Biện pháp cưỡng chế thu tiền của
người phải thi hành án đang do người
thứ ba giữ
Theo Điều 81 LTHADS năm 2014,
phát hiện người thứ ba đang giữ tiền của
người phải thi hành án thì Chấp hành
viên ra quyết định thu khoản tiền đó để
thi hành án và người thứ ba đang giữ tiền
của người phải thi hành án có nghĩa vụ
giao nộp tiền. Chấp hành viên lập biên
bản thu tiền, cấp biên lai cho người thứ
ba đang giữ tiền và thông báo cho người
phải thi hành án. Nếu người thứ ba không
ký vào biên bản thu tiền thì phải có chữ
ký của người làm chứng. Như trên đã chỉ
ra, mặc dù Điều 23 Nghị định 62/NĐ-CP
đã khéo léo bổ sung việc thu “tài sản” của
người phải thi hành án đang do người thứ
ba giữ nhưng thực tiễn áp dụng điều luật
này cũng gặp phải một số khó khăn vướng
mắc tương tự như thực tiễn áp dụng Điều
80 LTHADS năm 2014. Việc xác định tiền,
tài sản đang do người thứ ba giữ là của
người phải thi hành án chứ không phải
của người thứ ba là rất khó khăn. Trường
hợp người thứ ba mang theo tiền, vàng,
bạc, kim khí quý, đá quý trong người thì
Chấp hành viên có được khám xét, lục
tìm hay không? Trường hợp người thứ ba
nhất định không chịu thực hiện nghĩa vụ
giao tiền, tài sản của người phải thi hành
án cho Chấp hành viên thì chế tài đối với
người thứ ba như thế nào và quyền hạn
của Chấp hành viên trong trường hợp đó
ra sao? Nghị định 62/NĐ-CP đã bổ sung
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người thứ ba tại khoản 2 Điều 23
và biện pháp cưỡng chế “cần thiết” để thu
tiền, tài sản nhưng để LTHADS năm 2014
có được chế tài đủ mạnh để cưỡng chế
người thứ ba thì các vấn đề trên cần được
bổ sung vào LTHADS năm 2014.
Trên đây là những nghiên cứu của tác
giả về các biện pháp cưỡng chế thi hành
đối với tài sản là tiền dưới góc độ lý luận
cũng như thực tiễn. Rất mong nhận được
ý kiến phản hồi, đóng góp để có được cái
nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề này
trong nghiên cứu khoa học./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền theo quy định của luật thi hành án dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
1. Một vài nét khái quát chung về
cưỡng chế thi hành án dân sự và cưỡng
chế thi hành án đối với tài sản là tiền
Với ý nghĩa “bảo đảm cho bản án,
quyết định của Tòa án được chấp hành
nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường
tính nghiêm minh của pháp luật, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân và Nhà nước, qua đó góp phần
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước”(1), thi hành án dân sự có ý nghĩa rất
quan trọng. Mặc dù “bản án, quyết định
của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
1 Chính phủ (2014), Tờ trình số 120/TTr-CP ngày
08/05/2014 về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thi hành án dân sự”, Hà Nội.
phải nghiêm chỉnh chấp hành”(2) là một
nguyên tắc hiến định nhưng khác với bản
án, quyết định hình sự có ngay tính cưỡng
chế thì bản án, quyết định dân sự không có
ngay tính cưỡng chế. Nhìn chung, trong
thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án
là biện pháp đầu tiên, rất quan trọng. Sau
khi nhận thấy người phải thi hành án có
khả năng thi hành án mà không tự nguyện
thi hành án thì cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành án dân sự mới cưỡng chế,
buộc người phải thi hành án phải thi hành
nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định
dân sự đã tuyên. Như vậy, cưỡng chế thi
hành án dân sự (CCTHADS) được hiểu là
một biện pháp thi hành án dân sự, theo
đó cơ quan, tổ chức thi hành án có thẩm
quyền bắt buộc người phải thi hành án thi
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
2 Điều 106 Hiến pháp năm 2013.
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN LÀ TIỀN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
TRẦN PHƯƠNG THẢO *
Bài viết này phân tích các quy định của pháp luật thi hành án dân
sự hiện hành về các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền,
chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng và trên cơ sở
đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về
vấn đề này.
Từ khóa: Cưỡng chế, Cưỡng chế thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành đối
với tài sản là tiền.
This paper takes a closer look at regulations in the current Law on
Enforcement of Civil Judgments on coercive enforcement regarding
assets being sum of money. The author, thus, points out some existing
drawbacks and difficulties in the practical application which need
solving to complete the regulations on the mentioned matter.
Keywords: Coerce, coercive judgment enforcement, coercive
enforcement regarding assets being sum of money.
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN...
32 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
hành nghĩa vụ dân sự của mình trong bản
án, quyết định.
Để tránh hiện tượng lạm quyền, mặt
khác để bảo vệ quyền con người, quyền
công dân của những chủ thể bị CCTHADS
thì pháp luật về CCTHADS cần phải quy
định rõ các biện pháp CCTHADS được
áp dụng. Thực tiễn áp dụng các biện
pháp CCTHADS cho thấy hiệu quả của
CCTHADS phụ thuộc rất nhiều vào biện
pháp cưỡng chế được áp dụng có phù hợp
hay không. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra
rằng “các vụ việc dân sự rất đa dạng”(1),
mỗi bản án, quyết định dân sự cần phải
thi hành cũng rất đa dạng nên CCTHADS
phải bao gồm các biện pháp khác nhau.
Vì “không thể đưa ra một giải pháp để áp
dụng cho tất cả”(2) nên tùy thuộc vào đối
tượng của CCTHADS là tài sản hay hành
vi của người phải thi hành án, tùy thuộc
vào từng loại tài sản, giá trị tài sản phải
CCTHADS mà chủ thể có thẩm quyền
phải áp dụng một hoặc một số biện pháp
cưỡng chế khác nhau cho phù hợp với
đặc thù của mỗi bản án, quyết định. Hiện
nay, các biện pháp CCTHADS được quy
định khá đồ sộ trong Luật thi hành án
dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 (sau đây gọi là LTHADS năm
2014). Chỉ riêng nhóm biện pháp cưỡng
chế thi hành nghĩa vụ trả tiền đã gồm 06
biện pháp cụ thể: Khấu trừ tiền trong tài
khoản; Thu hồi, xử lý tiền của người phải
thi hành án; Thu hồi, xử lý giấy tờ có giá
của người phải thi hành án; Trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án; Kê biên,
1 Trần Phương Thảo (2012), “Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ,
Hà Nội, trang 22.
2 Nhà pháp luật Việt – Pháp (2008), Nội dung trao đổi
về một số điểm của Bộ luật tố tụng dân sự, Tài liệu
tham khảo hội thảo tổ chức vào ngày 27/6/2001 tại Hà
Nội, trang 12.
xử lý tài sản của người phải thi hành án;
Khai thác tài sản của người phải thi hành
án. Trong phạm vi của bài viết này, phần
tiếp theo chỉ đề cập đến các biện pháp
cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền
được quy định từ Điều 76 đến Điều 81
LTHADS năm 2014 mà không đề cập đến
các biện pháp cưỡng chế thi hành khác.
Thực tiễn cho thấy, có hai cách thức
buộc người phải thi hành án dân sự phải
thực hiện nghĩa vụ trả tiền là dùng tiền để
trả hoặc dùng tài sản khác để trả. Các biện
pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản
là tiền là các biện pháp được cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền áp dụng nhằm buộc
người phải thi hành án phải thực hiện
nghĩa vụ trả tiền vì họ có tiền để trả. Tiền
đó có thể có trong tài khoản (Điều 76), có
từ thu nhập (Điều 78), có từ hoạt động kinh
doanh (Điều 79) hoặc có tiền do chính họ
(Điều 80) hay người thứ ba đang giữ (Điều
81). Dùng tiền để thi hành nghĩa vụ trả tiền
là cách thức nhanh nhất, thuận lợi nhất nên
trong LTHADS năm 2014, các biện pháp
cưỡng chế đối với tài sản là tiền cũng được
quy định đầu tiên trong các quy định về
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền.
2. Quy định của Luật thi hành án dân
sự năm 2014 về cưỡng chế thi hành đối
với tài sản là tiền – Vướng mắc, hạn chế
và một số kiến nghị
* Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản
Biện pháp này được quy định tại Điều
76 LTHADS năm 2014 và được hướng dẫn
tại Điều 21 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015. Chấp hành viên sẽ áp dụng
biện pháp cưỡng chế này khi người phải
thi hành án có nghĩa vụ trả tiền và họ có
tiền trong tài khoản tại ngân hàng, tổ chức
tín dụng hoặc kho bạc nhà nước nhưng
đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án
TRẦN PHƯƠNG THẢO
33Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
mà họ không chịu tự nguyện thi hành án.
Chấp hành viên phải ra quyết định khấu
trừ tiền trong tài khoản của người phải thi
hành án với số tiền khấu trừ không được
vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí
cưỡng chế. Ngay sau khi nhận được quyết
định về khấu trừ tiền trong tài khoản
của người phải thi hành án, cơ quan, tổ
chức đang quản lý tài khoản phải khấu
trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ
quan thi hành án dân sự hoặc chuyển cho
người được thi hành án theo quyết định
khấu trừ. Nội dung quyết định khấu trừ,
hướng giải quyết trong trường hợp người
bị cưỡng chế có tiền trong nhiều tài khoản
mở tại nhiều nơi khác nhau được hướng
dẫn tại Điều 21 Nghị định 62/2015/NĐ-
CP ngày 18/7/2015. Trường hợp do không
thực hiện ngay quyết định khấu trừ nên
tiền trong tài khoản bị tẩu tán thì ngân
hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho người được thi hành án. Có ý kiến cho
rằng Điều 76 LTHADS năm 2014 đã “đáp
ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng
của thủ tục, hiệu quả của cưỡng chế cũng
như trách nhiệm pháp lý của các chủ thể
trong CCTHADS”(1), tuy nhiên thực tiễn
thi hành điều luật này cho thấy một số
hạn chế, bất cập cần được khắc phục như:
- Thứ nhất, hiệu quả của biện pháp
khấu trừ tiền trong tài khoản phụ thuộc rất
nhiều vào biện pháp bảo đảm phong tỏa
tài khoản, tuy nhiên quy định về biện pháp
phong tỏa tài khoản tại Điều 67 LTHADS
năm 2014 đang bộc lộ nhiều bất cập hạn
chế, làm giảm đi hiệu quả của biện pháp
khấu trừ tiền trong tài khoản. Đó là:
1 Lê Anh Tuấn (2017), “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ, Hà Nội, trang 79.
+ Với sự phát triển rất nhanh của dịch
vụ công nghệ như hiện nay thì thời hạn ra
quyết định phong tỏa tài khoản được quy
định tại khoản 2 Điều 67 “trong thời hạn 24
giờ” vẫn là quá dài, rất có thể xảy ra tình
trạng khi ra quyết định phong tỏa thì người
có tiền trong tài khoản đã kịp thời tẩu tán
tiền trong tài khoản. Thẩm phán người Pháp
Jacques BERTEAUX đã chỉ ra rằng thực chất
“phong tỏa tài khoản là biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ”(2) và để nó thực sự là
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền của người phải thi hành án thì thời hạn
này cần được sửa đổi cho kịp thời hơn.
+ Quy định “Chấp hành viên phải giao
quyết định phong tỏa cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của
người phải thi hành án” tại khoản 2 Điều
67 thiếu tính kịp thời. Việc giao này cần
được quy định rõ là “giao ngay trong
ngày làm việc” bởi nếu không giao ngay
thì sẽ có trường hợp mặc dù Chấp hành
viên đã ra quyết định phong tỏa nhưng
vì không giao ngay nên nơi quản lý tài
khoản của người phải thi hành án vẫn
cho người phải thi hành rút tiền, tẩu tán
tiền trong tài khoản. Mặt khác, khoản 2
Điều 67 cũng mới chỉ quy định cơ quan,
tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản
của người phải thi hành án phải thực
hiện ngay việc phong tỏa tài khoản mà
chưa quy định cụ thể trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp không thực
hiện ngay nên tiền trong tài khoản bị
tẩu tán. Để biện pháp phong tỏa đạt
hiệu quả như mong muốn thì LTHADS
năm 2014 cần quy định bổ sung về vấn
đề này.
2 Jacques BERTEAUX (2018), “Hội thảo pháp luật về
thi hành án”, Tài liệu tham khảo – lưu hành nội bộ,
Bản dịch của Nhà pháp luật Việt Pháp, trang 7.
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN...
34 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
- Thứ hai, Điều 76 LTHADS năm 2014
chưa quy định về mức khấu trừ tiền trong
tài khoản khiến Chấp hành viên khá lúng
túng về mức trừ trong một số trường hợp.
Điều 76 LTHADS năm 2014 mới chỉ quy
định “Số tiền khấu trừ không được vượt quá
nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế”
mà chưa có quy định về các trường hợp
khác như người phải thi hành án có tiền
trong tài khoản nhưng số tiền đó là nguồn
sống duy nhất của họ và những người họ
có trách nhiệm nuôi dưỡng hoặc số tiền
đó là khoản tiền bảo đảm cho một nghĩa
vụ phải thực hiện khác, là khoản tiền để
đền bù dự án, phục vụ lợi ích công cộng
Thiết nghĩ, những trường hợp đặc biệt
này cần được quy định bổ sung trong
LTHADS năm 2014 để Chấp hành viên có
đầy đủ căn cứ pháp lý xác định mức khấu
trừ cho linh hoạt, phù hợp.
*Biện pháp trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án
Biện pháp này được quy định tại Điều
78 LTHADS năm 2014 khi người phải thi
hành án có nghĩa vụ trả tiền và họ có thu
nhập hợp pháp để trả. Theo khoản 1, thu
nhập hợp pháp của người phải thi hành án
gồm “tiền lương, tiền công, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp
pháp khác”. Các khoản tiền này thường
không lớn nên khoản 2 đã quy định biện
pháp này là chỉ được áp dụng theo thỏa
thuận của đương sự; bản án, quyết định ấn
định trừ vào thu nhập của người phải thi
hành án; thi hành án cấp dưỡng, thi hành
án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành
án không lớn hoặc tài sản khác của người
phải thi hành án không đủ để thi hành án.
Khoản 3 quy định mức trừ “cao nhất được
trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng số
tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp
đương sự có thỏa thuận khác. Đối với thu nhập
khác thì mức khấu trừ căn cứ vào thu nhập
thực tế của người phải thi hành án, nhưng
phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của
người đó và người được nuôi dưỡng theo quy
định của pháp luật”. Khoản 4 quy định “Cơ
quan, tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo
hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận
tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ
cấp và các thu nhập hợp pháp khác có trách
nhiệm thực hiện”. Với các nội dung trên,
Điều 78 LTHADS năm 2014 là cơ sở pháp
lý quan trọng để Chấp hành viên áp dụng
biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án. Tuy nhiên, từ thực
tiễn áp dụng điều luật này cho thấy một
số hạn chế, vướng mắc cần phải được khắc
phục thì mới nâng cao hiệu quả của biện
pháp trừ vào thu nhập. Đó là:
+ Thứ nhất: Quy định về mức trừ vào
thu nhập của người phải thi hành án có
thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau,
gây lúng túng cho chấp hành viên khi áp
dụng, cần được sửa cho thống nhất.
Cách hiểu thứ nhất, mức trừ được xác
định theo hai câu: “Mức cao nhất được trừ
vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng
số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường
hợp đương sự có thỏa thuận khác” và “Đối
với thu nhập khác thì mức khấu trừ căn
cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi
hành án, nhưng phải đảm bảo điều kiện
sinh hoạt tối thiểu của người đó và người
được nuôi dưỡng theo quy định của pháp
luật”. Hiểu theo cách này thì cho dù người
phải thi hành án có mức tiền lương, tiền
công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức
lao động cao đến đâu thì chỉ được trừ 30%
số tiền đó của họ, kể cả họ có thu nhập
TRẦN PHƯƠNG THẢO
35Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
đủ để thi hành một lần là xong nghĩa vụ.
Còn với thu nhập khác ngoài tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất
sức lao động thì chỉ được trừ khi tiền đó
đã đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu
của người phải thi hành án và những
người được họ nuôi dưỡng. Ví dụ: Người
phải thi hành án dân sự nhận được thu
nhập từ lương là 15 triệu và thu nhập hợp
pháp khác là 5 triệu. Mức trừ cao nhất vào
lương là 30% x 15 triệu = 4,5 triệu. Số tiền
còn lại 10,5 triệu không được trừ của họ.
Còn thu nhập khác là 5 triệu nhưng giả sử
mức sống tối thiểu là 2 triệu/1 người, họ
phải nuôi 2 con nhỏ, vậy mức 5 triệu thu
nhập khác đó chưa đảm bảo cuộc sống tối
thiểu cho 3 mẹ con họ nên không được
trừ. Hiểu theo cách này có vẻ không hợp
lý khi tổng thu nhập của người phải thi
hành án là 20 triệu nhưng số tiền bị trừ để
thi hành án chỉ là 4,5 triệu, trong khi mức
sống tối thiểu chỉ cần có 6 triệu (trừ khi
có thỏa thuận khác). Vậy 9,5 triệu còn lại
vẫn có khả năng thi hành án nhưng không
được cưỡng chế thi hành án.
Cách hiểu thứ hai, phải tính ra tổng
thu nhập. Ở ví dụ trên, tổng thu nhập là
20 triệu, mức thu nhập này thừa để đảm
bảo sinh hoạt tối thiểu (chỉ là 6 triệu) nên
mức trừ là 30% trên tổng số 20 triệu. Nếu
hiểu theo cách này thì mức trừ cao nhất là
6 triệu, khá hơn cách hiểu thứ nhất nhưng
vẫn không hợp lý bởi với tổng thu nhập là
20 triệu, mức sống tối thiểu chỉ cần 6 triệu,
8 triệu còn lại vẫn có khả năng thi hành án
nhưng không được cưỡng chế thi hành án.
Cách hiểu thứ ba, với thu nhập từ
lương là 15 triệu thì trừ tối đa là 30% là
4,5 triệu, còn lại 10,5 triệu. Thu nhập khác
chỉ là 5 triệu, chưa đảm bảo sinh hoạt tối
thiểu cho người phải thi hành án và hai
con của họ nên lấy 1 triệu từ 10,5 triệu còn
lại từ lương bù vào 5 triệu để đảm bảo
mức sinh hoạt tối thiểu. Số tiền còn lại 9,5
triệu sẽ tiếp tục bị trừ để thi hành nghĩa
vụ trả tiền. Theo cách hiểu thứ ba thì tiền
trừ để thi hành án là cao nhất, với mức 14
triệu.
Vì còn gây ra những cách hiểu khác
nhau nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế
trừ vào thu nhập chưa thống nhất. LTHADS
năm 2014 cần phải sửa đổi, bổ sung để việc
xác định mức trừ được hiểu theo cách thứ
ba, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của
biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập.
- Thứ hai, Điều 78 LTHADS năm 2014
chưa quy định mức trừ cho những trường
hợp đặc thù bởi nếu người phải thi hành án
dân sự là người được hưởng chế độ chính
sách của nhà nước thì cho dù Chấp hành
viên có quyết định trừ vào thu nhập của
những người đó thì cơ quan, tổ chức quản
lý thu nhập này thường không khấu trừ
vì sợ ảnh hưởng đến chính sách riêng đối
với người có công với cách mạng. Trường
hợp cưỡng chế đối với tiền của người phải
thi hành án dân sự do cơ quan bảo hiểm
xã hội chi trả cũng rất vướng mắc bởi quy
định của các văn bản luật liên quan chưa
thống nhất. Theo Điều 78 LTHADS năm
2014 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức trả thu
nhập phải có trách nhiệm thực hiện việc
khấu trừ, còn theo luật bảo hiểm xã hội thì
lại quy định tổ chức bảo hiểm xã hội phải
có trách nhiệm “thực hiện việc trả lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện và
đúng thời hạn”(1). Để khắc phục được vướng
mắc này, Điều 78 LTHADS năm 2014 cần
bổ sung quy định về mức trừ cho những
trường hợp đặc thù trên.
1 Điều 20 Luật bảo hiểm xã hội năm 2016.
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN...
36 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
- Thứ ba, Điều 78 LTHADS năm 2014
chưa quy định cụ thể chế tài đối với trường
hợp cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao
động, Bảo hiểm xã hội nơi người phải thi
hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền
lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp
pháp khác không thực hiện trách nhiệm trừ
tiền của người phải thi hành án mà mới chỉ
quy định một cách chung chung về trách
nhiệm “thực hiện” quyết định trừ vào tiền
của người phải thi hành án. Đây là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm cho
tính khả thi của quy định này không cao.
LTHADS năm 2014 cần phải bổ sung quy
định về chế tài trong trường hợp cơ quan,
tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo hiểm
xã hội nơi người phải thi hành án nhận tiền
lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ
cấp và các thu nhập hợp pháp khác không
thực hiện trách nhiệm trừ tiền của người
phải thi hành án.
*Biện pháp cưỡng chế thu tiền từ
hoạt động kinh doanh của người phải
thi hành án
Biện pháp này được quy định tại Điều
79 LTHADS năm 2014, áp dụng khi người
phải thi hành án dân sự có nghĩa vụ trả tiền
và họ có tiền thu được từ hoạt động kinh
doanh của họ. Về thủ tục, Chấp hành viên
ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh
doanh, khi thu phải để lại số tiền tối thiểu
cho hoạt động kinh doanh và đảm bảo cuộc
sống sinh hoạt của người phải thi hành án
và gia đình. Điều 22 Nghị định 62/NĐ-CP
của Chính phủ còn hướng dẫn Chấp hành
viên thu tiền từ hoạt động kinh doanh theo
định kỳ ngày, tuần, tháng, quý hoặc năm
tùy theo tính chất ngành nghề kinh doanh,
mức tiền thu được căn cứ vào kết quả
kinh doanh trên cơ sở sổ sách giấy tờ và
tình hình kinh doanh thực tế. Mức tiền tối
thiểu để lại, đảm bảo cho mức sinh hoạt tối
thiểu cho người phải thi hành án và những
người họ có trách nhiệm nuôi dưỡngcũng
được hướng dẫn trong Nghị định này. Đó
là những cơ sở pháp lý rất cần thiết nhằm
buộc người phải thi hành án phải thi hành
nghĩa vụ trả tiền của mình. Tuy nhiên, thực
tiễn thi hành các quy định này cho thấy có
một số khó khăn, đặc biệt là vấn đề xác
định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh
của người phải thi hành án. Mặc dù Nghị
định 62/NĐ-CP đã hướng dẫn mức trừ
phải căn cứ trên sổ sách, giấy tờ hoặc tình
hình kinh doanh thực tế, nhưng tình hình
kinh doanh thực tế như thế nào thì không
phải trong mọi trường hợp Chấp hành
viên đều có khả năng đánh giá đúng, từ đó
quyết định về mức thu rất có thể là chưa
phù hợp. Việc xác định mức tiền tối thiểu
cần để lại để tiếp tục duy trì cho hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng là một vấn đề
khá khó khăn. Mặc dù Nghị định 62/NĐ-
CP cũng đã hướng dẫn nhưng hướng dẫn
này còn khá chung chung như: Chấp hành
viên căn cứ vào tính chất, ngành nghề kinh
doanh, quy mô kinh doanh của người phải
thi hành. Thiết nghĩ, để thuận lợi hơn cho
việc áp dụng, LTHADS năm 2014 cần phải
có quy định cụ thể hơn về các vấn đề này.
* Biện pháp cưỡng chế thu tiền của
người phải thi hành án đang giữ
Biện pháp này được quy định tại Điều
80 LTHADS năm 2014 và Điều 23 Nghị
định 62/NĐ-CP, áp dụng khi Chấp hành
viên phát hiện người phải thi hành án có
tiền và có căn cứ cho thấy tiền đó là của
người phải thi hành án, do chính họ đang
giữ. Để áp dụng biện pháp cưỡng chế
này, Chấp hành viên phải ra quyết định
thu tiền, lập biên bản thu tiền, cấp biên
lai cho người phải thi hành án. Trường
TRẦN PHƯƠNG THẢO
37Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
hợp người phải thi hành án không ký vào
biên bản thì phải có chữ ký của người làm
chứng. Mặc dù thuận lợi nổi bật của biện
pháp cưỡng chế này là tiền đang do chính
họ giữ nhưng thực tiễn thi hành điều luật
này vẫn cho thấy có một số khó khăn,
vướng mắc nhất định cần được quy định
cụ thể hơn, như dựa vào căn cứ nào để
Chấp hành viên khẳng định đó là tiền của
người phải thi hành án hay vấn đề tiền
thật, tiền giả, tiền đồng của Việt Nam, tiền
của một quốc gia khác
Điều 80 LTHADS năm 2014 mới chỉ đặt
ra quy định thu tiền do chính người phải thi
hành án đang giữ, chưa quy định linh hoạt
sang thu các tài sản khác có thể quy đổi ra
tiền (ví dụ như vàng, bạc, kim khí quý, đá
quý). Tất nhiên, vì Điều 80 LTHADS năm
2014 được quy định trong nhóm biện pháp
cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền nên
các nhà làm luật đã không quy định về thu
vàng, bạc, kim khí quý, đá quý. Nhưng nếu
xét về độ thuận tiện cho người áp dụng luật
thì việc thu vàng, bạc, kim khí quý, đá quý
nên được quy định bên cạnh biện pháp thu
tiền. Nghị định 62/NĐ-CP tuy đã khéo léo
bổ sung quy định về “thu tiền, tài sản” tại
Điều 23 nhưng đó cũng chỉ là trường hợp
do người thứ ba đang giữ chứ không phải
trường hợp do chính người phải thi hành
án dân sự giữ. Trong thời gian tới, LTHADS
năm 2014 cần quy định bổ sung về vấn đề
này.
* Biện pháp cưỡng chế thu tiền của
người phải thi hành án đang do người
thứ ba giữ
Theo Điều 81 LTHADS năm 2014,
phát hiện người thứ ba đang giữ tiền của
người phải thi hành án thì Chấp hành
viên ra quyết định thu khoản tiền đó để
thi hành án và người thứ ba đang giữ tiền
của người phải thi hành án có nghĩa vụ
giao nộp tiền. Chấp hành viên lập biên
bản thu tiền, cấp biên lai cho người thứ
ba đang giữ tiền và thông báo cho người
phải thi hành án. Nếu người thứ ba không
ký vào biên bản thu tiền thì phải có chữ
ký của người làm chứng. Như trên đã chỉ
ra, mặc dù Điều 23 Nghị định 62/NĐ-CP
đã khéo léo bổ sung việc thu “tài sản” của
người phải thi hành án đang do người thứ
ba giữ nhưng thực tiễn áp dụng điều luật
này cũng gặp phải một số khó khăn vướng
mắc tương tự như thực tiễn áp dụng Điều
80 LTHADS năm 2014. Việc xác định tiền,
tài sản đang do người thứ ba giữ là của
người phải thi hành án chứ không phải
của người thứ ba là rất khó khăn. Trường
hợp người thứ ba mang theo tiền, vàng,
bạc, kim khí quý, đá quý trong người thì
Chấp hành viên có được khám xét, lục
tìm hay không? Trường hợp người thứ ba
nhất định không chịu thực hiện nghĩa vụ
giao tiền, tài sản của người phải thi hành
án cho Chấp hành viên thì chế tài đối với
người thứ ba như thế nào và quyền hạn
của Chấp hành viên trong trường hợp đó
ra sao? Nghị định 62/NĐ-CP đã bổ sung
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người thứ ba tại khoản 2 Điều 23
và biện pháp cưỡng chế “cần thiết” để thu
tiền, tài sản nhưng để LTHADS năm 2014
có được chế tài đủ mạnh để cưỡng chế
người thứ ba thì các vấn đề trên cần được
bổ sung vào LTHADS năm 2014.
Trên đây là những nghiên cứu của tác
giả về các biện pháp cưỡng chế thi hành
đối với tài sản là tiền dưới góc độ lý luận
cũng như thực tiễn. Rất mong nhận được
ý kiến phản hồi, đóng góp để có được cái
nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề này
trong nghiên cứu khoa học./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_bien_phap_cuong_che_thi_hanh_doi_voi_tai_san_la_tien_the.pdf