch chi tiết, các dự ánư tiền khả thi và khả thi phục vụ cho công tác đầu tư triển khai thực hiện các chiến lược và quy hoạch tổng thể. Hàng loạt các khu nuôi trồng thủy sản đã được quy hoạch và đầu tư xây dùng trong trình 227 và 773 (khai khoáng lấn biển, bãi trống đồi núi trọc) của Chính phủ và các dự án xây dựng cơ sỏ hạ tầng cho nghề cá. Như vậy có thể nói ngành thủy sản tuy có lịch sử phát triển rất lâu dài và có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của nhân dân ở nước ta nhưng lại còn đang tồn tại rất nhiều bất cập và lạc hậu hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy chúng ta cần phải nhanh chóng tìm ra những giải pháp, cần có các quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết để đưa ngành thủy sản phát triển xứng đáng với tiềm năng, vai trò và vị trí trong đời sống cũng như nền kinh tế nước ta. II. Thực trạng phát triển và cơ hội ngành thủy sản 1. Thực trạng phát triển Hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt ở trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Trong đó có tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh đạt 945,47 triệu USD, chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu của năm. Trong cơ cấu nông – lâm nghiệp – thủy sản thì tỷ trọng của thủy sản ngày càng tăng do tốc độ tăng của ngành cao hơn so với các ngành khác (Bảng1) Bảng 1 : Tốc độ tăng và cơ cấu giá trị sản xuất nông lâm nghiệp – thủy sản ( giá so sánh) qua các năm (%) Năm  Tốc độ tăng  Cơ cấu    Tổng sè  Chia ra  Tổng sè  Chia ra     Nông nghiệp  Lâm nghiệp  Thủy sản   Nông nghiệp  Lâm nghiệp  Thủy sản   1990  1,9  1,6  2,8  3,7  100  82,5  6,6  10,9   1991  4,1  2,7  3,8  14,4  100  81,4  6,7  11,9   1992  7,4  8,4  - 1,2  5,3  100  82,2  6,1  11,7   1993  6,5  6,6  - 1,0  9,3  100  82,3  5,7  12,0   1994  6,8  4,9  3,3  21,7  100  80,9  5,4  13,7   1995  5,9  6,9  - 3,3  3,8  100  81,6  5,0  13,4   1996  7,7  6,5  11,8  13,6  100  80,7  5,2  14,1   1997  6,4  7,0  - 3,2  6,3  100  81,7  4,8  14,1   1998  4,9  5,7  - 3,5  3,5  100  81,7  4,3  14,0   2000  7,3  5,4  4,9  19,3  100  80,2  4,2  15,6   2001  4,9  2,6  1,9  17,4  100  78,5  4,1  17,4   Ước 2002  5,4  5,2  0,2  7,3  100  78,3  3,9  17,8   Nguồn : thời báo kinh tế Việt Nam – kinh tế 2002 – 2003 Thủy sản tăng khá cả về cá, tôm, thủy sản khác, cả về khai thác và nuôi trồng, nhất là tôm nuôi ( Bảng 2) Bảng 2: Khai thác nuôi trồng thủy sản  Tổng sè (nghìn tấn)  Tăng (%)  Nuôi trồng (nghìn tấn)  Tăng (%)  Khai thác (nghìn tấn)  Tăng (%)   Tổng sè  2.578,5  5,9  781,4  10,1  1.797,1  4,2   Cá  11.812,7  4,9  421,0  7,4  1.369,5  4,1   Tôm  276,1  8,3  186.7  20,5  89,4  - 10,6   Thủy sản khác  489,7  8,3  142,5  6,3  347,2  9,2   Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2002 – 2003 Năm 2002 sản lượng thủy sản tăng 7,3% giá thực phẩm tăng 7,3%, tính ra tổng thu nhập từ thủy sản tăng 15,1%. Đây cũng là tốc độ tăng khá cao. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, giá thủy sản tăng bình quân 5,4%/ năm. Theo dự báo của tổ chức nông lương của LHQ (FAO), trong giai đoạn từ nay tới 2010 giá thủy sản sẽ tăng bình quân khoảng 3,6% mỗi năm. - Theo công bố mới đây của FAO, trong các nước cung ứng tôm, đứng đầu là Trung Quốc, tiếp theo là Ên độ, Indonexia, Mỹ, Thái Lan, Canada và Việt Nam. - Trong 8 tháng đầu năm 2003, ngành thủy sản cả nước đã khai thác và thu hoạch từ nuôi trồng được trên 1,7 triệu tấn thủy sản các loại, bằng 62,28% kế hoạch năm, tăng thêm 6,7% so với cùng kỳ năm trước. - Do thị trường xuất khẩu thủy sản bắt đầu tăng trưởng với tốc độ nhanh sau 2 tháng 6-7 tăng chậm, đặc biệt ngành đã thực hiện tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến thủy sản và xúc tiến thương mại khi xuất khẩu sang các thị trường châu Á, EU nên kim ngạch xuất khẩu thủy sản 8 tháng qua đã đạt hơn 1,4 tỷ USD, bằng 61,61% kế hoạch năm tăng 12,21% so với cùng kỳ năm 2002( riêng tháng 8, ước đạt 225 triệu USD). Trong đó kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU tăng nhanh tới 74%, vào thị trường Nga tăng 60%... Ngoài ra tiêu thụ thủy sản tiếp tục mở rộng sang các thị trường Anh, Pháp, Hồng Công….tạo thêm đầu ra cho sản phẩm cá tra, cá basa. Ví dụ: cơ quan thương vụ nước ta tại Nhật Bản đã tổ chức hội thảo chuyên đề “cá basa và thủy sản Việt Nam” nhằm giúp khách hàng Nhật Bản hiểu thêm về khai thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nói chung và cá tra, cá ba sa nói riêng. - Năm 2003 vừa qua, EU cũng vừa có quyết định công nhận thêm 8 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU( đây là các doanh nghiệp trước đây bị EU loại khỏi danh sách xuất khẩu hàng thủy sản), đưa tổng số doanh nghiệp trong danh sách xuất khẩu vào thị trường EU lên 100 doanh nghiệp. - Trên thị trường thế giới các sản phẩm thủy sản nói chung còng nh­ tôm nói riêng của Việt Nam đã khẳng định được vị thế. Hiện nay Việt Nam đang xếp thứ 3 trong các nước xuất khẩu tôm vào hai thị trường quan trọng nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ. - Năm 2001 Việt Nam xuất được 342.800 tấn tôm vào Nhật, 3 tháng đầu năm 2002 xuất 6.100 tấn tăng 5% về khối lượng nhưng giá lại giảm đến 21,4% so với cùng kỳ năm 2001(40 triệu USD). Còng trong năm này, Việt Nam nhảy lên vị trí thứ hai ở thị trường Mỹ về khối lượng, tăng gần 2 lần so với năm 2000. Năm 2000 tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này tăng đột biến lên gấp 2,14 lần so với 1999 đạt 34.650 tấn kim ngạch 302,4 triệu USD, chiếm 3% tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ. Mặt hàng xuất khẩu chính là tôm đông lạnh. Với kim ngạch 218 triệu USD. Tuy mức tăng nhanh nhưng so với Thái Lan, Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn. Năm 2001, giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam vào Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 8,3% còn Thái Lan vẫn dẫn đầu với tỷ trọng 34%. - EU cũng là thị trường tôm lớn của thế giới. Mặc dù Việt Nam có thị trường ở hầu khắp các nước thuộc EU song kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam vào EU còn rất thấp. Nguyên nhân chính là EU nhập khẩu tôm nước lạnh truyền thống và hàng rào phi thuế quan của EU gây khó khăn cho việc xuất khẩu tôm vào thị trường này. - Nếu so sánh khả năng cạnh tranh của Việt Nam với Trung Quốc, Indonexia và Thái Lan qua các chỉ tiêu như sản lượng tôm nuôi, sản lượng công nghiệp chế biến tôm đông lạnha, năng suất nuôi bình quân, giá bình quân sản phẩm thì hầu hết là đều thua kém. Đây là nguyên nhân làm giảm tính cạnh tranh của tôm Việt Nam . - Từ thực trạng trên ta thấy trong quá trình phát triển ngành thủy sản và thâm nhập vào các thị trường nước ngoài Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để tận dụng triệt để các cơ hội và đẩy lùi những thách thức, phát huy mặt mạnh và giảm dần những mặt yếu của ngành thủy sản nói chung và những mạt hàng thủy sản chủ lực nói riêng như tôm, cá tra, cá ba sa,…. 2. Cơ hội của ngành thủy sản Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 75% dân số sống và làm việc ở nông thôn, ngành nông nghiệp đóng góp 24% GDP cả nước, thì việc lường trước những tác động vừa thuận lợi vừa khó khăn đối với nông nghiệp, nông dân nói chung còng nh­ ngành thủy sản, ngư dân nói riêng là rất cần thiết khi phát triển kinh tế theo định hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam có khả năng phát triển nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản. Tổng diện tích có thể nuôi trông ở Việt Nam khoảng 1,7 triệu ha. Trong khi đó, khả năng tăng sản lượng của ngành nuôi thủy sản còn rất lớn, hiện nay chóng ta chỉ mới khai thác được 1/3 diện tích mặt nước có thể phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ( năm 1998 là 508.017 ha). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của cả nước được mở rộng. Năm 1997 đạt tỷ trọng sau: nông nghiệp chiếm 84,,6%, thủy sản chiếm 9,9% và lâm nghiệp chiếm 555,5% Bảng 3: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp (mở rộng) thời kỳ 1991 – 1997 (theo GTSX) Năm Ngành SX  1991  1992  1993  1994  1995  1996  1997   Thủy sản  7,8  8,5  8,5  8,2  8,9  9,2  9,9   Nông nghiệp  84,5  84,7  84,5  85,3  84,3  84,8  84,6   Lâm nghiệp  7,7  6,8  7,0  6,5  6,8  6,0  5,5   Nguồn: Tổng cục thống kê Qua cơ cấu trên đã cho thấy ngành thủy sản vẫn còn chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Tuy nhiên với sự tăng lên tỷ trọng của ngành này từ 7,8% năm 1991 lên 9,9% năm 1997 là rất quan trọng và có nhiều ý nghĩa. Qua phân tích số liệu ở trên bảng 3 ta thấy trong 7 năm (1991-1997) ngành lâm nghiệp giảm sút, nông nghiệp tăng trưởng với nhịp độ 4,5%/ năm nhưng tỷ trọng của nó chỉ tăng 0,1%, trong khi đó ngành thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 7%/ năm nên tỷ trọng tăng thêm là 2,4% so với năm 1991 Bảng 4: Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông – lâm nghiệp – thủy sản (%) Năm  Toàn khu vực  Nông nghiêp  Lâm nghiệp  Thủy sản       Tổng sè  Chia ra        Khai thác  Nuôi trồng   1990  1.9  1,6  2,8  3,7  - 4,9  9,0   1991  4,1  2,7  3,9  14,4  17,9  6,8   1992  7,4  8,4  - 1,2  5,3  6,2  3,1   1993  6,5  6,6  - 1,0  9,3  8,1  12,1   1994  6,8  4,9  3,3  21,7  21,2  22,8   1995  5,9  6,9  - 3,3  3,8  1,0  10,3   1996  7,7  6,5  11,8  13,6  17,2  6,1   1997  6,4  7,0  -3,2  6,3  7,3  4,1   1998  4,9  5,7  -3,5  3,5  2,1  7,1   1999  7,4  7,3  7,0  7,9  7,0  10,0   2000  7,3  5,4  4,9  19,3  9,9  40,4   2001  4,9  2,6  1,9  17,4  3,5  41,9   Ước 2002  5,4  5,2  0,2  7,3  0,7  15,8   Nguồn: Báo thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2002 – 2003 Cùng với tốc độ ngày càng tăng của ngành thủy sản thì chính trong cơ cấu ngành ta cũng thấy tốc độ tăng của ngành nuôi trông rõ ràng là rất nhanh. Đây là một điều rất thuận lợi. Trong thời kỳ từ 1990 – 20002. Tốc độ tăng giá trị sản xuất trung bình của ngành khai thác là 7,4%/ năm thì ngành nuôi trông là 14,6%. Điều này mở ra cho ngành thủy sản phát triển chủ động hơn. Hiện nay ở nước ta có thể sử dụng tới 60% diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản mà vẫn đảm bảo cân bằng sinh thái. Hơn nữa, phần lớn diện tích mặt nước đang khai thác có trình độ thâm canh kém nếu được đầu tư vốn và kỹ thuật, chắc chắn sản lượng nuôi sẽ tăng lên gấp nhiều lần. Nếu đầu tư tốt, sản lượng thủy sản nuôi của Việt Nam sẽ đạt 1,2 triệu tấn vào năm 2005 và 2 triệu tấn vào năm 2010. Việt Nam có tiềm năng lớn trong đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản. Hiện nay nước ta đương đứng thứ 29 thế giới về xuất khẩu thủy sản, xuất khẩu sang 45 nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 12 năm qua là 20% (từ 90 triệu USD năm 1988, năm 2000 khoảng hơn 1 tỷ USD). Từ cuối năm 1999 cộng đồng châu Âu đã xếp Việt Nam vào danh sách số một các nước xuất khẩu vào EU, đồng thời công nhận 18 doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam đảm bảo điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của EU. Các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam ngày càng tỏ ra có kinh nghiệp hơn trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng mặt hàng tăng, giá cả ổn định. Hàng thủy sản chế biến của ta vào được EU sẽ có điều kiện thuận lợi thâm nhập vào các thị trường khác. Hàng thủy sản Việt Nam có giá trị cao, được thế giới ưa chuộng. thị trường cho hàng thủy sản còn rất lớn, hiện nay Việt Nam chỉ mới chủ yếu xuất khẩu hàng sơ chế( năm 1999 hàng làm khô, đông lạnh chiếm 57%), việc phát triển công nghiệp chế biến sẽ tăng cường sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam để thâm nhập vào các thị trường mới củng cố vững chắc hơn ở các thị trường bạn hàng truyền thống. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam năm 1998 là: Nhật Bản (chiếm 43,9%), Cộng đồng châu Âu EU(11,3%), Hồng Công (10,3%), Mỹ (9,8%), Đài Loan (4,6%), Trung Quốc (3,7%) và các nước khác (16,4%) (nguồn: Thời báo kinh tế Sài gòn số 6- 1999 (423) ngày 1/02/1999). Thành tựu lớn nhất của ngành thủy sản năm 1998 là đã tạo nên bước đột phá mạnh mẽ vào hai thị trường lớn vào loại khó tính bậc nhất thế giới là Cộng đồng châu Âu (EU) và Mỹ. Kết quả rất khả quan của xuất khẩu thủy sản những năm gần đây, nhất là 2 năm 1998, 1999 đã đưa hàng thủy sản lọt vào danh sách 5 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao nhất của Việt Nam và là một trong 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng trưởng trên 10% về giá trị trong 2 năm qua (năm 1998 tăng 10,59% so với năm 1997 và năm 1999 tăng 13,08% so với năm 1998). Còn nếu tính cả giai đoạn 10 năm (1990 – 1999) tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sau năm 1999 đã tăng lên gấp 4,06 lần so với năm 1990. Chính nhờ những kết quả phát triển ngành thủy sản mà làm tăng khả năng thu hót đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư hỗ trợ từ phía khu vực Nhà nước. Nhờ vậy nó sẽ góp phần giải quyết nhiều bài toán khó cho ngành thủy sản nh­ về nguồn vốn, công nghệ,… Năm 1998 giá trị xuất khẩu của ngành nuôi thủy sản đã vượt qua ngành khai thác hải sản, đạt 472 triệu USD, chiếm 54,97% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, tốc độ phát triển xuất khẩu của ngành nuôi thủy sản tăng rất nhanh, bình quân gần 22%. Trong những năm tới Việt Nam sẽ ưu tiên đầu tư cho nuôi trồng thủy sản. Đây là cơ hội rất tốt để tạo ra nguồn nguyên liệu lớn và ổn định cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu. Bởi vì nếu chúng ta chỉ quá tập trung khai thác thì nguồn lợi thủy, hải sản sẽ bị cạn kiệt. Do đó nó sẽ không tạo sự phát triển bền vững cho ngành thủy sản. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, trữ lượng hải sản của Việt Nam chỉ cho phép khai thác khoảng 1,5 – 1,6 triệu tấn/ năm nên nếu theo chiều hướng phát triển của ngành thủy sản hiện nay tăng tỷ trọng ngành nuôi trồng là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Nó giúp chúng ta chủ động chọn lùa những sản phẩm có nhu cầu lớn để đầu tư nuôi nh­: tôm, các loại cá ba sa, bống tượng, chép, tai tượng… Nó còn giúp chủ động kiểm soát được chất lượng vệ sinh của nguyên liệu, đặc biệt đối với các loại nhiễm thể hai mảnh nh­: nghêu, sò huyết, hào, vẹm. Điều này rất có ý nghĩa vì nhiều nước châu Âu chỉ nhập nhiễm thể hai mảnh được khai thác ở những vùng kiểm soát được chất lượng vệ sinh. Ngoài ra phát triển nuôi trồng thủy sản còn giảm áp lực khai thác hải sản vùng ven biển, tạo điều kiện phục hồi nguồn lợi hải sản, đồng thời tạo nhiều việc làm mới. Bộ thủy sản dự kiến, sau 10 năm nữa lực lượng lao động làm việc cho ngành này sẽ tăng gấp 3-4 lần hiện nay. Phát triển nuôi trồng thủy sản sẽ là một mô hình cho phương thức hợp tác mới giữa hộ nông dân (ngư dân) và các doanh nghiệp thủy sản. Nó sẽ góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống. Rõ ràng sự phát triển khá nhanh của ngành thủy sản đã tạo nên một cơ hội lớn cho ngành hướng ra thị trường thế giới. Điều dễ cảm nhận nhất khi hội nhập khu vực và thế giới, trước hết là àTA, APEC, WTO… là sẽ đem lại cơ hội cho việc giảm thuế quan, mở rộng thị trường quốc tế cho hàng thủy sản, tạo điều kiện cho hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu đến nhiều nước nhờ nguyên tắc không phân biệt đối xử kéo theo đó là những tiềm năng thế mạnh, nguồn lợi biển, lao động tự nhiên sẽ được khai thác, nông dân sẽ tiếp cận được thị trường, nắm bắt được thị hiếu của khách hàng để sản xuất ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. Mặt khác, mở cửa thị trường là lúc nhiều loại hàng hóa dễ dàng vào nước ta, sẽ là cơ hội để nắm bắt kỹ thuật, bí quyết trong sản xuất hàng thủy sản chất lượng cao, nâng cao kiến thức quản lý kinh tế, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới công nghệ sản xuất chế biến nông sản, tăng khả năng cạnh tranh, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu nói riêng, nông nghiệp nói chung, thúc đẩy nông nghiệp phát triển do các chính sách và nông nghiệp nước ta phù hợp với thông lệ, qui định quốc tế. Trong tù do hóa thương mại thì hàng hóa nông sản nói chung thủy sản nói riêng là lĩnh vực được các nước quan tâm nhất, mà nước ta có tiềm năng và triển vọng xuất khẩu với khối lượng lớn. Trước mắt, có thể có một số mặt hàng khả năng cạnh tranh còn kém sẽ khó tồn tại hoặc gặp thách thức lớn nhưng về lâu dài sẽ thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mở rộng thị trường trong quá trình hội nhập thì ngành thủy sản sẽ có mức tăng trưởng cao và bền vững, trình độ sản xuất sẽ được nâng lên, thu nhập và đời sống của người nông dân sẽ được cải thiện nhiều hơn. 3.Thách thức của ngành thủy sản Đặc điểm của ngành thủy sản Nghề cá Việt Nam là nghề cá nông dân lao động thủy sản hiện nay có khoảng 3,4 triệu người được phân bố trong các lĩnh vực nh­ sau (số liệu ước tính năm 2000). Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8,9% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, đứng hàng thứ 5 sau dầu thô, dệt may, da giấy và gạo. Ngành thủy sản được Đảng và Nhà nước xác định là ngành kinh tế mòi nhọn. Hiện nay đang được đầu tư để thực hiện đồng thời ba chương trình lín là: khai thác hải sản xa bờ, phát triển nuôi trồng thủy sản, chế biến và xuất khẩu thủy sản( lấy cân bằng xuất khẩu làm mòi nhọn). Đặc điểm lao động ngành thủy sản thuộc nhóm nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Người lao động phải làm việc trong các điều kiện thiếu vệ sinh, nhiều rủi ro, nguy hiểm do quá trình sản xuất nghề cá luôn luôn gắn với sông nước, môi trường có hàm lượng muối ăn mòn cao, đối tượng sản phẩm thủy sản mau ươn thối. Hơn nữa thủy sản phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai nh­ bão, lũ, lốc xoáy…. nhiều năm gây thiệt hại rất lớn về người và của. Phần lớn lao động trong các lĩnh vực sản xuất thủy sản vẫn là lao động thủ công, trong đó các điều kiện đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động còn nhiều thiếu thốn. Trong nghề nuôi trồng thủy sản, người lao động phải tiếp xúc liên tục với môi trường nước, phần lớn là nước mất vệ sinh hay chưa được xử lý, phương tiện bảo vệ cá nhân kém. Nguyên nhân xuất khẩu ngành thủy sản quý I năm nay đạt thấp: Nguyên nhân kim ngạch xuất khẩu quý I năm nay đạt thấp hơn cùng ký năm trước đó là một sự thực chưa từng có Ýt nhất trong vòng 10 năm qua, xảy ra do nhiều nguyên nhân cơ bản là do thiếu nguyên liệu. Theo dõi tình hình thị trường thế giới vài năm gần đây, có thể thấy việc tiêu dùng thủy sản có xu hướng giảm tỉ lệ các sản phẩm đắt tiền và tăng nhièu sản phẩm rẻ tiền hơn. Điều này càng thấy rõ hơn trong năm 2001 và đầu năm nay, khi mà khối lượng vẫn tiếp tục tăng giá trị lại chỉ tăng Ýt, không tăng thậm chí giảm trung bình giá trên thị trường đầu năm nay thấp hơn cùng kỳ năm trước từ 5-10% thị trường này là yếu tố gây khó khăn không nhỏ đến việc xuất khẩu thủy sản của nước ta. Cũng như mọi hoạt động kinh doanh xuất khẩu khác thuộc cơ chế thị trường, các trở ngại kinh tế, rào cản thương mại là điều khó tránh khỏi, nhiều sự việc như ngăn cản xuất khẩu cá tra, cá ba sa sang Hoa Kỳ hay kiểm soát chặt dư lượng chất kháng sinh trong sản phẩm xuất khẩu sang châu Âu là những ví dụ. Đây là những nguy cơ tiềm Èn rất lớn, đòi hỏi sự cảnh giác cao độ và phải phấn đấu không mệt mỏi cho công tác đảm bảo an toàn vệ sinh nâng cao chất lượng sản phẩm của cả các cá nhân ra chính sách, các cơ quan kiểm tra lẫn các doanh nghiệp. Xét cho cùng thiếu nguyên liệu, đặc biệt là nguyên liêu tôm nuôi nói đúng hơn là thiếu về khối lượng nguyên liệu đáp ứng đủ tiêu chuẩn chất lượng để chế biến xuất khẩu là yếu tố quan trọng nhất. Từ những phác họa trên ta có thể thấy những thách thức đang đón chờ ngành thủy sản: - Tại một số địa phương còn chưa quy hoạch tổng thể và ở nhiều địa phương còn thiếu quy hoạch chi tiết ở những vùng nuôi, đặc biệt là những vùng chuyển đổi và các vùng eo, vịnh biển có thể nuôi thủy sản bằng lồng bè để đảm bảo cân bằng sinh thái, trách tác động tiêu cực của việc nuôi trông thủy sản đối với môi trường nói chung cũng như tránh các ảnh hưởng xấu của việc canh tác lúa đối với nuôi tôm. - Nhà nước đòi hỏi ngày càng chặt chẽ về chất lượng hàng thủy sản của các nước nhập khẩu thủy sản và xu hướng hội nhập quốc tế với sự rỡ bỏ hàng rào thuế quan sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt với các nước khác trong khi công nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam nhìn chung còn lạc hậu so với các nước cạnh tranh với ta. - Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, khả năng chống đõ diễn biến phức tạp của thời tiết còn yếu. - Tuy lợi Ých của nghề nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm nước lợ và nuôi thủy sản ở biển là rất lớn song nhu cầu đầu tư cho nuôi thủy sản nói chung và nhất là nuôi tôm cũng rất cao, kỹ thuật nuôi phức tạp trong khi cơ sở hạ tầng còn yếu kém, khả năng rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, môi trường thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng rất nhiều. - Bé máy của ngành thủy sản (đặc biẹt là hệ thống quản lý nuôi trồng thủy sản và khuyến ngư) cả về tổ chức lực lượng cán bộ, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển nghề nuôi trồng thủy sản ngày càng lớn trong phạm vi toàn quốc và tại các địa phương. - Mật độ dân cư, tỷ lệ phát triển dân số trong các làng cá ven biển cao, dân trí thấp, tập quán lạc hậu, cuộc sống vật chất thiếu vốn. Đây là sức Ðp lớn cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. - Nguồn lợi thủy sản chưa nắm vững sự tập trung khai thác hải sản quá mức ở vùng biển ven bờ đang làm suy giảm tài nguyên và gây tác động xấu đối với môi trường biển, sự ô nhiễm công nghiệp, sự phát triển đô thị quy hoạch và quản lý chưa rõ ràng đang tác động xấu đến khả năng tái tạo nguồn lợi thủy sản ở ven bê. - Nghề cá Việt Nam phải cạnh tranh với nghề cá các nước ASEAN có công nghệ cao hơn. Mặt khác thị trường ngày càng khắt khe hơn về yêu cầu vệ sinh và chất lượng với các quy trình chặt chẽ về quản lý cũng như về đầu tư cao. Để cải tạo điều kiện sản xuất là những bất lợi đối với nước nghèo nh­ Việt Nam. - Nguồn lợi thủy sản chưa được điều tra liên tục, công tác dự báo ngư trường phục vụ cho khai thác chưa thường xuyên các nghiên cứu điều tra nguồn lợi và môi trường chưa gắn với điều tra kinh tế – xã hội, để xây dựng các giải pháp hữu hiệu có tính bền vững của việc sử dụng nguồn lợi. - Chưa có luật thủy sản - Về khai thác hải sản: cơ cấu tàu thuyền chưa hợp lý dẫn đến tình trạng khai thác quá mức. Nghề khai thác hải sản vẫn còn lạc hậu, công nghệ kỹ thuật mới Ýt được du nhập. Thiếu công nghệ tiên tiến, thiếu lao động có kiến thức và kỹ thuật, thiếu cơ sở hạ tầng nh­ cơ khí và dịch vụ hậu cần, thiếu thông tin tiếp thị, thiếu khả năng bảo quản và chế biến ngay trên biển. - Về nuôi trồng: Hạn chế về giống, thức ăn, phòng dịch. Chủ yếu nuôi quảng canh cải tiến một phần thâm canh, năng suất trung bình thấp, nuôi tôm ở một số vùng mới đạt khoảng 250 – 300 kg/ha/ năm. - Về chế biến và xuất khẩu: Thiếu quy hoạch phát triển các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu. Hai phần ba số nhà máy phát triển từ trước những năm 90. Mặt hàng hàng đơn điệu, phần lớn là bán chế phẩm, tiêu hao nguyên liệu cao, giá bán lại thấp, hệ thống kiểm tra chất lượng thủy sản xuất khẩu chưa đồng bộ, chất lượng sản phẩm chưa ổn định, dẫn đến uy tín trên thị trường quốc tế chưa cao. - Công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các loại giống thủy hải sản, thức ăn công nghệ chế biến và các giải pháp xử lý các bệnh tôm cá còn yếu, dẫn đến hiệu quả của ngành chưa cao. III. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của ngành thủy sản Việt Nam Việt Nam là nước có lãnh thổ dạng hình chữ S, có bờ biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, tạo cho Việt Nam có đường biên bờ biển rất dài, có thềm lục địa rộng và hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ. Từ những câú tạo địa lý nh­ vậy đã tạo cho Việt Nam có một lợi thế rất lớn về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Thực tế đã minh chứng bằng việc tăng trưởng liên tục của ngành thủy sản qua các năm vừa qua nó thể hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước. sản phẩm thủy sản đã thực sự góp phần làm thay đổi cơ cấu công nông nghiệp Việt Nam và góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu. Với sản lượng hơn 2,2 triệu tấn thủy sản năm 2001, trong đó hơn 70% cho tiêu dùng nội địa chỉ có gần 30% dành cho chế biến xuất khẩu vậy mà năm 2001 chóng ta đã đạt giá trị kim ngạch tới 1,7 tỷ USD, đưa Việt Nam vào hàng nước có kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới. Tại hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản ( Hà Nội 10/1/2002), báo cáo của Bộ thủy sản đã khẳng định “qua 3 năm thực hiện chương trình xuất khẩu thủy sản đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra, giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2001 đã tăng gấp 2 lần so với trước kh thực hiện chương trình (năm 1998) và có khả năng về trước 3 năm so với mục tiêu của chương trình đã đề ra Năm Giá trị xuất khẩu  1998  1999  2000  2001    0,8586  0,971  1,47  1,7   Để có kết quả trên đó là quá trình mở rộng sản xuất cụ thể đối với lĩnh vực đánh bắt: Bộ thủy sản đã khuyến khích các nhà đầu tư trong nước tăng cường đầu tư vào đóng mới tàu bè; mở rộng ngư trường tăng cường đánh bắt xa bờ. Mặt khác kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tạo môi trường thuận lợi cho họ đầu tư vào lĩnh vực chế biến và xuất khẩu ( ví dụ: những doanh nghiệp đầu tư vào chế biến xuất khẩu được ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, trợ giúp đào tạo nhân công…). Bên cạnh việc đánh bắt ngành thủy sản Việt Nam luôn quan tâm và đề cao đến lĩnh vực nuôi trông, dọc theo bờ biển mỗi năm hàng trăm nghàn ha được đưa vào nuôi trồng và đem lại hiệu quả cao, điều đó nó thể hiện nguồn cung của ngành thủy sản Việt Nam luôn đa dạng và có khả năng đáp ứng được nhu cầu lớn. Từ khi nền kinh tế Việt Nam bước vào hôi nhập với khu vực và thế giới thì ngành thủy sản đã chủ động chuẩn bị cho hội nhập ngay từ năm 1994 ngành đã thực hiện một cuộc cách mạng trong việc xây dựng hệ thống luật lệ về an toàn vệ sinh thực phẩm (thủy sản ); xây dựng cơ quan kiểm soat an toàn vệ sinh thủy sản. Hướng dẫn các doanh nghiệp nâng cấp điều kiện sản xuất và ứng dụng chương trình kiểm soat an toàn vệ sinh theo HACCP nhằm thỏa mãn yêu cầu về an toàn vệ sinh của các thị trường nhập khẩu thủy sản thế giới. Cùng với sự ra đời của trung tâm kiểm ta chất lượng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN) tháng 8/1994 hàng loạt các quy chế, tiêu chuẩn ngành các biểu mẫu, hướng dẫn đánh giá về điều kiện đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm được ban hành. Trong năm 2001, 11 tiêu chuẩn ngành về điều kiện VSATTP cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản được ban hàn. Năm 2002 sẽ tiếp tục ban hành tiêu chuẩn ngành về diễn đảm bảo VSATTP đối với 7 loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản: cơ sở chế biến nước mắm; cơ sở sản xuất nước đá; nuôi cá ba sa; cá tra lồng bè; cơ sở sản xuất cá sinh histamin; cơ sở nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh; kho lạnh; cơ sỏ bán lẻ thủy sản đông lạnh. Việc hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết cuối năm 2001 mở ra triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ, việc khối EU tiếp tục công nhận nhiều cơ sá chế biến thủy sản Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường châu Âu vừa là cơ hội vàng cho thủy sản Việt Nam phát triển, vừa đặt chúng ta trước một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Nếu nh­ năm 1998 cả nước mới có 27 doanh nghiệp chế biến thủy sản đủ điều kiện xuất khẩu hàng thủy sản vào EU thì đến tháng 2/2002 đã có 68 doanh nghiệp được EU công nhận. Nhiều doanh nghiệp lớn đã tự đầu tư máy móc trang thiết bị hiện đại để tự kiểm soát chất lượng và VSATTP. Với sự phân tích về những điểm mạnh bước đầu của ngành thủy sản Việt Nam như vậy có thể khẳng định trong tương lai Việt Nam có thể đủ tiềm năng và điều kiện để trở thành một cường quốc xuất khẩu thủy sản với điều kiện ngành phải tăng cường đổi mới tư duy và khắc phục hạn chế. Bên cạnh những mặt tích cực nh­ vậy không phải ngảnh thủy sản Việt Nam là không có điểm yếu. Vì Việt Nam còn là một nước đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người thấp nguồn vốn hạn chế hơn thế khoa học kỹ thuật còn yếu và thiếu đây chính là mặt trở ngại chung cho ngành thủy sản Việt Nam. Theo dõi tình hình thị trường thế giới vài năm gần đây có thể thấy việc tiêu dùng thủy sản có xu hướng giảm tỷ lệ các sản phẩm đắt tiền và tăng những sản phẩm rẻ tiền hơn. Điều này càng thấy rõ hơn trong năm lượng tiêu thụ vẫn tiếp tục tăng nhưng giá trị lại chỉ tăng Ýt, không tăng hoặc thậm chí còn giảm. Trong năm 2001 Nhật Bản vẫn là thị trường hàng đầu, nhập khẩu tới 3,12 triệu tấn thủy sản tăng 2,6% so với năm 2000 song giá trị nhập khẩu lại giảm 1,6%. Bước sang năm 2002 tình hình thị trường Nhật Bản vẫn tiếp tục ảm đạm, đặc biệt là với các sản phẩm cao cấp như tôm, cá ngừ,… Từ năm 2001 thị trường Mỹ nhập khẩu 1,934 triệu tấn thủy sản, tăng 7,2% so với năm trước, song về giá trị lại trở lại 1,7% tình trạng này còn tiếp tục diễn ra trong thời gian tới. Thị trường ổn đinh nhất vẫn là châu Âu nhưng việc xuất khẩu thủy sản sang thị trường này ngày càng gặp phải những trở ngại. Từ những phân tích chung những thị trường lớn trên thế giới nh­ vậy ta thấy ngành thủy sản Việt Nam còn những điểm yếu cơ bản và điển hình sau: 1. Dinh dưỡng sản phẩm thủy sản: Hầu như các doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy sản hiện nay chưa thực sự coi trọng vấn đề dinh dưỡng, các nhà sản xuất chưa quan tâm đến việc ghi các thành phần dinh dưỡng trên bao bì, nhãn sản phẩm mà đây chính là vấn đề lùa chọn của tương lai. 2. An toàn về thực phẩm Đây là yếu tố quyết định và quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành thủy sản mặc dù Việt Nam quan tâm rất nhiều đến vấn đề này nhưng không thể khắc phục ngay được bởi nó xuất phát từ đặc điểm Việt Nam còn là nước kém phát triển về mọi mặt. Hiện nay ngành thủy sản chủ yếu quan tâm đến xuất khẩu Ýt quan tâm đến thị trường trong nước cả trong phân phối và an toàn thực phẩm điều này sẽ gây ra sự bấp bênh cho ngành thủy sản khi thị trường thế giới có vấn đề. Các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU ngày càng trở nên khó tính đến cực đoan trong lĩnh vực bảo hộ, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm nó đặt ngành thủy sản Việt Nam trước tình trạng phải cần rất nhiều vốn để thay đổi các máy móc thiết bị cần thiết đồng thời phải đào tạo ngay được đội ngò cán bộ quản lý sản xuất, an toàn vệ sinh thực phẩm đây là điều rất khó với thủy sản. Ngành thủy sản Việt Nam còn thiếu hệ thống quản lý đồng bộ dọc từ trung ương đến các cơ sở nuôi trồng, chế biến sản xuất hóa chất thức ăn cho thủy sản nuôi…. 3. Chất lượng sản phẩm thủy sản Ngành thủy sản Việt Nam thường chưa quan tâm đầy đủ đến các tính chất và đặc điểm sản phẩm có thể đo hoăc đánh gía trực tíêp như khối lượng, hình dạng, nhiệt độ, không khí, loài thủy sản màu sắc, vị, kết cấu, kích cỡ, tính đồng nhất thành phần, hàm lượng các chất dinh dưỡng…. 4. Hạn sử dụng của các sản phẩm Các nhà sản xuất thủy sản Việt Nam chưa có thương hiệu hay mâũ mã, bao bì sản phẩm riêng, đây là một hạn chế lớn, chưa chú trọng ghi đầy đủ các yếu tố mà người tiêu dùng luôn quan tâm nh­: ngày sản xuất, hạn sử dụng, nới sản xuất và chịu trách nhiệm khi có vấn đề… 5. Thông tin Các doanh nghiệp sản xuất thủy sản Việt Nam luôn thiếu các thông tin, các Ên phẩm phổ biến kiến thức Ýt chữ nhiều hình thức hoặc các sinh hoạt kiểu hội thi khuyến ngư, hội thu tìm hiểu kỹ thuật, hội thi tìm hiểu về pháp luật thủy sản trong nước và thế giới … 6. Yếu tố môi trường Tại các nước như Nhật Bản, Mỹ và EU người tiêu dùng ngày càng có ý thức về vấn đề sức khỏe và nhận thức về môi trường, hiện nay nhu cầu về thủy sản sạch đang tăng lên trong khi đó các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam thường chưa coi trọng vào vấn đề hiệu quả là trên hết mà chưa quan tâm đến phát triển bền vững. 7. Yếu tố tâm lý xã hội Ngành sản xuất và chế biến thủy sản Việt Nam thường không quan tâm đến yếu tố tâm lý xã hội của các thị trường bạn hàng, trong khi đó đây chính là một bộ phận tác động đến cầu về mặt hàng thủy sản. IV. Giải pháp ngành thủy sản Việt Nam Cần thực hiện tốt 5 mòi công việc ưu tiên chủ đạo điều hành của Bộ như: Lấy cải cách hành chính là trọng tâm; dứt điểm xây dựng quy hoạch tổng thể, tháo gỡ khó khăn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và khai thác hải sản chú trọng giống cho nuôi trồng thủy sản phát triển vững chắc, áp dụng các quy phạm thực tế nuôi tốt ???? trong nuôi trồng thủy sản, bảo đảm nuôi tôm sạch bệnh, an toàn về dư lượng kháng sinh và hóa chất; thực hiện các nghị quyết trung ương về phát triển kinh tế tư nhân để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh… * Nhóm giải pháp về nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ Kết hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau, chú trọng loại công nghệ tạo nhiều việc làm, tốn Ýt vốn để tận dụng nguồn nhân lực dồi dào trong nước, nhất là trong khâu sơ chế. Hình thành cơ cấu công nghệ nhiều tầng. Chú trọng nghiên cứu sử dụng triển khai, nắm bắt và làm chủ được công nghệ mới, công nghệ cơ bản, lùa chọn một số lĩnh vực ngành nghề, đối tượng mà ta có khả năng và lợi thế để nghiên cứu đối đầu. Đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học trong đánh bắt, nuôi trồng, chế biến các sản phẩm chủ lực nhằm tạo ra bước đột phá về công nghệ và kinh tế. Bên cạnh đó phải kết hợp với công nghệ truyền thông và phải phù hợp với điều kiện thực tế của ngành thủy sản. + Chuyển từ công nghệ giản đơn sang áp dụng cơ cấu công nghệ nhiều tầng một cách linh hoạt, theo hướng ngày càng chú trọng tuyển chọn và ứng dụng các công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến, phù hợp với điều kiện ngành thủy sản. + Chuyển từ công nghệ thấp, tốn nhiều tài nguyên có tính hủy diệt nguồn lợi và gây ô nhiễm môi trường sang công nghệ cao sử dụng Ýt nguyên liệu, Ýt vốn, nhiều lao động. + Chuyển từ công nghệ khai thác, nuôi trồng theo hướng đa loài, chạy theo số lượng sang công nghệ mang tính chuyên môn hóa, kết hợp giữa khai thác đa loài với những loài có giá trị cao kinh tế cao, đối tượng có lợi thế so sánh. Chuyển từ công nghệ sản xuất mặt hàng thô, sơ chế là chủ yếu sang công nghệ sản xuất với cơ cấu sản phẩm đa dạng, tinh chế hàm lượng khoa học chiếm tỷ trọng cao trong sản phẩm. * Nhóm giải pháp về cơ cấu ngành - Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng ngày càng tạo ra sự liên kết gắn bó nộ tại giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp. - Từ chỗ là một ngành còn mang tính tự cấp, tự túc sản xuất nhỏ là phổ biến sang ngành sản xuất hàng hóa lớn với năng suất và chất lượng cao, hướng mạnh về xuất khẩu. Chủ yếu dùa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động thủ công, tái sản xuất giản đơn là chính sang cơ cấu kinh tế có khả năng thực hiện tái sản xuất mở rộng phát triển theo chiều sâu dùa trên cơ sở khai thác lao động khoa học kỹ thuật và phát triển nền công nghiệp. - Từ một ngành có cơ cấu mất cân đối và cắt khúc kém hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế cho phép gắn kết giữa các khâu từ khai thác, nuôi trồng, bảo quản chế biến đến thương mại, dịch vụ thành một hệ thống sản xuất thống nhất, linh hoạt, đồng bộ và có hiệu quả cao. Cân đối lại lực lượng lao động theo hướng chuyển dần lực lượng lao động đánh bắt hải sản ven bê sang nuôi trồng và khai thác hải sản ngoài khơi nhằm giải phóng sức sản xuất và phát huy lợi thế so sánh của nghề cá trước thế giới. + Giải pháp phá cầu Để thúc đẩy ngành thủy sản phát triển nhanh và mạnh nước ta phải mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước. Đặc biệt là thị trường ngoài nước thông qua xuất khẩu . Để xuất khẩu thủy sản của nước ta ra thị trường ngoài nước cấn có một số giải pháp sau: - Các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng và quảng bá cho mình một thương hiệu nổi tiếng. - Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài để trau dồi kinh nghiệm còng nh­ công nghệ. - Nước ta phải ra nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế để giảm rào cản thương mại cho các doanh nghiệp Việt Nam. - Nước ta cần có nhứng chính sách cụ thể để khuyến khích xuất khẩu thủy sản nh­: ưu đãi thuế, giúp đỡ về vốn… - Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiều luật chơi của thị trường nước bạn vì hiện nay các doanh nghiệp nước ta rất Ýt thông tin về thị trường nước ngoài nên rất dễ bị gặp những khó khăn khi xuất khẩu. + Giải pháp phía cung - Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển ngành thủy sản phát triển. - Ngành thủy sản nước ta hiện nay chủ yếu là đánh bắt và sơ chế vì vậy nước ta cần phải phát triển về chiều sâu, đi sâu vào chế biến để số lượng hàng phong phú hơn và chất lượng cũng đảm bảo. - Ngành thủy sản Việt Nam hiện nay vẫn rất Ýt vốn đầu tư nước ngoài mà đây là một ngành rất nhiều tiềm năng do đó ta phải kêu gọi nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài vào ngành này. V. Tổng kết Có thế nói ngành thủy sản nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng cơ hội kinh doanh nhiều, có thể mở rộng thị trường ra nhiều nước trong khu vực và thế giới. Riêng đối với thị trường trong nước rất rộng lớn hơn 80,6 triệu dân, là cơ hội lớn để ngành khai thác. Tuy nhiên nó cũng là thách thức đối với ngành thủy sản khi năng lực cạnh tranh còn rất kém. Có thể nói ở thị trường trong nước ngành thủy sản không có nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng trên thị trường thế giới thì thực sự bị cạnh tranh với các đối thủ lớn và ngay cả trong khối ASEAN. Ngành thủy sản là một ngành có sức hấp dẫn lớn với tốc độ tăng trưởng thị trường lớn, thị trường rộng, công nghệ phải đổi mới để phù hợp với các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm và thích ứng với điều kiện tự nhiên biến động thất thường. Có thể nói rào cản nhập ngành Ýt nên trên thị trường thế giới các quốc gia cạnh tranh nhau bằng giá cả. Chính đây cũng là cớ khiến hiệp hội chủ trại cá nheo của Mỹ do không thể cạnh tranh nổi đã tiến hành một hình thức bảo hộ mới là kiện bán phá giá. Do vậy trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ngành thủy sản còn gặp rất nhièu thách thức cả về năng lực cạnh tranh, rào cản kỹ thuật công nghệ, các quy định pháp luật mang tính bảo hộ của các quốc gia. Trước tình hình thế giới đầy biến động như hiện nay đòi hỏi ngành thủy sản nước ta phải nhanh chóng đưa ra các biện pháp kịp thời để đưa ngành phát triển với tốc độ nhanh và bền vững hơn Chuỗi giá trị Cơ cấu tổ chức: quy hoạch vùng nuôi trồng khai thác chưa đồng bộ, hiệu quả sản xuất còn phân tán do quản lý chưa tốt. Hoạt động của các hiệp hội còn kém đặc biệt là sự trợ giúp của hiệp hội thủy sản cho nông dân trong các vụ kiện bán phá giá. R&D: công nghệ nuôi trồng và khai thác lạc hậu, không đủ tiêu chuẩn – ô nhiễm môi trường công nghệ chế biến để nâng cao giá trị thủy sản còn kém. Nhân sù: trang bị kiến thức cho nông dân trong việc nuôi trồng thủy sản kém cán bộ quản lý đầu vào và đầu ra cho ngành còn thiếu và yếu về năng lực. Mua sắm (T/c): Nguồn vốn thiếu, lãi suất còn cao. Chủ yếu đầu tư nhỏ. Cung ứng bên ngoài phụ thuộc vào nguồn thức ăn của các nhà cung cấp  Sản xuất : Công nghệ lạc hậu. sản xuất bị lệ thuộc vào thiên nhiên. Bảo quản sản phẩm kém  Cung ứng nội bộ còn kém, chưa tận dụng lợi thế các loại thủy sản trong ngành  Markekting và phương pháp còn kém, quảng bá sản phẩm thiếu kênh phân phối nhỏ lẻ chưa xuất trực tiếp bị phụ thuộc và điều kiện tiêu chuẩn của khoa học  Dịch vô Vận chuyển đến người tiêu dùng còn kém nên làm cho chất lượng sản phẩm giảm  

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc189thuyan.doc