Trong hợp tác đầu tư, việc bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia quan hệ ĐTNN khi có tranh chấp xẩy ra là điều quan trọng không thể thiếu, nhằm duy trì và ổn định các quan hệ ĐTNN, giải quyết công bằng và thoả đáng các bất đồng, mâu thuẫn của các bên trong hợp tác kinh tế. Quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh việc phân chia lợi ích hoặc kết quả kinh doanh thường dẫn đến các bất động, mâu thuẫn là điều tất yếu, khó tránh khỏi.
Pháp luật đề ra các biện pháp giải quyết tranh chấp không phải là khuyến khích các bân chanh chấp với nhau mà là pháp luật dự liệu trước những khả năng, trường hợp có thể xảy ra, nên có các quy định điều chỉnh kịp thời một khi chúng nảy sinh trong thực tế.
Vấn đề này, Điều 24 Luật ĐTNN 1996 quy đinh: " Các chanh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc giữa các bên liên doanh cũng như các chanh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải". Như vậy theo quy định của pháp luật Việt nam đối với những chanh chấp nêu trên thì bước đầu tiên có tính bắt buộc là phải thông qua thương lượng, hoà giải.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nhập với tất cả các thay đổi và biến động của nền kinh tế thị trường với đặc tính là sự cạnh tranh khốc liệt mà chúng ta vừa mới chuyển sang. Thêm vào đó là sự tan rã của hệ thống XHCN, sự an rã của khối SEV làm cho nền kinh tế Việt nam đang đứng trước nguy cơ bị suy thoái. Trong khi đó đời sống quốc tế lại nổi lên những xu hướng.
* Ưu tiên cho sự phát triển chạy đua về kinh tế, cạnh tranh kinh tế vừa là bài học vừa là thách thức lớn đối với mỗi quốc gia.
* Đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại, muốn làm bạn với các nước có chế độ chính trị khác nhau, đặc biệt là các tổ chức kinh tế có quy mô toàn cầu (IMF, WB).
* Tăng cường hợp tác khu vực như khu vực ASEAN, NAFTA.
Vì vậy một đạo luật mới trong thời kỳ này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều nhà đầu tư muốn đầu tư vào Việt nam nhưng vẫn còn nghi ngại một số vấn đề gây ảnh hưởng đến dự án của họ.
Xuất phát từ những lý do trên, ngày 30/6/1990 luật sửa đổi bổ sung lần 1 ra đời, phù hợp với tình hình thực tế, tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút được vốn ĐTNN.
3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều năm 1990
Sau hơn hai năm thực hiện luật ĐTNN đã mang lại nhiều kết quả khá quan trọng, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điển hhình là tổng số vốn đầu tư nước ngoài năm 1991 bằng cả 3năm trước đó. Sang năm 1992, kết quả thu được còn khả quan hơn nhiều: gấp 1.7 lần năm 1991. Quy mô đầu tư của dự án cũng vì thế mà tăng lên từ 3,5 triệu USD/ dự án năm 1990 lên 7.5 triệu USD năm 1991, 7.6 triệu USD năm 1992.
Tuy nhiên trong tình hình mới, sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế, một số điều hạn chế và bất hợp lý của luật ĐTNN 1987 lại đặt Đảng và nhà nước ta trước một yêu cầu mới, cần bổ sung, sửa đổi sao cho phù hợp. Nhiều khái niệm và quan điểm ở đây cần xem xét lại và đánh giá một cách khoa học. Chẳng hạn như các vấn đề đối tượng điều chỉnh, cơ chế trong liên doanh, tài chính, có như thế ta mới có điều kiện cạnh tranh với các nước trong khu vực nhằm tạo sự hấp dẫn hơn đối với nhà ĐTNN. Chính vì vậy Nghị định 28/HĐBT ngày 6/2/1991 cũng mang một nội dung mới như: quy định về tỷ lệ vốn, kế hoạch góp vốn pháp định Xí nghiệp liên doanh....
Cùng với việc sửa đổi một số nội dung còn có những sửa đổi mang tính văn phòng, kỹ thuật pháp lý.... đòi hỏi các Bộ, các ngành có liên quan cần xem xét, rà soát lại, sửa đổi bổ sung hàng loạt các thông tư hướng dẫn có liên quan nhằm làm cho chế độ pháp lý về ĐTNN ngày càng hoàn thiện hơn, dần dần đi vào cuộc sống và phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, một số dự án lẫn số vốn đầu tư giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước phân bổ không đồng đều, 75% dự án tập trung ở phía Nam, phía Bắc chỉ đạt 25% tổng số dự án, còn miền núi, vùng sâu số dự án chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự gia tăng mạnh mẽ của xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá đã cuốn hút nền kinh tế quốc gia vào quá trình hợp tác hoá và phân công lao động quốc tế. Những nhu cầu mới lại xuất hiện đã làm cho một số quy định của Luật đầu tư 1990 không còn phù hợp nữa và kết quả là luật sửa đổi bổ sung 1992 ra đời.
4. Luật sửa đổi bổ sung lần II 1992
Luật sửa đổi bổ sung này có bản giải quyết được những hạn chế, vướng mắc mà lần sửa đổi bổ sung trước chưa làm được, góp phần thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra trước mắt, đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh.
Dù quy định rất chi tiết nhưng để hướng dẫn cụ thể luật ĐTNN, ngày 16/3/1993 chính phủ đã ban hành nghị định 18/CP nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật ĐTNN. Tiếp theo Nghị định này là Nghị định 29/CP ngày 27/5/1993 của chính phủ quy định những biện pháp khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước, đã tạo nên một thống văn bản về ĐTNN khá hoàn chỉnh, có tác dụng lớn trong việc thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta.
Cũng thời gian này, các văn bản về ĐTNN cũng được ban hành, điều đó chứng tỏ những cố gắng của nhà nước ta trong việc tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Thiện chí đó đã được các nhà ĐTNN nghi nhận và hưởng ứng. Luật ĐTNN đã trở thành một công cụ pháp lý quan trọng khuyến khích các nhà ĐTNN bởi vì các hình thức đầu tư, những bảo đảm về mặt pháp lý, những lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích, ưu đãi được quy định trong luật ĐTNN đã chứng minh điều đấy. Cụ thể là những năm 1988 - 1990 nhịp độ thu hút vốn đầu tư tăng trung bình hàng năm là 51.6% thì đến năm 1992, con số này đã tăng lên xấp xỉ 70% của cả 4 năm đó cộng lại. Với việc bổ sung hợp đồng BOT và khu chế xuất góp phần tạo nên sự phong phú cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Đặc biệt là đến tháng 11/1995 số vốn đầu tư tăng 80% so với năm trước và bằng 30% của tất cả các năm trước cộng lại, lớn hơn số vốn được đưa vào năm 1993 - 1994, tăng 92% so với cùng kỳ năm 1994.
Và theo thời gian, nó cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, để tránh nguy cơ bị tụt hậu trong khu vực, đạt được mục tiêu chiến lược đến năm 2000, phải tạo ra sự thông thoáng hơn nữa về môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật phải thống nhất và đồng bộ. Vì lẽ đó, để hoàn thiện hơn, lần sửa đổi tiếp theo của Luật ĐTNN vào ngày 12/1/1996.
III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LUẬT ĐTNN TẠI VIỆT NAM 1996
Luật ĐTNN tại Việt nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996 bao gồn 6 chương, 68 điều được bố cục như sau:
Chương I: Những quy định cung
Chương II: Hình thức đầu tư
Chương III: Biện pháp đảm bảo đầu tư
Chương IV: Quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà ĐTNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Chương V: Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư Việt nam
Chương VI: Điều khoản thi hành.
Với mục đích chiến lược được nêu rõ trong lời mở đầu " để mở rộng hợp tác kinh tế với đất nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước".
Tiếp liền sau đó là nghị định 12/CP ngày 18/02/1997 do Chính phủ ban hành nhằm quy định chi tiết thi hành luật ĐTNN 1996. Nghị định 12/CP gồn 15 chương, 104 Điều.
Ngoài ra còn rất nhiều văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước khác như: cơ quan nhà nước về hợp tác đầu tư của các Bộ, Cơ quan Ngang bộ để quy định cụ thể việc thi hành luật ĐTNN năm 1996. Phạm vi điều chỉnh của luật ĐTNN là các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 của chính phủ, đối tượng điều chỉnh của Luật ĐTNN tại Việt Nam bao gồm:
1. Doanh nghiệp Việt nam: gồm các thành phầm kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước
- Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật Công ty
- Doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân.
2. Các tổ chức của Việt nam: Thuộc đối tượng nêu tại điều 65 Luật ĐTNN đáp ứng được các điều kiện do Chính phủ quy định gồm bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên hợp tác đầu tư với nước ngoài.
3. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN: là các doanh nghiệp liên doanh giữa bên Việt Nam với bên ngoài và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
4. Người Việt nam định cư ở nước ngoài: đầu tư trực tiếp về nước hoặc chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài, trong cả hai trường hợp này, họ đều hưởng những điều kiện thuận lợi theo quy định tại nghị định 29/CP ngày 27/5/1993 như sau:
- Được giảm 20% số thuế lợi tức phải nộp
- Được nộp thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài ở mức thấp nhất là 5%
- Được uỷ quyền cho thân nhân ở trong nước hoặc định cư ở nước ngoài tham gia hoạt động quốc tế.
- Được tạo điều kiện dễ dàng khi xuất nhập cảnh, lưu trú, đi lại và đặt văn phòng đại diện tại Việt nam để xúc tiến đầu tư kinh doanh.
5. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT: đây là trường hợp đặc biệt, nhà nước cho phép 1 pháp nhân công pháp như UBND tỉnh, cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật cấp bộ được ký các loại hợp đồng đặc biệt như: xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Ngoài ra, có một số lĩnh vực và địa bàn được nhà nước Việt nam khuyến khích như:
- Lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu
- Nuôi trồng chế biến nông lâm thuỷ sản
- Sử dụng công nghệ cao, kinh tế hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
- Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt nam.
Địa bàn gồm:
* Miền núi, vùng sâu, vùng xa.
* Những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Và nhà nước Việt nam sản xuất không cấp giấy phép ĐTNN vào các lĩnh vực gây thiệt hại đến quốc phòn, an ninh quốc gia, di tích lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái.
Về hình thức đầu tư thì luật ĐTNN quy địnhcác hình thức như sau:
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm.
Đặc điểm của hình thức này:
Các bên trong nước và nước ngoài hợp tác thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó trong một thời gian, không gian nhất định theo hợp đồng quy định. Sự hợp tác này không tạo nên một pháp nhân tư pháp. Trước pháp luật các bên tự chịu trách nhiệm về phần việc của mình.
Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ về thuế theo luật ĐTNN tại Việt nam. Bên Việt nam thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo các quy định áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước.
* Doanh nghiệp liên doanh.
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác với nhau để thành lập doanh nghiệp liên doanh tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với nhà ĐTNN hoặc với doanh nghiệp Việt nam để thành doanh nghiệp liên doanh mới tại Việt nam. Doanh nghiệp này được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Một hoặc nhiều bên nước ngoài tham gia là liên doanh góp vốn pháp định ít nhất phải là 30% tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Được thành lập theo hình thức Công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Tổ chức hoặc cá nhân ở nước ngoài được tự mình quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt nam. Doanh nghiệp này còn được hợp tác với doanh nghiệp Việt nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Ngoài ra luật ĐTNN 1996 còn đề cập đến quyền và nghĩa vụ của nhà ĐTNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN quy định ở chương IV.
Chương này thể hiện rõ các chính sách khuyến khích ĐTNN tại Việt nam qua việc miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức trong quá trình hoạt động. Doanh nghiệp liên doanh còn được chuyển khoản lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm kế tiếp và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của các năm tiếp theo. Nếu tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp sẽ được hoàn lại một phần hay toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư. Nếu nhà đầu tư nước ngoài là người Việt nam định cư ở nước ngoài còn được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nếu có thay đổi về điều kiện đầu tư thì việc miễn giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh do bộ Tài chính quyết định.
Các doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá từ khu chế xuất khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất. Doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong khu công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư.
IV. LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG NGÀY 9/6/2000
Để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Luật nay sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996.
Luật sửa đổi bổ sung này có một số điểm mới như sau:
Theo điều 19a " doanh nghiệp có vốn ĐTNN các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp.
Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư chia, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp".
Ngoài ra, luật ĐTNN còn sửa đổi bổ sung một số điều tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN về thủ tục hành chính, chính sách thuế.... Bên cạnh đó một số quy định khuyến khích đầu tư ngoài nước từ người Việt nam ở nước ngoài, nhằm thu hút nguồn vốn ĐTNN khá phong phú mà lâu nay chưa khai thác đúng mức. Điều 44 sửa đổi như sau:
" Người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật này được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%; được áp dụng mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 3% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài".
PHẦN II
CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM
Bảo hộ ĐTNN là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN. Thật vậy, để phát triển ĐTNN, huy động được một nguồn vốn lớn từ các nước đầu tư sang nước nhận đầu tư, thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng là nước nhận đầu tư phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi nhằm bảo hộ và tăng cường vốn đầu tư.
Trên thực tế, vấn đề bảo hộ ĐTNN là một phạm trù rất rộng bao gồm nhiều biện pháp do nước nhận đầu tư đề ra để đảm bảo quyền và lợi ích thiết thực chính đáng cho các nhà ĐTNN trong suốt quá trình đầu tư vào nước chủ nhà. Bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chất chính trị - pháp lý được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư ở các nước.
Bảo hộ ĐTNN về mặt pháp lý là một khái niệm phức tạp, hết sức nhậy cảm, nó liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện sự cần bằng lợi ích cho cả hai bên - bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tất cả các nước trên thế giới khi thực hiện chủ trương thu hút vốn ĐTNN đều có mục đích là đạt được lợi ích cho đối tác của nước mình, nhưng chính lợi ích này lại có một quan hệ chặt chẽ tới lợi íc của phía nước chủ nhà. Mọi sự thay đổi trong chính sách pháp luật của nước sở tại sẽ làm ảnh hưởng sâu sắc tới lợi ích của các bên đầu tư, nhất là bên đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, muốn hài hoà lợi ích của hai bên đầu tư trong hợp đồng đầu tư thì nhà nước cần phải tạo sự ổn định về mặt pháp lý. Có như thế thì môi trường đầu tư mới thực sự hấp dẫn và thu hút các nhà ĐTNN.
Hiện nay, khái niệm bảo hộ đầu tư có thể hiểu theo hai nghĩa:
* Theo nghĩa hẹp: Bảo hộ đầu tư là sự bảo đảm về vốn và những tài sản hợp pháp khác mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Điều này có nghĩa là nước sở tại thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu của nhà ĐTNN đối với các vốn và tài sản hợp pháp khác của họ. Nhà đầu tư không thể tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh nếu như nước sở tại không có biện pháp bảo toàn vốn và tài sản của họ. Do vậy mà vấn đề về vốn được đặc biệt quan tâm và việc bảo đảm vốn được đưa lên hàng đầu.
* Theo nghĩa rộng: Bảo hộ đầu tư không chỉ bao gồm vấn đề bảo đảm vốn và tài sản của nhà đầu tư đưa vào nước nhận đầu tư mà là bao gồm cả việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng về mọi mặt, đặc biệt là môi trường pháp lý để nhà ĐTNN phát huy được hiệu quả của đồng vốn và những tài sản khác trong quá trình đầu tư.
Thực tiễn cho thấy các nhà ĐTNN không những quan tâm đến việc bảo vệ đồng vốn mà còn vô cùng quan tâm đến hiệu quả đầu tư. Môi trường đầu tư thuận lợi là tổng thể những vấn đề có liên quan đến địa lý, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tất cả phải ổn định thì mới tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài phát huy hiệu quả cao nhất. Môi trường pháp lý không có tính đồng bộ, thống nhất, ổn định thì đương nhiên lợi ích của nhà đầu tư không được đảm bảo.
Bảo hộ đầu tư là việc thừa nhận về mặt pháp luật quyền của nhà ĐTNN đối với các khoản lợi nhuận sinh ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như việc chuyển lợi nhuận và tài sản của họ ra nước ngoài một cách dễ dàng.
Ngoài ra bảo hộ đầu tư còn bao gồm cả việc nhà nước phải tạo ra một cơ chế công bằng, thuận lợi, thoả đáng cho các nhà ĐTNN khi có chanh chấp xảy ra.
Tóm lại bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chất chính trị - pháp lý, được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư của các nước. Hay nói đúng hơn bảo hộ ĐTNN là chế độ pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nước nhận đầu tư ban hành, nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vai trò của biện pháp bảo đảm này được khẳng định dựa trên các đặc tính của pháp luật.
Trong thực tế, tuỳ thuộc vào chính sách ĐTNN cũng như tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia mà nội dung của các biện pháp bảo hộ ĐTNN nhưng đều tập trung vào các vấn đề sau:
* Quyền sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài
* Chế độ pháp luật mà nước nhận đầu tư đối với bên nhận đầu tư ( chế độ đãi ngộ như công dân, chế độ có đi có lại, chế độ báo phục quốc).
* Sự ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật
* Vấn đề giải quyết tranh chấp
* Do đó mà Chính phủ các nước và nhà đầu tư nước ngoài đều mong muốn nâng cao giá trị pháp lý của các biện pháp bảo hộ đầu tư, không chỉ gói gọn trong luật quốc hội mà còn được ghi nhận trong các hiệp định bảo hộ đầu tư được ký kết giữa các quốc gia mới nhau.
Tính đến tháng 11 năm 1997 nhà nước đã ký 30 hiệp định bảo hộ đầu tư với 30 quốc gia đó là: Thái Lan, Malaysia. Indonexia, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Áo, Úc, Ý, Pháp, Đức, Bỉ, Cu Ba, NewZealand...
II. TẠI SAO CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Đầu tư để kinh doanh là việc bỏ vốn bằng tiền hay tài sản, hiện vật để tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm phát sinh lợi nhuận. Vì vậy tất cả các chủ đầu tư nước ngoài đều quan tâm đến vấn đề bảo đảm vốn đầu tư, các bảo đảm đối với các hoạt động kinh doanh (về biện pháp chanh chấp, bồi thường khi có sự thay đổi của pháp luật) và quan tâm đến cả biện pháp tài chính mà nhà nước áp dụng cho mình. Không nhà đầu tư nào đem của cải của mình đầu tư vào một nơi mà vốn và tài sản của mình có nguy cơ bị tước đoạt, hoạt động kinh doanh luôn gặp khó khăn.
Đầu tư là một hoạt động hướng về tương lai, nó diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài và phải chịu sự tác động của những biến động về kinh tế, xã hội và cả chính pháp luật cũng không nằm ngoài số đó, nếu không muốn nói là chúng khá quan trọng. Một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ là điều kiện lý tưởng cho hoạt động đầu tư. Các chính sách, pháp luật thường có nhiều thay đổi và đôi khi gây bất lợi cho nhà đầu tư. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là cùng với việc cố gắng tạo lập một môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi và ổn định, bảo đảm điều chỉnh kịp thời các quan hệ đầu tư vừa nẩy sinh, nhà nước cần có những cam kết về mặt pháp lý nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản, bảo đảm các điều kiện hoạt động kinh doanh cho các chủ đầu tư nhằm giải toả tâm lý lo sợ, e dè của họ, động viên họ yên tâm bỏ vốn đầu tư dài hạn ở Việt nam, Điều 1, Luật đầu tư nước ngoài 96 quy định: " nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà ĐTNN, tạo những điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà ĐTNN vào Việt nam".
Ngay cả một số luật khác trong các ngành nghề khác hay lĩnh vực có liên quan đến ĐTNN, nhà nước cũng xây dựng các nguyên tắc bảo đảm trên khi kêu gọi ĐTNN. Chẳng hạn Điều 2, Luật Dầu khí 19/7/1993 quy định: " nhà nước Việt nam bảo đảm quyền sở hữu về vốn đầu tư, tài sản và các quyền lợi hợp pháp của các tổ chức cá nhân nước ngoài và Việt nam tiến hành các hoạt động dầu khí ở Việt nam" hay tại khoản 8, Điều 5, Luật Khoáng Sản 20/03/1996 cũng ghi nhận: " Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của các tổ chức cá nhân, tập thể trong hoạt động khoáng sản theo quy định của Luật khoáng sản và các quy định khác của pháp luật". Để xây dựng đất nước, Việt nam sẵn sáng hợp tác kinh tế với nước ngoài, làm bạn với tất cả các quốc gia: " Chính phủ Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam " (Điều 20, Luật Đầu tư nước ngoài năm 96). Việc đối xử bảo đảm đúng với pháp luật Việt nam, Phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam ký kết hay tham gia và phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Những nguyên tắc và những quy định trên đã được pháp điển hoá và đạo luật cơ bản của đất nước, cụ thể là điều 25, hiến pháp 1992. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc quy định các biện pháp pháp lý cụ thể đối với ĐTNN, khắc phục các quan điểm không rõ ràng trong vấn đề quốc hữu hoá có thể xảy ra theo các quy định của luật tư pháp quốc tế trong trường hợp vì lợi ích quốc gia hay " Bảo lưu trật tự công cộng".
Như chúng ta đã biết, Việt nam là một nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thu nhập bình quân đầu người ở mức 200 USD/năm thì việc thu hút vốn đầu tư là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư cung - cầu vốn đầu tư trên thế giới lại có biến động lớn, số nước kêu gọi đầu tư ngày càng tăng, nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài khoảng 300 tỷ USD như nguồn vốn chỉ có 200 tỷ USD đầu tư vào các nước phát triển, số còn lại đầu tư vào các nước đang phát triển bao gồm cả Việt nam mà mục tiêu của nhà nước ta đề ra đến năm 2000 phải thu hút được 2 tỷ USD do đó sự cạnh tranh của các nước đang phát triển về vấn đề này lại càng gay gắt hơn, vì vậy việc cải tạo mô trường đầu tư ngày càng hoàn thiện và có sức hấp dẫn là một điều tất yếu mà nhà nước chúng ta phải làm.
Hiện nay dù điều kiện về địa bàn tự nhiên của nước ta thuận lợi cộng với tất cả những biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhưng các nhà ĐTNN vẫn còn tâm lý e dè, bởi môi trường đầu tư ổn định mới là điều quan trọng hàng đầu vì nó chính là yếu tố chung bao hàm những yếu tố khác. Một số nhà ĐTNN cho rằng rủi ro ở Việt nam cao hơn các nước khác trong khu vực một phần vì cơ sở hạ tầng của ta quá kém, đồng tiền Việt nam chưa chuyển đổi được, thị trường Việt nam không những bị hạn chế, khả năng bảo hộ sản xuất yếu, chính sách pháp luật thực hiện không nghiêm " Phép vua thua lệ làng", hiện tượng hàng gian, hàng giả tràn lan mà nhà nước ta chưa có biện pháp bảo vệ, Việt nam lại chưa ra nhập các công ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả, chưa ký kết các hiệp định song phương về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Mặc dù hệ thống pháp luật của ta mang tính khuyến khích cao nhưng thực sự chưa tạo được sự an toàn cho nhà đầu tư, vẫn còn các văn bản pháp luật thiếu nồng độ, chồng chéo, thậm chí vô hiệu hoá lẫn nhau và ban hành không phù hợp với thực tiến hoạt động đầu tư, chậm sửa đổi, bổ sung gây ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của nhà đầu tư.
Trong giai đoạn từ nay đến 2005, muốn đạt được mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng và nhà nước đề ra, chắc chắn ta phải xây dựng một cơ chế bảo hộ đầu tư hữu hiệu vững chắc, hợp lý để có thể thu hút các dự án đầu tư lớn như công trình, cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước. Có thể nói, đối với những dự án có độ rủi ro cao, vốn đầu tư lớn thì cần phải có sự bảo đảm tuyệt đối của nước chủ nhà.
Qua phân tích trên đã chứng minh cho thấy việc ổn định pháp luật, ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế sẽ góp phần nào tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề bảo hộ đầu tư không phải do ngẫu nhiên mà có, nó xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của nước ta cũng như suất phát từ tình hình thực tiễn ĐTNN tại Việt nam đã nêu trên.
III. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Hiện nay nước ta đang ở trong khu vực có sự hợp tác về kinh tế lại vừa có sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn ĐTNN. Vì vậy, việc nhanh chóng cải cách môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn là điều vô cùng cần thiết và quan trọng.
Như vậy có thể nói xu hướng và chính sách phát triển kinh tế của nhà nước ta là nhằm tới việc bảo đảm một cách tốt nhất tài sản và vốn đầu tư của nhà ĐTNN bằng những cơ sở pháp lý có giá trị nhất định. Chừng mực nào đó có thể nói trong giai đoạn hiện nay, những bảo đảm và ưu đãi mà nhà nước ta đã giành cho các nhà ĐTNN còn có phần cao hơn so với chủ đầu tư trong nước. Điều đó cũng dễ hiểu và hợp lý, bởi vì lúc này chúng ta đang tranh thủ thu hút các nguồn vốn ở nước ngoài nhằm trợ giúp sản xuất trong nước có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.
Những biện pháp đầu tư được ghi nhận trong việc ĐTNN Việt nam bao gồm những vấn đề sau:
1. Vấn đề bảo đảm vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy mà vấn đề trước tiên là phải có biện pháp bảo đảm cho sự an toàn của đồng vốn nhất là về mặt pháp lý thì từ đó mới có thể phát sinh những lợi nhuận của nhà đầu tư.
Chính vì vậy mà tại Điều 21 Luật ĐTNN quy định: " Trong quá trình đầu tư vào Việt nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá. Nhà nước CHXNCH Việt nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà ĐTNN trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt nam ".
Quy định này phù hợp với điều 25 Hiến pháp 1992: " Nhà nước Việt nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân Xí nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá". Chính điều này đã xoá tan được nỗi e ngại của các nhà ĐTNN.
Theo lệ thường, khi di chuyển vốn và tài sản sang nước ngoài để đầu tư, các chủ đầu tư thường lo sợ những quy định trong đạo luật quốc hữu hoá của quốc gia đó sẽ tước đoạt đi quyền sở hữu của họ đối với khối tài sản mà họ có.
Vì vậy, một khi hiến pháp và các đạo luật cơ bản Pháp đã xây dựng biện pháp bảo đảm này thì coi như đã chút đi gánh nặng cho họ.
Luật ĐTNN 96 sửa đổi ngày 9/6/2000 khẳng định: Điều 21a " Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong giấy phép đầu tư vào luật này hoặc được nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây:
a. Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án;
b. Miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật;
c. Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp;
d. Được xem xét bồi thường thoả đáng trong một số trường hợp cần thiết.
Các quy định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Mặc dù không phải bất cứ trường hợp thiệt hại nào cũng được giải quyết theo hướng bồi thường, mà chỉ có một số trường hợp cần thiết, nhưng quy định này có ý nghĩa khá quan trọng đối với các chủ ĐTNN đang tiến hành hoạt động kinh doanh ở Việt nam. Cho phép họ được giảm đến mức thấp nhất các thiệt hại có thể xảy ra một khi chính sách pháp luật Việt nam có sự thay đổi làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Đồng thời mục đích của quy định bảo đảm này cũng nhằm duy trì và ổn định hoạt động kinh doanh, tránh sự sáo trộn không cần thiết.
Nhà nước Việt nam lúc nào cũng muốn tạo điều kiện tốt nhất cho nhà ĐTNN yên tâm tin tưởng đầu tư vào Việt nam. Nhà đầu tư luôn nhận được sự đối xử thoả đáng từ phía nhà nước ta. Chính sách nhất quán này đã được Luật ĐTNN 96 ghi nhận: " nhà nước CHXNCH Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đố với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam".
Vậy, với những quy định pháp luật nha nhau trong cùng một điều kiện, những quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như nhau, tất cả đều bình đẳng trong một môi trường đảm bảo chung.
Nhà nước Việt nam hoàn toàn ủng hộ, khuyến khích những dự định tốt đẹp của các nhà ĐTNN, thể hiện ở việc nhà nước ta đã giành sự ưu đãi của mình đối với vốn của bên chủ đầu tư như: đa dạng hoá vốn góp, không quy định thời hạn bắt buộc cho việc góp vốn và người đầu tư có quyền quyết định sử dụng vốn trong khuôn khổ pháp luật Việt nam.
Điều 7 Nghị định 12/CP nêu rõ: " Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không thành lập pháp nhân" hay tại điều 26 ghị định 12/CP "doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu ủa nhà ĐTNN do nhà ĐTNN thành lập tại Việt nam, tự quản và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh". Điều 46 ghị định 12/CP cũng nghi nhận: "doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có quyền tự chủ kinh doanh theo mục tiêu quy định trong giấy phép đầu tư, được nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải, trực tiếp hoặc uỷ quyền xuất khẩu về tiêu thụ sản phẩm của mình để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật".
Tâm lý chung của các nhà ĐTNN khi đầu tư vào Việt nam họ rất lo sợ Chính phủ Việt nam bằng các biện pháp hành chính thực hiện quyền lực của mình đối với tài sản của người nước ngoài. Sự lo ngại này không phải là không có căn cứ vì thực tế điều này đã xảy ra say ngày Việt nam giành được độc lập. Luật Quốc tế ngày nay cũng thừa nhận quyền quốc hữu hoá nhưng phải có sự đền bù thoả đáng và trong trường hợp vì lợi ích quốc gia.
Việc từ bỏ quyền quốc hữu hoá thể hiện sự nhất quán của nhà nước Việt nam trong việc bảo đảm vốn, tài sản của nhà ĐTNN, nó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu thu hút vốn của nhà nước Việt nam cũng như thông lệ quốc tế, nhất là đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á và một số nước khác. Chẳng hạn như đạo luật khuyến khích ĐTNN của Malaysia (Promotion of Investment Act 1986) ghi nhận: " Trong quá trình hoạt động của Công ty nước ngoài ở liên bang, chi phí bảo đảm cho các nhà đầu tư không bị trưng thu sở hữu của họ, và được đền bị hoàn toàn trong trường hợp bị quốc hữu hoá, người đầu tư được tự do hồi hương vốn và chuyển lợi nhuận về nước". Indonexia cũng hết sức quan tâm đến vấn đề bảo hộ đầu tư, coi đây là tiền đề đê thu hút vốn ĐTNN. Điều 21 luật ĐTNN 1967 đã chỉ ra những biện pháp ưu đãi, bảo hộ đầu tư. Chính phủ Indonexia còn đưa ra các quyết định nhằm xác định tính ổn định, lâu dài, tạo điều kiện cho chủ đầu tư yên tâm trong quá trình thực hiện hợp đồng, quy chế bồi hoàn đố với khoản đầu tư khi gặp rủi ro, hoặc những công trình bị nhà nước quốc hữu hoá " Chính phủ không quốc hữu hoá, không tước bỏ các quyền sở hữu của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, không thể hiện các biện pháp hạn chế các quyền kiểm soát hoặc quyền quản lý của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trừ khi luật quy định rằng lợi ích của quốc gia đòi hỏi phải thực hiện biện pháp đó. Nếu có bất kỳ sự kiện nào xảy ra thì khoản thiệt hại sẽ được đền bù hợp lý với các nguyên tắc cuả luật quốc tế, sự thiếu sót trong thoả thuận, phần đền bù sẽ được quyết định bởi trọng tài".
Tại Điều 19 luật ĐTNN của Indonexia còn quy định doanh nghiệp có vốn ĐTNN được quyền chuyển vốn, lợi nhuận bằng ngoại tệ đầu tư ra nước ngoài với tỷ giá hiện hành.
Luật ĐTNN (1993) của Philipines còn quy định đảm bảo ĐTNN không bị trưng thu trừ trường hợp vì mục đích công cộng hay lợi ích quốc gia. Trong trường hợp này, nhà ĐTNN sẽ được nhận các khoản bồi thường thoả đáng bằng ngoại tệ mà họ đã sử dụng để đầu tư. Pháp luật Trung Quốc, Hàn Quốc đều quy định bảo đảm tài sản nhà ĐTNN không bị trưng thu.
Như vậy hầu hết các nước trong khu vực như: Việt nam, Đài Loan, Malaysia, Philipines, Hàn Quốc, Indonesia đều ghi nhận việc không quốc hữu hoá hay không trưng thu doanh nghiệp có vốn ĐTNN của nhà đầu tư khi đầu tư vào nước mình, đồng thời nêu rõ nếu có sự thay đổi của pháp luật nước chủ nhà gây thiệt hại hay trưng thu thì các nhà ĐTNN sẽ nhận sự bồi thường thoả đáng tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà việc bồi thường được xác định khác nhau, nhưng nó chung là đều giải quyết công bằng thoả đáng quyền lợi nhà ĐTNN.
Riêng Đài Loan thì việc quy định bảo hộ đầu tư cỉ được áp dụng có điều kiện trong một số trường hợp nhất định mà thôi. Đó là ĐTNN được đảm bảo không bị trưng thu vòng 20 năm từ khi bắt đầu dự án nếu như phần vốn góp nước ngoài trong dự án đó tối thiểu là 45%. Nếu phần vốn góp nước ngoài ít hơn 45% thì nhà đầu tư không được hưởng sự đảm bảo trên, nhưng trong trường hợp bị trưng thu vì mục đích quốc phòng thì sẽ được đền bù thoả đáng bằng ngoại tệ mà nhà ĐTNN sử dụng để đầu tư.
Qua những quy định về bảo hộ đầu tư của các nước đã cho ta thấy quy chế bảo hộ đầu tư của Việt nam đố với vốn và tài sản của nhà ĐTNN được mở rộng và triệt để hơn so với các nước trong khu vực hay nói cách khác môi trường bảo hộ đầu tư của Việt nam hấp dẫn hơn.
Sở dĩ luật Việt nam quy định như vậy vì ngoài việc thu hút mạnh nguồn vốn ĐTNN như đã trình bày ở các phần trên, nó còn xuất phát từ nhận thức rằng các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, dù tài sản phần lớn là sở hữu của người nước ngoài (trừ phần của bên Việt nam trong liên doanh hoặc phần thuê của nhà nước Việt nam như đất đai....) nhưng tất cả đều là pháp nhân Việt nam. Do đó những cơ sở vật chất như: nhà xưởng, vật kiến trúc, khách sạn, cầu cống, đường xá không thể dỡ bỏ hoặc di chuyển ra nước ngoài được. Mặt khác, nước ta chỉ áp dụng chế độ cho thuê đất có thời hạn, hết thời hạn cho thuê trong giấy phép đầu tư, đất đai phải được hoàn trả lại cho nước chủ nhà. Cho nên các doanh nghiệp có vốn ĐTNN dù thuộc sở hữu người nước ngoài nhưng với sự điều tiết vĩ mô đúng đắn của nhà nước, cuối cùng sẽ là tài sản của nhà nước Việt nam một cách hợp pháp trên cơ sở thoả thuận. Và nhà nước ta càng có những biện pháp bảo hộ đầu tư một cách hợp lý, hấp dẫn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp liên doanh tồn tại thì càng có cơ hội tiếp quản cơ sở vật chất phát triển do các nhà ĐTNN để lại.
Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghệ khi nhà ĐTNN chuyển giao vào Việt nam cũng được nhà nước ta quan tâm vì nó có ý nghĩa lớn đến sự thành bại trong hoạt động đầu tư của họ. Điều 21 luật ĐTNN 96 cũng đã quy định: nhà nước CHXHCN Việt nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà ĐTNN trong hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt nam ".
Vấn đề là thời hạn bảo hộ hợp đồng chuyển giao công nghệ vào Việt nam như thế nào. Để phù hợp với lý luận và thực tế hoạt động đầu tư ở chỗ công nghệ được chuyển giao và gắn liền với hoạt động của dự án đầu tư, có khi nó lại tồn tại dưới dạng vốn góp và như vậy nó đương nhiên theo suốt số phận của dự án. Cho nên tại khoản 2 điều 810 Bộ luật dân sự có quy định: " Thời hạn chuyển giao công nghệ theo dự án ĐTNN vào Việt nam được tính theo thời hạn đầu tư". Đây là một quy định mang tính khoa học, được các nhà ĐTNN đánh giá cao so với các nước trong cùng khu vực. Chẳng hạn như Malaysia thời hạn bảo hộ đối với bản quyền là 15 năm, còn Hàn Quốc là 20 năm. Như vậy, bảo hộ đầu tư của nhà nước ta là khá đầy đủ và thông thoáng.
Tóm lại, để tạo cơ sở pháp lý ổn định, tạo môi trường đầu tư tốt, tạo sự tin tưởng và an tâm cho các nhà ĐTNN về vốn, tài sản hợp pháp khác mà họ mang vào Việt nam để đầu tư nhà nước ta bằng những quy định có giá trị pháp lý đã quy định việc bảo hộ vốn, tài sản hợp pháp của họ một cách rõ ràng, cụ thể.
Tuy nhiên thực tế đã chứng minh. Muốn thu hút rộng rãi nguồn vốn ĐTNN, ngoài việc quy định trong luât, chúng ta còn phải áp dụng các biện pháp đồng bộ khác để các nhà đầu tư có thể yên tâm tin tưởng hơn. Muốn đạt được yêu cầu này, chúng ta phải xây dựng chính sách "Bảo đảm vốn đi đôi với việc bảo đảm kinh doanh", chính sách bảo đảm, "rủi ro phi thương mại" đi đôi với việc " Bảo hiểm", tái bảo hiểm vốn ĐTNN do nhà nước thực hiện. Và nhất là đỏi hỏi nước chủ nhà phải thực hiện tốt, từ đó mới thúc đẩy một cách có hiệu quả hoạt động ĐTNN.
2. Biện pháp bảo đảm cho nhà ĐTNN chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản vay ra nước ngoài dễ dàng, thuận lợi.
Đầu tư nước ngoài là việc chuyển vốn, kỹ thuật từ nước này sang nước khác của các chính phủ và các cá nhân nhằm thu được lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh . Có thể nói, mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là việc thu lợi nhuận - càng nhiều càng tốt - vì vậy, ngoài việc đòi hỏi đồng vốn của mình được bảo đảm, họ còn quan tâm đến việc làm sao cho lợi nhuận của họ ngày càng nhiều.
Muốn vậy họ phải được tự do với số lợi nhuận đó, phải được tự do chuyển và chuyển kịp thời về nước những gì họ đạt được cũng như những gì thuộc sở hữu của họ khì cần thiết. Có như vậy thì việc đầu tư của họ mới đích thực có ý nghĩa .
Để tỏ rõ thiện chí của mình và cũng là cơ sở đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả, nhà nước Việt nam đã tạo mọi điều kiện ưu đãi cho các nhà đầu tư, trong đó có việc tự do chuyển lợi nhuận, vốn và các khoản vay ra nước ngoài. Vì vậy mà tại điều 22 luật ĐTNN quy định:
" Các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt nam và được chuyển ra nước ngoài:
* Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
* Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ
* Tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động
* Vốn đầu tư
* Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình.
Đây là quy định thực sự làm cho các nhà ĐTNN càng an tâm hơn khi bỏ vốn đầu tư vào Việt nam, vì bất cứ quốc gia nhận đầu tư nào cũng đều quan tâm nó phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong quá trình hoạt động của một dự án đầu tư, không những là có sự trợ giúp của cả hai bên mà các bên còn lựa chọn các đối tác khác nhằm cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, vì mỗi tập đoàn đầu tư có thế mạnh riêng của mình. Đây là việc làm hoàn toàn hợp lý mang tính kỹ thuật trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, trình độ khoa học, công nghệ của ta hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu đó. Vì vậy việc mời các tập đoàn khác cung cấp kỹ thuật, dịch vụ là một yếu tố cần thiết, khách quan, cần được pháp luật cho phép. Và như vậy việc chuyển tiền trả cho các tập đoàn này là điều tất yếu. Hoặc như những dự án đầu tư có tính quy mô nhỏ, chẳng hạn như các dự án thuộc lĩnh vực: khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất xi măng, sắt thép... sẽ cần một lượng vốn đầu tư rất lớn và các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực này không phải ai cũng có đủ thực lực về tài chính, mà đôi khi học cũng đi vay vốn của bất kỳ tổ chức, cá nhân nước ngoài khác. Cho nên pháp luật quy định cho họ chuyển tiền gốc và tiền lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động đầu tư là điều hợp lý.
Ngoài ra Điều 23 Luật ĐTNN còn quy định cho phép người nước ngoài làm việc tại Việt nam trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc làm cho các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật sẽ được chuyển phần thu nhập hợp pháp của mình ra nước ngoài. Điều này thể hiện chính sách cởi mở của nhà nước ta trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhà ĐTNN phát huy hiệu quả đồng vốn. Pháp luật Việt nam cũng cho phép họ được chuyển thu nhập hợp pháp bằng sức lao độngcủa mình về nước, điều này là hoàn toàn hợp lý.
Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Pakistan, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan.... đều cho phép chuyển vốn đầu tư về nước sau khi dự án ngừng hoạt động và các nhà đầu tư đã thanh toán song các nghĩa vụ về nợ, thuế... cho thấy với những quy định trên, Việt nam đã hoà nhập được với môi trường chung của các nước trong khu vực về lĩnh vực bảo hộ ĐTNN.
Ấn Độ quy định nếu nhà ĐTNN muốn chuyển vốn ĐTNN về nước bằng cách bán cổ phần cho một nhà ĐTNN khác thì không có sự đồng ý của chính phủ, nếu như bán cho người Ấn Độ thì phải xin phép Ngân hàng dự trữ Ấn Độ.
Còn Trung Quốc và Việt nam thì quy định khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấm dứt hoạt động quá trình thanh lý doanh nghiệp sẽ diễn ra trong một thời gian nhất định với sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan tài chính như:cục thuế, ngân hàng.... Đối với việc trả các khoản thuế vay nước ngoài, cả 10 nước trên đều cho phép chuyển các khoản vay này bao gồm cả gốc và lãi ra nước ngoài sau khí có sự xác nhận về các khoản vay của ngân hàng nhà nước.
Riêng Pakistan đánh thuế khấu trừ đối với tiền trả lãi của khoản vay nước ngoài, còn ở Việt nam thì các khoản sẽ vay nước ngoài và lãi suất vay phải được nêu rõ trong luận chứng kinh tế, kỹ thuật của các nhà ĐTNN. Việt nam cũng quy định cho phép nhà đầu tư chuyển lợi nhuận ra nước ngoài sau khi trừ các khoản thuế ( thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài) giống như Pakistan, Philipire, Ấn Độ, Indonexia, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan thì cho phép tự do chuyển lợi nhuận thu được từ đầu tư.
Trung Quốc, Malaysia cũng quy định tương tự các nước trong khu vực nhưng thủ tục chuyển có khác: đánh thuế khấu trừ đối với việc nhuận chuyển ra nước ngoài.
Đối với lĩnh vực chuyển các khoản thu nhập ra nước ngoài thì Hàn Quốc, Thái Lan, Phlipine, Việt Nam quy định khá giống nhau: cho phép các nhà ĐTNN tự do chuyển ra nước ngoài các khoản tiền và tài sản thuộc sở hữu pháp lý cuả họ.
Đài Loan thì lại khống chế lượng tiền gửi ra nước ngoài, nước này quy định giới hạn ở mức 10 triệu USD/năm, nếu lượng tiền mỗi lần chuyển vượt quá 0,1 triệu USD/ năm thì phải nộp đơn xin chuyển tiền cho ngân hàng trước 10 ngày.
Ở Pakistan thì không được chuyển về nước quá 5% thu nhập sau khi đánh thuế, chuyển các khoản phí kỹ thuật, tiền bản quyền... ra nước ngoài đều phải chịu thuế khấu trừ.
Indonêxia quy định các nhà đầu tư nước ngoài được pháp chuyển các khoản lượng, tiền khấu hao, tiền lãi do bán cổ phần cho công nhân hoặc các Công ty của Indonexia, tiền được đền bù nếu bị quốc hữu hoá.
Ấn Độ, người nước ngoài được chuyển các khoản lương, tiền bản quyền, phí dịch vụ, kỹ thuật nếu các khoản thu nhập này dựa trên hợp đồng đã được chính phủ hay ngân hàng dự trữ Ấn Độ chuẩn y.
Riêng Trung Quốc thì cho phép người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phép chuyển lương và các khoản thu nhập hợp pháp ra nước ngoài với số lượng không giới hạn, miễn là đã nộp song thuế khấu trừ.
Ngoài các quy định trong luật ĐTNN tại Việt nam về các biện pháp bảo đảm vốn chuyển lợi nhuận, nhà nước ta còn ký các khoản thoả ước quốc tế về bảo hộ vốn ĐTNN với các nước: Mỹ, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Phần Lan, Đức, Hungari, Indonexia, Ý, Malaysia, Hà Lan, Ba Lan, Hàn Quốc, Philipine, Thuỵ Sỹ, Đài Loan, Thái Lan...
Qua các quy định của pháp luật Việt nam về việc chuyển vốn, các khoản vay, các khoản thu nhập khác của các nhà ĐTNN, người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã cho thấy rằng pháp luật Việt nam rất mềm dẻo, cở mở hơn so với các nước khác về thủ tục chuyển tiền, số lượng tiền được cho phép, bởi vì có những nước lại quy định rất chặt chẽ về thủ tục như Ấn Độ hoặc có nước quy định khống chế lượng tiền gửi ra nước ngoài như Đài Loan điều này thể hiện được chính sách bảo hộ đầu tư cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, người nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, người nước ngoài làm việc cho các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong các lĩnh vực nêu trên.
3. Biện pháp đảm bảo chống cạnh tranh
a. Chống cạnh tranh của hàng nhập khẩu
Tuy là hiện nay chưa có quy định của pháp luật về vấn đề này nhưng trên thực tế nhà nước Việt nam đã thực hiện việc chống cạnh tranh không bình đẳng của hàng nhập khẩu để bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài khi mà họ đã sản xuất mặt hàng đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Điển hình là việc chống nhập khẩu bia, bột giặt, các loại thép xây dựng mà các doanh nghiệp đã sản xuất được hay việc đánh thuế cao đố với nhập khẩu ô tô.
Những biện pháp này vô cùng thiết thực và đã đem lại hiệu quả tốt, nhằm tác động trực tiếp tới năng lực sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, bởi vì với tình hình hiện nay, nạn chốn thuế tràn lan khắp nơi sẽ làm phá giá và gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm của các nhà doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Ở Inidonexia, Phipinre, Trung Quốc, Đài Loan và một số nước khác cũng quy định cấm nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước đã đáp ứng, hoặc sẽ đánh thuế thật cao đối với những mặt hàng không khuyến khích nhập này, nhằm bảo hộ sản xuất cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN lẫn các doanh nghiệp trong nước.
b. Bảo đảm chống cạnh tranh thông qua việc hạn chế tham gia kinh doanh, hạn chế cấp giấy phép đầu tư trong một số ngành nghề.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề cạnh tranh sẽ xảy ra vô cùng gay gắt và không thể tránh khỏi. Để đảm bảo quyền lợi các nhà đầu tư nhất là trong lĩnh vực ngành nghề đòi hỏi vốn lớn như sản xuất ô tô, vi mạch điện tử, luyện kim.... Chính phủ Việt nam đã áp dụng một số biện pháp như: hạn chế việc tham gia kinh doanh trong các ngành ô tô, sữa, bia, nước uống. Thông qua việc cấp giấy phép đầu tư, không cho hưởng các ưu đã, khuyến khích, đồng thời đưa ra các điều kiện khắt khe hơn đối với các dự án thuộc lĩnh vực này. So với các nước không có quy đinh này như: Indonexia, Hàn Quốc, Paskitan thì các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được cấp giấy phép trong lĩnh vực này từ trước rất hoan nghênh.
Có thể nó mặc dù lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức, cũng như hệ thống pháp luật về đầu tư của nhà nước ta chưa đồng bộ, nhất quán, triệt để nhưng so với các nước trong khu vực thì các quy định của pháp luật Việt nam vẫn có độ cở mở hơn, mang tính khuyến khích, các tác động tích cực đến kết quả thu hút vốn ĐTNN tại Việt nam.
4. Vấn đề giải quyết tranh chấp.
Trong hợp tác đầu tư, việc bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia quan hệ ĐTNN khi có tranh chấp xẩy ra là điều quan trọng không thể thiếu, nhằm duy trì và ổn định các quan hệ ĐTNN, giải quyết công bằng và thoả đáng các bất đồng, mâu thuẫn của các bên trong hợp tác kinh tế. Quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh việc phân chia lợi ích hoặc kết quả kinh doanh thường dẫn đến các bất động, mâu thuẫn là điều tất yếu, khó tránh khỏi.
Pháp luật đề ra các biện pháp giải quyết tranh chấp không phải là khuyến khích các bân chanh chấp với nhau mà là pháp luật dự liệu trước những khả năng, trường hợp có thể xảy ra, nên có các quy định điều chỉnh kịp thời một khi chúng nảy sinh trong thực tế.
Vấn đề này, Điều 24 Luật ĐTNN 1996 quy đinh: " Các chanh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc giữa các bên liên doanh cũng như các chanh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải". Như vậy theo quy định của pháp luật Việt nam đối với những chanh chấp nêu trên thì bước đầu tiên có tính bắt buộc là phải thông qua thương lượng, hoà giải.
Như chúng ta đã cam kết, hợp tác đầu tư với nước ngoài là một hành động tự nguyện dựa trên sự thoả thuận giữa các bên về những điều kiện cần thiết cho việc thành lập một liên doanh. Bởi vậy khi xảy ra chanh chấp pháp luật Việt nam vẫn tôn trọng tính tự nguyện của họ và yêu cầu họ tiếp tục thương lượng, hoà giải với nhau. Thông thường nguyên nhân sâu xa của việc tranh chấp là do các bên chưa thoả thuận được về một vấn đề nào đó. Bằng thương lượng, hoà giải họ sẽ có dịp ngồi lại để thoả thuận các điều kiện hợp tác với nhau và như vậy các bên dễ dàng thực hiện các giải pháp mà mình đưa ra.
Thương lượng, hoà giải sẽ giúp các bên tránh được những thủ tục phiền hà, gây rắc rối, đỡ tốn kém, giữ được tính hợp pháp thân thiện, thông cảm và tôn trọng nhau. Qua biện pháp này các bên sẽ hiểu nhau và từ đó đạt hiệu quả tốt hơn. Điều này phù hợp với những quy định chung của quốc tế nhằm củng cố mối quan hệ giữa các nhà đầu tư với nhau cũng như với chính phủ nước chủ nhà, tạo môi trường đầu tư tốt. Nhưng nếu như trường hợp thương lượng, hoà giải không thành thì điều 24 Luật ĐTNN 1996 quy định, các bên chanh chấp sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại tổ chức trọng tài hoặc toà án Việt nam theo pháp luật Việt nam. Cụ thể hoá vấn đề này, khoản 2 Điều 102 nghị định 12/CP cũng quy định:" Trong trường hợp hoà giải không thành, các bên chanh chấp có thể thoả thuận một trong các phương thức giải quyết sau đây.
- Toà án Việt nam
- Trọng tài Việt nam hoặc trọng tài nước ngoài, trọng tài quốc tế
- Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập"
Như vậy các tổ chức trọng tài, toà án là cơ quan giải quyết chanh chấp và xét xử của nước Việt nam và đương nhiên khi giải quyết chanh chấp, các tổ chức này phải dựa trên pháp luật Việt nam.
Trước đây, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế do hệ thống trọng tài kinh tế Việt nam giải quyết, từ ngày 1/7/1994, các tranh chấp này do toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân giải quyết, toà án kinh tế được thành lập theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của tổ chức tòa án nhân dân được quốc hội khoá IX kỳ họp IV thông qua ngày 28/12/1993.
Về thủ tục tố tụng tại các tổ chức chanh chấp nói trên tại Việt nam sẽ áp dụng theo luật tố tụng Việt nam cụ thể là:
- Toà án kinh tế áp dụng pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ban hành ngày16/3/1994.
- Trung tâm trọng tài quốc tế áp dụng thủ tục tố tụng quy định trong điều lệ tổ chức trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam ban hành kèm theo với quyết định số 204/TT ngày 28/4/1993 của thủ tướng Chính phủ.
- Trung tâm trọng tài kinh tế Việt nam áp dụng thủ tục tố tụng quy định tại nghị định số 116/CP của Chính phủ ngày 05/9/1994 về tổ chức các hoạt động của trọng tài kinh tế.
Nhà nước ta cũng không bắt buộc tất cả các vụ tranh chấp phải đưa ra trọng tài, toà án Việt nam xét xử theo luật Việt nam, mà cho phép các bên tham gia liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh khi có tranh chấp họ có thể lựa chọn một tổ chức trọng tài để giải quyết theo như hợp đồng các bên thoả thuận trước. Còn nếu như trong hợp đồng, hai bên không thoả thuận trước hình thức giải quyết tranh chấp thì việc giải quyết chanh chấp này sẽ thuộc về luật pháp Việt nam.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0063.doc